Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tiểu luận đường lối cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.05 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
****************

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng nghiệp hóa – hiện đại
hóa ở Việt Nam hiện nay. Phân tích quan điểm “cơng nghiệp hóa gắn
với hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức”.
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Hồng Thị Lan
Sinh viên thực hiện: Nhóm 8.

Lớp: 116975

1. Nguyễn Thu An - 20180606
2. Đoàn Ngọc Ánh - 20180632
3. Trương Thị Thanh Hoa - 20183077
4. Dương Tuấn Đạt - 20130803

Hà nội, ngày 19 tháng 05 năm 2020


MỤC LỤC
1

2


PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 4
1.1

Sự cần thiết của đề tài .......................................................................................... 4

1.2

Đối tượng nghiên cứu........................................................................................... 4

1.3

Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 4

1.4

Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 4

1.5

Nội dung nghiên cứu ............................................................................................ 4

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................. 5
2.1

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa ............ 5

2.1.1

Khái niệm cơng nghiệp hố, hiện đại hố. ........................................................ 5


2.1.2

Mục tiêu của cơng nghiệp hố, hiện đại hố. .................................................... 5

2.1.3

Quan điểm cơng nghiệp hố, hiện đại hố. ....................................................... 5

2.1.4

Cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay ....................................... 8

2.2 Cơng nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức............................................................................................................ 12
2.2.1

Kinh tế tri thức ............................................................................................ 12

2.2.2 Phân tích quan điểm “Cơng nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa-hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức”................................................................. 14
2.3

Các giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
19

3

LIÊN HỆ VỚI VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN .......................................................... 20

4


PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................ 22

5

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 24

2


Danh mục chữ viết tắt
TT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

1.

CNH

Công nghiệp hóa

2.

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

3.


HĐH

Hiện đại hóa

4.

KTTT

Kinh tế thị trường

5.

OECD

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

3


1 PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Sự cần thiết của đề tài
Nếu như thế kỷ XX trong lịch sử Việt Nam là thế kỷ của những biến đổi to lớn và sâu sắc,
thế kỷ đấu tranh gian nan oanh liệt giành lại độc lập tự do thống nhất Tổ quốc, thế kỷ của những
chiến cơng và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại, thì bước vào thế kỷ XXI sứ mệnh thiêng
liêng của toàn dân tộc chúng ta là phải tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Sau 20 năm đổi mới thế và lực của đất nước ta đã mạnh hơn nhiều, tuy từng bước phát
triển nhưng một số thành phần của kinh tế tri thức như công nghệ thông tin, in-tơ-nét, điện thoại
di động... trong giai đoạn 2001 - 2005 đã phát triển khá nhanh. Nhiều nước phát triển như Trung

Quốc, Hàn Quốc, Phần Lan, Ấn Độ... biết kết hợp phát triển kinh tế tri thức đều đạt tốc độ tăng
trưởng kinh tế khá cao. Do đó, tranh thủ thời cơ mà bối cảnh quốc tế tạo ra, kết hợp nội lực với
các thuận lợi bước đầu về phát triển kinh tế tri thức, Đảng ta đã đề ra đường lối: "Đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức".
Từ đó, đề tài cần nghiên cứu cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và các giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa
hiện nay.
1.2 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về các đối tượng sau:
- Công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
- Cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
1.3 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu ở Việt Nam và trong thời gian hiện nay.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận được xây dựng dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác – Lenin. Kết hợp với các tài liệu sưu tầm trên mạng, sách báo và tự suy luận khách quan.
1.5 Nội dung nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về các nội dung:
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa
- Cơng nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức
- Các giải pháp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

4


2 PHẦN NỘI DUNG
2.1 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa
2.1.1 Khái niệm cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Cơng nghiệp hố, hiện đại hố là q trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản

xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế- xã hội từ sử dụng sức lao động thủ cơng là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp
tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển cao của công nghiệp và sự tiến bộ khoa học- công nghệ,
tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn.
Nó bao gồm 2 nội dung:
- Trang bị kĩ thuật – công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp và các ngành khác của nền kinh
-

tế quốc dân.
Tạo lập cơ cấu kinh tế mới mà nòng cốt là cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ
hiện đại.

2.1.2 Mục tiêu của cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Mục tiêu cơ bản của cơng nghiệp hố, hiện đại hố là cải biến nước ta thành một nước cơng
nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng- an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Đại hội X của Đảng xác định mục tiêu cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát triển kinh
tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
2.1.3 Quan điểm công nghiệp hố, hiện đại hố.
❖ Một là, cơng nghiệp hố gắn với hiện đại hố và cơng nghiệp hố, hiện đại hoá gắn với
phát triển kinh tế tri thức.
Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành cơng nghiệp hóa. Khi đó cơng nghiệp
hóa được biểu hiện là q trình thay thế lao động thủ cơng bằng lao động sử dụng máy móc.
Nhưng trong thời đại ngày nay. Ở đại hội Đảng X đã nhận định: “khoa học và cơng nghệ sẽ có
bước tiến nhảy vọt. kinh té tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất”. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã tác động sâu rộng tới mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó xu thế hội nhập và tác động của q trình tồn cầu hóa đã
tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải

5


và có thể tiến hành cơng nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường
phát triển kết hợp cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa.
Nước ta thực hiện cơng nghiệp hóa hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri thức đã phát
triển. Chúng ta không cần thiết phải trải qua tất cả các bước phát triển rồi mới phát triển kinh tế
tri thức. Đó là lợi thế của các nước đi sau. Vì vậy, đại hội X chỉ rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền
kinh tế và của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kinh tế tri thức (theo OECD): kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập
và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng
cao chất lượng cuộc sống. Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới
sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học, cơng
nghệ. Ví dụ như: cơng nghệ thơng tin, công nghệ sinh học, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng
khoa học công nghệ cao.
❖ Hai là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế.
Thời kỳ đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiền hành trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thành phần. Do đó, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa khơng
phải chỉ là cơng việc của nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế,
trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Ở thời kỳ trước đổi mới phương thức
phân bổ nguồn lực để CNH được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung, còn ở thời kỳ
đổi mới được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị trường. CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế
thị trường khơng những khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của nền kinh tế mà còn sử dụng
chúng có hiệu quả để đẩy nhanh q trình CNH, HĐH đất nước. Bởi vì khi đầu tư vào lĩnh vực
nào, ở đâu, quy mô thế nào, công nghệ gì đều địi hỏi phải tính tốn cân nhắc kỹ càng, hạn chế
đầu tư tràn lan, sai mục đích, kém hiệu quả và lãng phí thất thốt.
CNH, HĐH nền kinh tế nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế, tất yếu
phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thu hút vốn

đầu tư nước ngồi, thu hút cơng nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến, khai thác
thị trường thế giới để tiêu thụ các sản phẩm của nước ta… Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
khó phát triển.
❖ Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh,
bền vững.

6


Đầu tiên, các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ tồn tại dưới
dạng tiềm năng, chúng chỉ có tác dụng khi có sự tác động của con người. Bởi lẽ con người là
nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết lợi dụng, các nguồn lực khác gắn kết
chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cũng tác động vào q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người
và nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên con người biết cách tác
động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố
quan trọng nhất.
Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác. Trong khi đó nguồn
lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vơ tận. Tính vơ tận, trí tuệ con người biểu
hiện ở chỗ nó có khả năng khơng chỉ tái sinh mà cịn tự sản sinh về mặt sinh học mà cịn đổi
mới khơng ngừng phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai
thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát
triển như một quá trình vơ tận.
Trí tuệ con người có sức mạnh vơ cùng to lớn một khi nó được vật thể hố, trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
Mục đích của q trình CNH là nâng cao năng suất lao động, ứng dụng khoa học công nghệ.
Để thực hiện được phụ thuộc vào chất lượng của nguồn nhân lực.

❖ Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của cơng nghiệp hố, hiện
đại hố.

Khoa học cơng nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản
xuất, năng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Nước ta tiến lên chủ
nghĩa từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm lực khoa học, cơng nghệ cịn ở trình độ thấp.
Muốn đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học
công nghệ là tất yếu và bức xúc phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế,
kết hợp và phát triển công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ cơng nghệ
nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.
❖ Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
Xây dựng CNXH ở Việt Nam thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh.
Xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hất kinh tế phải phát triển
nhanh hiệu quả và bền vững. Chỉ có vậy mới có khả năng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời
7


sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách
chênh lệch giữa các vùng…
Sự phát triển nhanh hiệu quả và bền vững có mối quan hệ chặt chẽ với bảo vệ môi trường
tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Môi trường tự nhiên và sự đa dạng sinh học là môi trường
sống và hoạt động kinh tế của con người. Bảo vệ mơi trường tự nhiên chính là bảo vệ điều kiện
sống của con người và cũng là nội dung của sự phát triển bền vững.
2.1.4 Công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
a. Thành tựu đạt được
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ
trương, chính sách góp phần quan trọng tạo nên những thành tựu phát triển công nghiệp đất
nước. Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng, những năm gần đây có đóng góp lớn nhất cho
ngân sách nhà nước, trở thành ngành xuất khẩu chủ đạo với tốc độ tăng trưởng ở mức cao. Cơ
cấu các ngành công nghiệp có sự chuyển biến tích cực, một số ngành cơng nghiệp như: Điện,
điện tử, công nghệ thông tin và viễn thông, chế tạo thiết bị năng lượng, dệt may, da giày, xây
dựng… đã có những bước phát triển mạnh mẽ, góp phần tích cực trong giải quyết việc làm,

chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất và nâng cao đời sống của nhân dân. Cụ thể:
- Tăng trưởng kinh tế
Sau một số năm đầu chuyển đổi gặp nhiều khó khăn, về cơ bản từ năm 1991 đến nay, nước
ta đã duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm
2019 đạt kết quả ấn tượng, tăng trưởng kinh tế năm 2019 đạt 7,02%, vượt mục tiêu của Quốc
hội đề ra từ 6,6-6,8%. Đây là năm thứ hai liên tiếp tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt trên 7% kể
từ năm 2011. Mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mức tăng 7,08% của năm 2018 nhưng cao
hơn mức tăng của các năm 2011 - 2017.Tăng trưởng GDP được đảm bảo đã tạo điều kiện mở
rộng quy mô nền kinh tế. Tiềm lực kinh tế được tăng cường, góp phần nâng cao vị thế đất nước
trên bản đồ kinh tế thế giới và khu vực.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ
cấu vùng kinh tế theo các mục tiêu CNH, HĐH
Cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển tích cực theo hướng CNH, HĐH. Tỷ trọng
ngành nông nghiệp trong GDP giảm dần. Tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
trong GDP tăng.
Việc chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành cũng đã gắn nhiều hơn với các yêu cầu về CNH,
HĐH. Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất của cơng nghiệp khai khống
giảm dần, tỷ trọng của giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến tăng dần, nhất là giai đoạn
20 năm gần đây. Giai đoạn 1996 - 2012, tỷ trọng của ngành cơng nghiệp khai khống trong giá
8


trị sản xuất ngành công nghiệp đã giảm từ 13,52% xuống cịn 7,57%; ngược lại, tỷ trọng ngành
cơng nghiệp chế biến, chế tạo tăng từ 80,26% lên 87,82%. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa
dạng, từng bước đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống của người dân. Trong đó, các
ngành dịch vụ gắn với CNH, HĐH như dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý, bưu chính
viễn thơng... phát triển nhanh trên nhiều mặt.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã góp phần
phát huy tiềm năng, lợi thế của từng thành phần kinh tế trong quá trình CNH, HĐH. Kinh tế nhà
nước đã từng bước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn vào

những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Kinh tế ngoài nhà nước
phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân cho
phát triển kinh tế - xã hội.
- Mức độ hội nhập, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
Đến nay, nước ta đã tham gia hội nhập trên tất cả các cấp độ, từng bước tham gia vào mạng
sản xuất toàn cầu và chuỗi giá trị cung ứng. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện.
Xuất khẩu tăng nhanh và là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Quy mô xuất khẩu
không ngừng mở rộng qua các năm.
Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự chuyển dịch theo định hướng CNH, HĐH. Trong đó, xuất
khẩu có sự thay đổi theo hướng tăng sản phẩm chế biến, nguyên vật liệu, linh kiện và phụ tùng
cho sản xuất, giảm tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng hàng thơ và tài ngun. Trong khi đó, cơ cấu
hàng nhập khẩu đã có sự chuyển dịch theo hướng ưu tiên phục vụ sản xuất để xuất khẩu và đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, trong đó các mặt hàng phục vụ nhu cầu CNH, HĐH và nông
nghiệp, nơng thơn nói riêng như ơ tơ, sắt thép, vải, xăng dầu, chất dẻo, phân bón, thuốc trừ sâu…
có tốc độ tăng cao nhất và chiếm tỷ trọng cao.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng nguồn lực nhân lực
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với q trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu CNH, HĐH. Tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp đã giảm
mạnh. Tỷ trọng lao động ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng liên tục.
Cùng với quá trình dịch chuyển cơ cấu lao động, chất lượng nguồn nhân lực cũng đã có sự
cải thiện đáng kể. Cơng tác dạy nghề từng bước phát triển, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ
mức dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010 và đến năm 2013 là 49%.
- Cải thiện mức sống dân cư, nâng cao khả năng tiếp cận của người dân với các dịch
vụ công cơ bản
Một thành công quan trọng của nước ta qua gần 30 năm đổi mới là đã giải quyết có hiệu quả
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã
hội.
9



Hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội được phát triển đồng bộ, đặc biệt là trong vấn đề
giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, chính sách ưu đãi người có cơng, trợ
giúp xã hội, mở rộng các dịch vụ xã hội công cộng, tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ
nhiều hơn về văn hóa, y tế và giáo dục. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù
chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Đồng thời, q trình thực hiện CNH, HĐH cũng đã góp phần
giải quyết quả vấn đề việc làm. Nhờ đó, tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế giảm đáng kể, từ mức
bình quân 8,39% giai đoạn 1990 - 2000 xuống còn 5,2% giai đoạn 2001 - 2010 và 4,48% giai
đoạn 2011 - 2013.
- Về phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở phục vụ yêu cầu CNH, HĐH
Với chủ trương, chính sách ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở, trong những năm qua
nước ta đã dành lượng vốn hàng năm khoảng 9 - 10% GDP đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng.
Đây là tỷ lệ khá cao nếu so với các nước trong khu vực. Nhờ đó, hệ thống kết cấu hạ tầng được
củng cố và nâng cấp theo hướng chuẩn hóa, phát triển đồng bộ, nâng cao chất lượng, mở rộng
diện phục vụ đến hầu hết mọi miền đất nước, từ thành thị đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Hạ tầng năng lượng cũng đã được đầu tư đảm bảo cung cấp đủ cho phát triển kinh tế - xã hội
và an ninh năng lượng quốc gia. Hệ thống năng lượng hình thành được nguồn cung ứng năng
lượng với cơ cấu đa dạng gồm năng lượng than, dầu khí, thủy năng, các dạng năng lượng khác.
Hạ tầng cơng nghệ thơng tin có bước phát triển khá, ứng dụng công nghệ thông tin đã trở thành
hoạt động thường xuyên, rộng khắp, trong mọi lĩnh vực và phổ biến trong xã hội, gắn kết chặt
chẽ với cải cách thủ tục hành chính trong các cơ quan quản lý nhà nước các cấp với các ngành,
các lĩnh vực kinh tế. Đến năm 2010, số Internet/100 dân đạt 30 và số điện thoại/100 dân đạt 180
vào loại cao trên thế giới.
Hạ tầng thuỷ lợi cũng được đầu tư, qua đó thúc đẩy CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn.
Tỷ lệ đất canh tác trong cả nước được tưới tiêu tăng đáng kể, góp phần quan trọng gia tăng giá
trị và năng suất sản xuất nông nghiệp.
Về hệ thống hạ tầng xã hội, hệ thống mạng lưới các trường đại học, cơ sở y tế phát triển
nhanh, cơ bản đáp ứng có hiệu quả nhu cầu của người dân.
b. Thuận lợi
Trong q trình CNH-HĐH, nước ta có thuận lợi cơ bản là nước đi sau, có thể học hỏi được
kinh nghiệm thành cơng của những nước đi trước và có cơ hội rút ngắn thời gian thực hiện quá

trình này. Trước đây, nước Anh thực hiện CNH đầu tiên, phải mất 120 năm; nước Mỹ đi sau,
chỉ mất 90 năm; sau nữa là Nhật Bản xuống còn 70 năm; và các nước cơng nghiệp mới (NICs)
có hơn 30 năm. Việt Nam thực thực hiện quá trình này trong bối cảnh loài người đang bắt đầu
chuyển sang phát triển kinh tế tri thức (KTTT), với sự bùng nổ của tự động hóa, cơng nghệ
10


thông tin, công nghệ gen, công nghệ nano, công nghệ vật liệu mới... đúng như tiên đoán của C.
Mác và Ph. Ăng-ghen từ giữa thế kỷ XIX: ''Tri thức sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp''.
Đây chính là cơ hội lịch sử hiếm hoi mà thời đại tạo ra để các nước đi sau như Việt Nam rút
ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước đi trước. Việc chuyển nền kinh nước ta sang hướng phát
triển dựa vào tri thức trở thành yêu cầu cấp thiết không thể trì hỗn.
Chính vì thế, tại Đại hội lần thứ IX, lần đầu tiên, Đảng ta đã ghi vào văn kiện luận điểm quan
trọng về phát triển KTTT ''Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then
chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản
phẩm và dịch vụ chủ lực. Cơng nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các
giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế- xã hội,
từng bước phát triển KTTT ở nước ta''. Tới Đại hội X, việc phát triển KTTT được thể hiện rõ
với tư cách là một yếu tố cấu thành đường lối CNH-HĐH đất nước: ''Tranh thủ cơ hội thuận lợi
do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH-HĐH
đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển KTTT, coi KTTT là yếu tố quan trọng của
nền kinh tế và CNH-HĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng
cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng vốn tri thức của con người Việt Nam với tri
thức mới nhất của nhân loại”. Và Đại hội XI, với định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi mơ hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp lý
giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, Đảng ta
tiếp tục khẳng định: ''phát triển mạnh khoa học, cơng nghệ làm động lực đẩy nhanh q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, phát triển KTTT, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên Chủ nghĩa xã hội, trong bối cảnh tồn cầu hóa, chúng

ta phải tiến thành đồng thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công
nghiệp (CNH-HĐH); chuyển từ kinh tế nông-công nghiệp lên KTTT. Trong khi ở các nước đi
trước, đó là hai q trình kế tiếp nhau, thì ở nước ta, tận dụng cơ hội là nước đi sau, hai quá trình
này được lồng ghép với nhau, kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt, tức
là gắn CNH-HĐH với phát triển KTTT.
c. Khó khăn
Tuy có nhiều thuận lợi và đã có nhiều thành tựu, nền cơng nghiệp nước ta thời gian qua phát
triển chưa đáp ứng được yêu cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, chủ yếu phát triển theo
mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững; nội lực của nền cơng nghiệp cịn yếu, phụ thuộc nhiều
vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi; trình độ cơng nghệ cịn lạc hậu, chậm được đổi
mới; chất lượng sản phẩm, năng suất lao động ngành cơng nghiệp cịn thấp; phát triển cơng
11


nghiệp chưa gắn kết chặt chẽ với các ngành kinh tế khác; còn quá chú trọng vào lao động giá rẻ,
chưa tận dụng tốt được lợi thế trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng... Hiệu quả hoạt động của đa số
doanh nghiệp công nghiệp nhà nước thấp, nhiều dự án công nghiệp quy mô lớn thua lỗ; hầu hết
các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân trong nước là doanh nghiệp vừa và nhỏ; việc cơ cấu lại
các ngành công nghiệp thực hiện còn chậm; năng lực cạnh tranh, khả năng tham gia vào chuỗi
giá trị khu vực, toàn cầu cịn rất hạn chế, sản xuất cơng nghiệp chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá
trị gia tăng thấp; chưa có ngành cơng nghiệp mũi nhọn đóng vai trị dẫn dắt; nhiều ngành công
nghiệp ưu tiên phát triển không đạt mục tiêu đề ra; công nghiệp hỗ trợ kém phát triển, tỉ lệ nội
địa hố của các ngành cơng nghiệp ở mức thấp; tình trạng ơ nhiễm mơi trường từ phát triển cơng
nghiệp ngày càng trầm trọng...

2.2 Cơng nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức
2.2.1 Kinh tế tri thức
a. Khái niệm
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm năm 1995: “Nền kinh tế tri

thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất
đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải nâng cao chất lượng cuộc sống”.
b. Vai trò của nền kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự phát triển chưa từng thấy
của nhân loại.
Kinh tế tri thức có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển xã hội ngày nay. Phát triển kinh
tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách lạc hậu. Từ những tri thức, công nghệ kỹ thuật mới,
các tư liệu lao động mới, hệ thống máy móc thơng minh, tự động hóa sẽ được tạo ra. Q trình
đó sẽ giúp phát hiện và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao động mới, những nguyên liệu mới, năng
lượng mới,…có thể trước đây chưa từng xuất hiện, tạo ra nhiều giá trị sử dụng mới, đáp ứng
thỏa mãn nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn, giảm bớt việc khai thác các nguồn tài nguyên.
Kinh tế tri thức là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Kinh tế tri thức được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất sử dụng công nghệ
cao. Từ đó mà tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của tồn bộ nền kinh tế.
-

Nó thúc đẩy công nghiệp phát triển nhanh thông qua các cuộc cách mạng, cách mạng
xanh, cách mạng sinh học.
12


-

Nó thúc đẩy cơng nghiệp, khơng ngừng gia tăng hàm lượng khoa học – kỹ thuật, công
nghệ trong sản phẩm cơng nghiệp qua đó mà gia tăng giá trị sử dụng, giá trị trao đổi của

-

sản phẩm cơng nghiệp.

Nó thúc đẩy trí nghiệp ở các ngành dịch vụ, thơng tin, thương mại, tiền tệ… với nhiều

-

hình thức phong phú.
Nó thúc đẩy việc nâng cao đời sống xã hội, hướng đến một nền văn minh cao hơn.

c. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức
Trong nền kinh tế tri thức, các yếu vật chất cũng như hàm lượng vật chất trong các sản phẩm
ngày càng giảm, hàm lượng tri thức, lao động chất xám, lao động trí óc tăng lên, chiếm tỷ trọng
ngày càng cao lớn trong giá trị sản phẩm.
Trong nền kinh tế tri thức, các sản phẩm trí tuệ dựa vào nguồn lực hàng đầu là tri thức. Đây
là nguồn vốn cơ bản của quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội, thay vì chỉ là đất đai, tài
nguyên và vốn tiền tệ như trước đây. Thơng tin, kiến thức lao động có trình độ cao được sử dụng
nhiều, ít sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Những trung tâm cơng nghệ cao được hình thành. Đặc
biệt tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ thuật cao là thành phần quan trọng của
lực lượng sản xuất, là lợi thế phát triền kinh tế. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa.
Sự sáng tạo đổi mới trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người.
Cơ cấu kinh tế kỹ thuật thay đổi một cách sâu sắc, theo hướng tri thức hóa, làm thay đổi
phương thức tổ chức và quản lý không chỉ trong các ngành đó mà cịn tác động đến các ngành
kinh tế khác trong nền kinh tế. Do những thay đổi trong cơ cấu kinh tế - kỹ thuật sẽ làm thay đổi
về chất trong cơ cấu sản phẩm, làm thay đổi cơ cấu giá trị sản phẩm, điều này tất yếu dẫn đến
sự thay đổi trong cơ cấu lao động xã hội.
Qui trình cơng nghệ trong sản xuất ln luôn được thay đổi, làm cho năng suất lao động ngày
càng tăng, cường độ lao động ngày càng giảm, chủng loại sản phẩm ngày càng đa dạng, phong
phú, chất lượng sản phẩm ngày càng cao, giúp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cuộc sống.
Sự cạnh tranh được tạo điều kiện đầy đủ, sự tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, tạo ra lợi thế
cho quốc gia, tác động lớn đến đời sống xã hội.
Siêu xa lộ thông tin trong hệ thống mạng tồn cầu được hình thành, có ảnh hưởng to lớn đến
lĩnh vực khoa học, kinh tế và văn hóa, quan hệ quốc tế, đặc biệt giúp mở rộng thị trường cho

các nước… bởi vì nó đảm bảo sự tham gia đông đảo của tất cả các quốc gia trên thế giới. Siêu
xa lộ thông tin sẽ tạo ra một xã hội tri thức, xã hội thông tin mà khơng có biên giới.
Trong điều kiện của kinh tế tri thức, các thành tựu khoa học – công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin được phổ biến và ứng dụng hết sức nhanh chóng, trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Các ngành kinh tế được tri thức hóa đều phải dựa vào cơng nghệ mới để đổi mới và phát
13


triển. Chỉ khi nào các ngành công nghệ cao, ứng dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật hiện đại
do tri thức đem lại chiếm trên 2/3 tổng giá trị thì nền kinh tế tri thức mới được tỏ rõ.
Nền kinh tế và xã hội luôn luôn đổi mới, cái mới ngày càng nhiều. Đó là đặc trưng của sự phát
triển, của sự tiến hóa xã hội và sự phát triển từ cái mới.
2.2.2 Phân tích quan điểm “Cơng nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa-hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức”
a. Cơng nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa.
Quan điểm của Đảng về cơng nghiệp hóa: giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với hợp tác, mở
rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế. Dựa vào nguồn lực
trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh
tế mở hướng mạnh về sản xuất cho xuất khẩu, đồng thời thay thế sản phẩm nhập khẩu có hiệu
quả. Cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa là sự nghiệp của tồn dân, được mọi thành phần kinh tế tham
gia, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Lấy việc phát huy yếu tố con người làm chủ đạo, tăng trưởng kinh tế gắn liề nvới cải thiện
đời sống người dân, tăng cường dân chủ, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội. Khoa học công
nghệ là động lực của cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa, kết hợp công nghệ truyền thống và công
nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những khâu có tính chất quyết định.
Lấy hiệu quả kinh tế và tiêu chuẩn cơ bản để xây dựng phương án phát triển, lựa chọn dự án
đầu tư phát triển và cơng nghệ, đầu tư có chiều sâu để khai thác tối đa nguồn lực hiện có, trong
phát triển mới ưu tiên phát triển quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu
hồi vốn nhanh, đồng thời xây dựng một số cơng trình quy mơ lớn cần thiết và có hiệu quả. Kết
hợp chặt chẽ tồn diện, phát triển kinh tế quốc phòng.

Chúng ta phải tiến hành cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa gắn liền với hiện đại hóa do hồn cảnh
cụ thể của nước ta hiện nay. Trên thế giới khoa học công nghệ phát triển rất mạnh mẽ, các thành
tựu khoa học tiên tiến ra đời, q trình tồn cầu hóa phát triển mạnh mẽ. Trong khi nhiều nước
đã hồn thành q trình cơng nghiệp hóa và đạt được nhiều thành tựu to lớn thì bây giờ Việt
Nam mới bắt đầu cơng cuộc này. Tình hình trong nước, nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu, sử
dụng cơng cụ thơ sơ, khơng có sự áp dụng các thành tựu tiên tiến trên thế giới vào sản xuất,
chiến tranh kéo dài và hậu quả chiến tranh tàn phá nặng nề, lũ lụt hạn hán xảy ra hằng năm, tàn
phá của cải, sự quản lý của nhà nước đang yếu kém, thời kỳ bao cấp đang cịn. Chính vì vậy
chúng ta phải tiến hành cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa để có thể nhanh chóng đuổi kịp các nước
tiên tiến trên thế giới từ đó thực hiện mục tiêu đi trước đón đầu. Đồng thời có thể giúp chúng ta
xây dựng nhanh chóng và thành cơng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Tóm lại muốn rút
14


ngắn khoảng cách lạc hậu so với các nước phát triển thì Việt Nam cần tiến hành cơng nghiệp
hóa phải gắn liền với hiện đại hóa.
b. Nội dung và định hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát triển kinh tế tri
thức.
- Phát triển kinh tế tri thức là một xu thế tất yếu.
Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, chỉ khác nhau ở mức độ nhiều hay ít.
Kinh tế nơng nghiệp, khởi đầu cách đây khoảng mười ngàn năm, phải dựa nhiều vào hiểu biết
về canh tác, chăn nuôi, thời tiết... tức là những tri thức cơ bản về nông nghiệp. Nhưng lúc đó đất
đai, lao động thủ cơng lại quan trọng hơn, nên tri thức chỉ đóng vai trị thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XVIII, kinh tế công nghiệp cơ giới xuất hiện và phát triển mạnh,
dựa vào các tri thức cơ học cổ điển để chế tạo ra máy móc cơ khí phục vụ sản xuất. Nhưng để
hình thành được thị trường hàng hóa của kinh tế cơng nghiệp cổ điển thì tài nguyên và vốn (tư
bản) lại quan trọng hơn nên tri thức cơ học cổ điển cũng chỉ có vai trị thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XX, kinh tế công nghiệp cổ điển hết tiềm năng phát triển và bắt đầu
suy thối, vì tài ngun trở nên cạn kiệt, ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, chiến tranh hủy diệt
đe dọa thường xuyên... Trong bối cảnh đó cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại xuất

hiện và phát triển bùng nổ, dựa trên những khối tri thức khổng lồ, rất mới và vô cùng phong phú
về thế giới vật chất vĩ mô và vi mô, với thuyết tương đối và thuyết lượng tử. Lực lượng sản xuất
mới được hình thành dựa trên nguồn lực chủ yếu là tri thức, tạo nên hệ thống công nghệ cao với
máy móc thơng minh mà điển hình là máy tính điện tử (máy điện tốn) mơ phỏng não người.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới này đã dẫn tới một hình thái kinh tế mới.
Đó là một nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức, sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức
đưa vào ứng dụng là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm
cho tất cả các ngành kinh tế. Nhà kinh tế học P.F.Durker gọi đó là nền kinh tế tri thức và tên gọi
này hiện nay đã trở thành phổ biến với việc sử dụng chính thức của Ngân hàng thế giới. Trong
nền kinh tế mới, kinh tế tri thức sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực tri thức. Tài nguyên và vốn
dù quan trọng vẫn chỉ giữ vai trò thứ yếu.
Như vậy, trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại con người là động vật duy nhất có
năng lực sáng tạo tri thức, do đó biết lao động sản xuất và tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri
thức là chính. Bởi vậy, kinh tế tri thức là một lịch sử tất yếu.
Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khoảng từ giữa thế kỷ XX, dựa trên những tri thức
sáng tạo, đi sâu vào thế giới vĩ mô và thế giới vi mô, dẫn tới sự phát minh ra các máy móc, thuộc
loại hồn tồn mới, gọi là máy móc thơng minh. Điển hình là máy điện tốn, mơ phỏng được
những chức năng chủ yếu của não người: biết nhớ, biết tính tốn kể cả các bài toán rất phức tạp,
15


biết thực hiện các lệnh, biết tư vấn cho người dùng trong một số việc..., đóng vai trị chính trong
các hệ tự động hóa tồn phần của sản xuất và trong các mạng thơng tin tồn cầu. Máy móc thơng
minh kết hợp với tri thức sáng tạo trở thành nguồn lực của các công nghệ cao như: công nghệ
thông tin hoặc công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên
tiến - nano..., trong đó cơng nghệ thơng tin và truyền thơng giữ vai trị dẫn đầu. Hệ thống cơng
nghệ cao là cốt lõi của lực lượng sản xuất mới. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất
mới đã thúc đẩy hình thành nền kinh tế tri thức trong nửa sau của thế kỷ XX.
- Cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Trong q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, nước ta có thuận lợi cơ bản là nước đi sau,

có thể học hỏi được kinh nghiệm thành công của những nước đi trước và có cơ hội rút ngắn thới
gian thực hiện quá trình này. Trước đây, nước Anh thực hiên cơng nghiệp hóa đầu tiên, phải mất
120 năm; nước Mỹ đi sau chỉ mất 90 năm; sau nữa là Nhật Bản chỉ mất 70 năm; và các nước
cơng nghiệp mới (NICs) có hơn 30 năm. Việt Nam thực hiện quá trình này trong bối cảnh loài
người đang bắt đầu chuyển sang phát triển kinh tế tri thức, với sự bùng nổ của tự động hóa, cơng
nghệ thơng tin, cơng nghệ gen, cơng nghệ nano, công nghệ vật liệu mới đúng như tiên đoán của
C.Mác và Ph. Ăng-ghen từ giữa thế kỉ XIX: “Tri thức sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”.
Đây chính là cơ hội lịch sử hiếm hoi mà thời đại tạo ra để các nước đi sau như Việt Nam rút
ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước đi trước. Việc chuyển nền kinh tế nước ta sang hướng
phát triển dựa vào tri thức trở thành yêu cầu cấp thiết khơng thể trì hỗn.
Tại Đại hội lần thứ IX, lần đầu tiên, Đảng ta đã ghi vào văn kiện luân điểm quan trọng về
phát triển kinh tế tri thức “Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then
chốt để tạo bước nhảnh vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội từ đầu và
trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển
kinh tế - xã hội, từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta”. Tới Đại hội X, việc phát triển
kinh tế tri thức được thể hiện rõ với tư cách là một yếu tố cấu thành đường lỗi cơng nghiệp hóa
– hiện đại hóa đất nước: “Tranh thủ cơ hội thuân lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi
thế của nước ta để rút ngắn q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước theo định hướng
xhcn gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế
và cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa. phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia
tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng vốn tri thức của con người Việt Nam với
tri thức mới nhất của nhân loại”. Tại Đại hội XI, với định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh
tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp lý
giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững; Đảng ta
tiếp tục khẳng định: “Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình

16


cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức, góp phần tăng nhanh năng suất, chất

lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nên kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”.
- Nội dung:
Phát triển mạnh các ngành, sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức,
kết hợp sử dụng các nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân
loại.
Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất
nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế - xã hội.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ.
Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh vực, nhất là
các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
- Định hướng phát triển
+ Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thôn, giải quyết đồng bộ
các vấn đề nông nghiệp, nông thơn, nơng dân.
Một là, về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn: Chuyển dịch mạnh cơ cấu
nơng nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường; Đẩy nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ sinh học vào
sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nơng sản hàng hóa, phù hợp đặc
điểm từng vùng và từng địa phương; tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành
công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
Hai là, về qui hoạch và phát triển nông thôn: Khẩn trương xây dựng các qui hoạch phát triển
nơng thơn, thực hiện chương trình nơng thơn mới; hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu
kinh tế - xã hội đồng bộ; phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa,
nâng cao trình độ dân trí, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Ba là, về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn: Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm
cho nông dân. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao
động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao
động nơng thơn có việc làm trong và ngồi khu vực nơng thơn, kể cả đi lao động nước ngồi;
đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói, giảm nghèo.
+ Phát triển nhanh hơn cơng nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Một là, đối với công nghiệp và xây dựng: Khuyến khích phát triển cơng nghiệp cơng nghệ

cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh,
tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và
đặc khu kinh tế; nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp và khu chế xuất; Tích cực thu hút
vốn trong và ngoài nước để thực hiện các dự án quan trọng. Hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô.
17


Có chính sách thu hút chun gia giỏi ở nước ngoài; Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật
kinh tế - xã hội. Phát triển công nghiệp năng lượng gắn với công nghệ tiết kiệm năng lượng.
Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính viễn thơng.
Hai là, đối với dịch vụ: Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những
ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh; mở rộng và nâng cao các ngành
dịch vụ truyền thống như vận tải, thương mại, ngân hàng, bưu chính viễn thông, du lịch. Phát
triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; phục vụ đời sống khu vực nông
thôn; đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.
+ Phát triển kinh tế vùng
Một là, có cơ chế chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước phát triển nhanh hơn trên
cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, đồng thời tạo ra sự liên kết giữa các vùng, khắc
phục tình trạng chia cắt khép kín theo địa giới hành chính.
Hai là, xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam để tạo
đông lực phát triển và sự lan tỏa đến các vùng khác, có chính sách trợ giúp nhiều hơn về nguồn
lực để phát triển các vùng khó khăn.
+ Phát triển kinh tế biển
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển (hệ thống cảng biển và vận tải biển,
cơng nghiệp đóng tàu biển, khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát
triển du lịch,...). Sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn
với bảo đảm quốc phòng - an ninh và hợp tác quốc tế.
+ Chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ
Một là, phát triển nguồn nhân lực có cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao; giảm tỷ lệ lao động
trong khu vực nông nghiệp, đến năm 2010 còn dưới 50% lực lượng lao động xã hội.

Hai là, lựa chọn và đi ngay vào công nghệ hiện đại ở một số ngành và lĩnh vực then chốt.
Chú trong phát triển công nghệ cao để tạo đột phá và công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải
quyết việc làm.
Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo. Thực
hiện chính sách trọng dụng nhân tài.
Bốn là, đổi mới cơ chế quản lý khoa học và cơng nghệ, đặc biệt là cơ chế tài chính.
+ Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên
Một là, tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia. Quan tâm đầu tư vào lĩnh vực mơi trường,
khắc phục tình trạng xưống cấp mơi trường. Ngăn chặn các hành vi hủy hoại và gây ô nhiễm
môi trường; thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải xử lý ô nhiễm hoặc chi trả cho việc
xử lý ô nhiễm.

18


Hai là, từng bước hiện đại hóa cơng tác nghiên cứu, dự báo khí tượng - thủy văn, chủ động
phịng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn.
Ba là, xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đơ thị hóa với bảo vệ mơi
trường, bảo đảm phát triển bền vững.
Bốn là, mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên, chú
trọng lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.

2.3 Các giải pháp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức
Vấn đề quan trọng hàng đầu là, chúng ta phải chủ động phát huy năng lực sáng tạo tri thức
ở trong nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội tiếp thu tri thức của thế giới tồn cầu hóa.
Thực vậy, trong điều kiện chưa có đủ nguồn lực để phát triển kinh tế tri thức lên ngay trình
độ cao, ta phải coi trọng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đẩy mạnh hợp tác về công
nghệ cao trong nhiều lĩnh vực, trên cơ sở cùng có lợi. Qua hội nhập và hợp tác cùng với việc
gửi đi nâng cao trình độ ở nước ngoài, các chuyên gia Việt Nam từng bước trưởng thành, có thể

chủ động trong ứng dụng các cơng nghệ cao và tiến tới sáng tạo tri thức mới rất cần thiết cho
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở trình độ cao. Nhiều ví dụ trong cơng nghiệp điện tử, trong thiết
lập mạng viễn thông quốc gia, trong công nghiệp chế biến nông sản phẩm, trong chế tạo trang
thiết bị cơ - điện tử... đã cho thấy kết quả tốt và đạt bước tiến nhanh rõ rệt.
Để cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh, nơng nghiệp phải gắn kết với phát triển ứng dụng
tri sáng tạo mới, cụ thể là: phải chuyển giao tri thức về công nghệ sinh học, tri thức về giống
cây, con chất lượng và năng suất cao, về canh tác và chăn nuôi hiện đại cho nông dân. Đồng
thời phải cung cấp tri thức về tổ chức sản xuất gắn với thị trường và về xây dựng nông thôn mới
và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong mọi hoạt động hiện đại hóa
nơng nghiệp.
Trong cơng nghiệp và xây dựng thì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ gắn kết thuận lợi với
phát triển kinh tế tri thức vì cơng nghiệp trong kinh tế thị trường là rất hiện đại dựa vào các công
nghệ cao. Trước hết công việc thiết kế của công nghiệp và xây dựng ở mọi cấp phải chuyển
nhanh từ thiết kế thủ công sang thiết kế dùng máy tính sẽ rất chính xác và nhanh chóng, tranh
thủ khai thác các phần mềm thiết kế và thư viện các thiết kế sẵn có. Ngành chế tạo cũng phải
chuyển nhanh sang sử dụng máy thơng minh có "nhúng" máy điện tốn tự động hóa hồn tồn
hoặc robot, hoặc các dây chuyền máy tự động hóa tồn phần.
Việc tiếp thu nắm vững công nghệ cao trong công nghiệp và xây dựng sẽ là điểm tựa để
chúng ta có thể sáng tạo thêm nhiều tri thức mới trong lĩnh vực này. Chúng ta bước đầu đã đạt
được một số kết quả khích lệ trong hiện đại hóa nền cơng nghiệp và xây dựng kết cầu hạ tầng.
19


Nhưng nhìn chung vẫn cịn tụt hậu về cơng nghiệp công nghệ cao. Gần đây, sau khi gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), số dự án công nghệ cao đã tăng nhanh với vốn đầu tư lớn
hứa hẹn triển vọng tốt.
Dịch vụ là một lĩnh vực rất lớn của kinh tế tri thức, có khi chiếm đến trên 70% GDP, bởi
vậy gắn kết với phát triển kinh tế tri thức sẽ có thuận lợi đẩy mạnh hiện đại hóa nhanh dịch vụ
ở nước ta. Các ngành dịch vụ quan trọng như thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch, y tế,
giáo dục, pháp luật... bắt buộc phải nhanh chóng chuyển sang ứng dụng cơng nghệ thơng tin,

mạng in-tơ-nét, viễn thơng tồn cầu... Thời gian qua một số ngành dịch vụ nước ta đã có tiến bộ
đáng kể trong hiện đại hóa, nhưng nhìn chung chưa khai thác hết tiềm năng, đáng lý cịn có thể
đóng góp cho tăng trưởng kinh tế nhiều hơn nữa.
Về mặt xã hội có nhiều loại dịch vụ quan trọng cần hiện đại hóa theo hướng kinh tế tri
thức. Tuy nhiên, đối với một nước đang phát triển như nước ta, có định hướng xã hội chủ nghĩa,
thì cần tập trung vào dịch vụ hành chính điện tử (hoặc chính phủ điện tử). Đây là một cuộc cách
mạng thực sự hướng tới chủ nghĩa xã hội, vì nó, nếu được xây dựng đúng đắn và đầy đủ, sẽ
khách quan bảo đảm được công khai, minh bạch, không tham nhũng, công bằng, dân chủ, văn
minh. Đáng tiếc là thời gian qua có quyết tâm cao, nhưng dùng người chưa đúng nên kết quả
yếu kém, cần rút kinh nghiệm để sắp tới làm tốt hơn. Khi đó sẽ có một nền hành chính điện tử
được hiện đại hóa nhanh dẫn tới rút ngắn được thời kỳ quá độ.
Thời đại chúng ta là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới bắt đầu
từ khoảng đầu thế kỷ XX (1917). Cũng không phải ngẫu nhiên mà cách mạng khoa học công
nghệ bùng lên từ khoảng giữa thế kỷ XX dẫn đến sự khởi đầu kinh tế tri thức và trở thành đặc
trưng của thời đại. Phải chăng đây là phản ánh mối quan hệ biện chứng tất yếu giữa khoa học
và cách mạng, cơ bản tương tự như những lần biến động thay đổi hình thái kinh tế - xã hội trước
đây, nhưng phức tạp và dữ dội hơn nhiều.

3 LIÊN HỆ VỚI VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN
Thế hệ thanh niên ngày nay được sống, lao động, học tập trong môi trường hịa bình;
được thừa hưởng những thành quả của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơng cuộc
đổi mới đất nước; được cống hiến và trưởng thành trong sự ổn định về chính trị, sự phát triển
vững chắc của kinh tế - xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được
cải thiện; được gia đình và xã hội dành cho nhiều cơ hội học tập để có trình độ học vấn, chun
mơn cao hơn các lớp thanh niên đi trước. Những lợi thế đó là hành trang giúp thanh niên vững
bước tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

20



Là một sinh viên Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội – một trường khoa học và công
nghệ lớn của cả nước, chúng ta cần phải cùng nhau thực hiện những điều sau để góp phần đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước ngày nay:
Thứ nhất, sinh viên phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi
đắp lý tưởng cách mạng trong sáng. Bối cảnh cách mạng trong nước và quốc tế đang tác động
lên tất cả các đối tượng thanh niên, tác động một cách toàn diện lên tư tưởng, tình cảm, lối sống,
nhu cầu của từng sinh viên. Do đó, sinh viên phải rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững
vàng, có lịng u nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, có đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh; tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh
bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước; đấu tranh chống lại âm mưu “Diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch và các
tiêu cực, tệ nạn xã hội, tham nhũng…
Thứ hai, sinh viên cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ văn hóa, chun
mơn, khoa học, kỹ thuật, tay nghề. Trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội trong nước và hội
nhập quốc tế, sinh viên nước ta cần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, khả năng thực tế, kỹ
năng lao động để thích ứng với thị trường lao động trong nước và thị trường lao động quốc tế.
Sinh viên phải tích cực tham gia xây dựng xã hội học tập với phương châm: sinh viên nào cũng
phải học, ở đâu, làm gì, thời gian nào cũng phải học; sinh viên nào cũng phải xác định tham gia
học tập thường xuyên, suốt đời là quyền và nghĩa vụ của bản thân.
Thứ ba, sinh viên phải tích cực xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân. Thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc vững chắc. Các đối tượng thanh niên tự nguyện, tụ giác tham gia vào các Hội của thanh
niên, phấn đấu trở thành Đoàn viên, đảng viên của Đảng và hội viên của các tổ chức quần chúng
nhân dân.
Thứ tư, sinh viên phải tích cực tham gia xây dựng môi trường xã hội lành mạnh và mơi
trường sinh thái trong lành, sạch đẹp. Tích cực tham gia phịng chống ơ nhiễm mơi trường, suy
thối mơi trường và ứng phó biến đổi khí hậu tồn cầu.
Thứ năm, sinh viên phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phịng, an ninh. Tích cực tham gia các chương trình, dự án của địa phương; tự nguyện,


21


tự giác tham gia các thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc và giữ
gìn an ninh, trật tự, an tồn xã hội.
Thứ sáu, sinh viên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia giải
quyết các vấn đề tồn cầu; tham gia vào cơng tác ngoại giao nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng
của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có hiệu quả vào giải quyết các vấn đề
toàn cầu như: giữ gìn hịa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ mơi trường
và ứng phó với biến đổi khí hậu tồn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các
dịch bệnh hiểm nghèo…

4 PHẦN KẾT LUẬN
Có thể khẳng định rằng, chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát
triển kinh tế tri thức mà Đảng ta đưa ra tại Đại hội X không chỉ là sự tiếp nối đường lối và chiến
lược cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), mà còn là bước phát triển mới trong
nhận thức của Đảng ta về đường lối tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức là hai nội dung
của một quá trình thống nhất và diễn ra đồng thời. Đảng ta đã xác định rõ rằng, việc thực hiện
các nội dung chiến lược đó ở nước ta hiện nay cần phải dựa vào tri thức. Xuất phát từ một trình
độ thấp về kinh tế và kỹ thuật, để có thể đi nhanh và phát triển theo hướng hiện đại, bền vững,
chúng ta khơng có con đường nào khác ngồi con đường đẩy mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại
hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa với phương thức "rút ngắn thời gian, vừa có những bước
tuần tự, vừa có bước nhảy vọt". Chúng ta cần phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển từ
nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ nền kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri
thức. Điều đó có nghĩa là, một mặt, chúng ta phải phát triển nông nghiệp và các ngành công
nghiệp cơ bản, mặt khác, phải phát triển các ngành kinh tế dựa nhiều vào tri thức và cơng nghệ
cao. Nói cách khác, gắn đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố với phát triển kinh tế tri thức

theo những bước đi và hình thức thích hợp với điều kiện nước ta hiện nay khơng chỉ là q trình
mang tính tất yếu, khách quan, mà còn là con đường duy nhất giúp chúng ta "rút ngắn thời gian"
để có thể trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại như Đảng ta đã xác định.
Bước vào thế kỷ XXI, các nước trong khu vực và trên thế giới đang nỗ lực theo đuổi những
chiến lược phát triển của mình để vươn tới nền kinh tế tri thức. “Trung Quốc tiếp tục thúc đẩy
chính sách chiêu đãi hiền tài; Ấn Độ tăng tốc với kế hoạch nghiên cứu và phát triển, Singapore
22


đang đứng đầu châu Á về công nghệ sinh học. Tồn cảnh một khơng khí hừng hực đầu tư cho
nền kinh tế tri thức đang bùng nổ khắp châu Á”. Việt Nam cũng đang tiếp tục thực hiện công
cuộc đổi mới tồn diện đất nước, chủ động và tích cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế; đồng
thời, mở rộng quan hệ với các nước trên tinh thần hợp tác và phát triển. Đó là những cơ sở để
chúng ta, một mặt, khẳng định tính đúng đắn và khoa học trong quan điểm của Đảng về đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức; mặt khác, hiện thực hoá
đường lối phát triển đó trong thực tiễn.

23


5 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hướng dẫn ôn tập môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam – Nhà xuất
bản Bách Khoa Hà Nội.
2. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng.
3. Cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường
trong

thời kỳ


q

độ -

Nguyễn Thái Sơn

- Tạp

chí Cộng sản -

/>4. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và yêu cầu đối với giáo dục đại học hiện nay />
24



×