Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Nghiên Cứu Khả Năng Sinh Trưởng, Năng Suất Và Chất Lượng Một Số Giống Ngô Nếp Lai Tại Tỉnh Vĩnh Phúc.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.79 KB, 73 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Ngô cùng với lúa mỳ và lúa nƣớc là 3 cây lƣơng thực chính, cổ nhất,
phổ biến rộng, có năng suất cao và giá trị kinh tế lớn của loài ngƣời. Cho đến
giữa những năm 90 của thế kỷ 20, ngơ cịn xếp thứ 3 về diện tích và sản
lƣợng. Năm 1995 sản lƣợng ngơ tồn thế giới đạt 517 triệu tấn, lúa mỳ 542,7
triệu tấn, lúa nƣớc 547,2 triệu tấn, năm 2006 sản lƣợng ngô toàn thế giới là
692 triệu tấn (Theo FAO -2006) [28]. Đến năm 2007 theo USDA, diện tích
ngơ đã vƣợt qua lúa nƣớc, với 157 triệu ha, sản lƣợng đạt kỷ lục với 766,2
triệu tấn (Theo FAOSTAT, USDA 2008) [36]. Nguyên nhân chính dẫn đến
việc tăng nhanh năng suất và sản lƣợng ngô trên thế giới trong thời gian qua,
trƣớc hết là do đời sống kinh tế tồn cầu có sự tăng trƣởng mạnh mẽ, từ đó
nhu cầu về sản phẩm ngô cũng tăng theo. Nhƣng quan trọng hơn là trong
những năm gần đây, cùng với sự phát triển khoa học cơng nghệ nói chung và
trong ngành nơng nghiệp nói riêng, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất cây lƣơng thực đã mang lại những kết quả to lớn, đảm bảo
đƣợc an ninh lƣơng thực trên tồn thế giới.
Vai trị của ngơ trƣớc hết phải nói đến đó là nguồn lƣơng thực ni
sống gần 1/3 dân số thế giới. Tất cả các nƣớc trồng ngơ nói chung đều ăn
ngô ở mức độ khác nhau. Ngô là lƣơng thực chính của ngƣời dân khu vực
Đơng Nam Phi , Tây Phi, Nam Á. Ngô là thành phần quan trọng nhất trong
thức ăn chăn nuôi. Hầu nhƣ 70% chất tinh trong chăn nuôi là tổng hợp từ
ngô, 71% sản lƣợng ngô trên thế giới đƣợc dùng cho chăn nuôi. Ở các nƣớc
phát triển phần lớn sản lƣợng ngô đƣợc sử dụng cho chăn nuôi: Nhƣ Mỹ
76%, Bồ Đào Nha 91%, Italia 9%, Croatia 95%, Trung Quốc 76%, Thái Lan
96%,...(Ngô Hữu Tình, 2003) [17].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Tai ngay!!! Ban co the xoa dong chu nay!!!




2

Ngô đƣợc sử dụng làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến
thực phẩm, tạo ra cồn, rƣợu, bia, tinh bột, bánh kẹo. Ngƣời ta đã sản xuất ra
khoảng trên 670 loại sản phẩm từ ngô bằng công nghiệp lƣơng thực, thực
phẩm, công nghiệp nhẹ và dƣợc phẩm (Ngô Hữu Tình, 1997) [15].
Trong những năm gần đây, khi mà đời sống con ngƣời ngày một nâng
cao thì nhu cầu sử dụng ngô làm thực phẩm ngày càng lớn. Ngƣời ta sử dụng
bắp ngô bao tử làm rau cao cấp, các loại ngô nếp, ngô đƣờng (ngô ngọt)
đƣợc dùng để làm quà ăn tƣơi (luộc, nƣớng), chế biến thành các món ăn
đƣợc nhiều ngƣời ƣa chuộng nhƣ ngô chiên, súp ngô, snack ngơ hoặc đóng
hộp làm thực phẩm xuất khẩu, việc xuất khẩu các loại ngô thực phẩm mang
lại hiệu quả kinh tế đáng kể cho một số nƣớc nhƣ Thái lan, Đài Loan...
Ngồi sản phẩm chính, thân cây ngơ cịn là nguồn thức ăn xanh đáng kể cho
gia súc.
Với ngô nếp, nhờ tinh bột có thành phần chủ yếu là Amylopectin, có
giá trị dinh dƣỡng cao, giàu Lizin và Triptophan, từ lâu nó đã là nguồn lƣơng
thực quý của đồng bào dân tộc miền núi ở Đông Nam Á và là nguồn nguyên
liệu quý cho công nghiệp, đặc biệt công nghiệp thực phẩm và cơng nghiệp
dệt. Gần đây, vai trị của ngô nếp càng đƣợc nâng lên nhờ những thành tựu
trong việc nghiên cứu chọn tạo và mở rộng những giống lai cho năng suất
khá cao mà vẫn giữ đƣợc chất lƣợng đặc biệt của nó.
Vĩnh Phúc là tỉnh đồng bằng nằm ở đỉnh của tam giác châu thổ Bắc
bộ, có vị trí địa lý thuận lợi, Vĩnh Phúc đã đƣợc Chính phủ xác định là một
trong 8 tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ; là vùng trọng điểm

phát triển cơng nghiệp của các tỉnh phía Bắc. Trong những năm gần đây, do
tốc độ phát triển Đô thị hố, Cơng nghiệp hố của Vĩnh Phúc diễn ra quá
nhanh, trong một thời gian ngắn diện tích đất trồng trọt của Vĩnh Phúc đã bị
giảm rất nhiều. Năm 1997 khi mới tách tỉnh, Vĩnh Phúc có tổng diện tích đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




3

tự nhiên là 137.224,14ha, trong đó diện tích đất sản xuất nơng nghiệp là
66.780,85 ha, đến năm 2008 diện tích đất nơng nghiệp của Vĩnh Phúc cịn
58.923,71ha (giảm 11,76 %). Nếu theo tốc độ phát triển công nghiệp nhƣ
hiện nay, thì chỉ sau một thời gian ngắn nữa diện tích đất nông nghiệp của
Vĩnh Phúc sẽ ngày càng bị thu hẹp lại, ngƣời nông dân sẽ bị mất dần ruộng,
không có việc làm, ảnh hƣởng nghiêm trọng tới đời sống kinh tế chính trị và
trật tự an tồn xã hội ở vùng nông thôn. (Nguồn: Niên giám thống kê Vĩnh
Phúc, 1998-2007) [19].
Chính vì vậy, việc xây dựng cơ cấu cây trồng hợp lý là nhiệm vụ rất
cần thiết trong giai đoạn hiện nay, nhằm nâng cao năng suất, chất lƣợng
nông sản, đầu ra sản phẩm, nâng hệ số sử dụng đất và cuối cùng là giá trị
kinh tế cao trên một đơn vị diện tích. Với ngơ nếp là cây đã đƣợc nông dân
Vĩnh Phúc chọn trồng ở nhiều địa phƣơng để phục vụ cho nhu cầu ăn tƣơi,
chế biến thực phẩm... Tuy nhiên, năng suất ngơ cịn rất thấp do nông dân vẫn
sử dụng giống cũ, giống địa phƣơng. Nên việc tìm ra một bộ giống mới cho
năng suất cao, chất lƣợng tốt, thích nghi đƣợc với điều kiện tự nhiên của tỉnh
là rất cần thiết. Xuất phát từ nhu cầu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: « Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng một số

giống ngô nếp lai tại tỉnh Vĩnh Phúc ».
2. Mục tiêu - yêu cầu của đề tài
2.1. Mục tiêu
- Xác định đƣợc những đặc điểm nông sinh học chính của các nguồn
vật liệu đƣợc chọn.
- Xác định đƣợc giống ngô nếp lai mới cho năng suất cao, chất lƣợng
tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




4

2.2. Yêu cầu
- Nghiên cứu tình hình sinh trƣởng, phát triển của các giống ngơ nếp
lai có triển vọng trong điều kiện vụ xuân và vụ đông 2007.
- Nghiên cứu các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các
giống ngô nếp lai
- Nghiên cứu khả năng chống chịu sâu bệnh của các giống ngô nếp lai.
- Phân tích hàm lƣợng Prơtêin, Amylopectin
- Đánh giá chất lƣợng giống (độ dẻo, hƣơng thơm và vị đậm).
- Xác định đƣợc một số giống ngơ nếp lai có nhiều ƣu điểm nổi trội
hơn giống đối chứng để giới thiệu cho sản xuất.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





5

CHƢƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học
Thực tiễn sản xuất nông nghiệp trên thế giới cũng nhƣ trong nƣớc
đã khẳng định giống cây trồng là một trong những nhân tố quyết định
đến năng suất, chất lƣợng và hiệu quả của sản xuất nơng nghiệp. Nhờ có
bộ giống cây trồng phong phú đa dạng chúng ta đang thực hiện chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ nhằm khai thác hiệu quả hơn tiềm năng và
khắc phục những hạn chế về đất đai, thời tiết khí hậu của nƣớc ta, làm đa
dạng hố sản phẩm nơng nghiệp theo hƣớng sản xuất hàng hố, thực hiện
cơng nghiệp hố hiện đại hố nơng nghiệp và nơng thơn.
Sản xuất nơng nghiệp là địn bẩy thúc đẩy các ngành khác phát
triển nhƣ ngành chăn nuôi, công nghiệp chế biến...do vậy tăng năng suất,
chất lƣợng cây trồng là rất cần thiết. Tuy nhiên năng suất cây trồng còn
phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh, kỹ thuật sản xuất, trình độ dân trí,
đặc biệt là việc sử dụng giống. Do vậy, để có giống mới phù hợp với
điều kiện sinh thái của từng địa phƣơng trƣớc thì khi đƣa vào sản xuất
cần phải đƣợc khảo nghiệm ở các vùng sinh thái khác nhau để đánh giá
tính khác biệt, độ đồng đều, độ ổn định, khả năng thích ứng với điều kiện
ngoại cảnh bất thuận.
Vài năm trở lại đây do áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật về
giống cây trồng, các nhà khoa học Việt Nam đã chọn tạo đƣợc rất nhiều
giống ngơ lai có triển vọng làm cho diện tích ngơ của cả nƣớc tăng lên
rất nhanh, năng suất và sản lƣợng đƣợc cải thiện rõ rệt, nhƣng vẫn chƣa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





6

đáp ứng đƣợc nhu cầu của thị trƣờng tiêu dùng. Do vậy một số nhà chọn
giống đã bắt đầu chuyển sang hƣớng tạo giống nếp lai và thu đƣợc một
số kết quả đáng kể nhƣ các giống MX2, MX4 của Công ty cổ phần giống
cây trồng Miền Nam, Bạch ngọc của Công ty Lƣơng Nông...và rất nhiều
các giống mới khác có triển vọng đang cần đƣợc khảo nghiệm và trồng
thử nghiệm ở các vùng sinh thái khác nhau để đƣa vào sản xuất đại trà.
1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu ngô trên thế giới
Qua hơn 7000 năm phát triển từ cây hoang dại, trong điều kiện
chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo, năng suất ngô hạt bình quân trên
thế giới cho đến đầu thế kỷ 20 mới chỉ chƣa đến 20 tạ/ha, nhƣng đến năm
2004 đã đạt 49,9 tạ/ha (FAOSTAT, 2004) [28]. Năm 2007 theo USDA,
diện tích ngơ đã vƣợt qua lúa nƣớc, với 157 triệu ha, năng suất 49,0
tạ/ha, sản lƣợng đạt 766,2 triệu tấn. Với lúa nƣớc năm 1961 có diện tích
là 115,26 triệu ha, năng suất 18,7 tạ/ha và sản lƣợng là 215,27 triệu tấn ;
năm 2007 diện tích là 153,7 triệu ha, năng suất 41 tạ/ha, sản lƣợng 626,7
triệu tấn. Còn lúa mỳ, năm 1961 có diện tích là 200,88 triệu ha, năng
suất 10,9 tạ/ha, sản lƣợng 219,22 triệu tấn và năm 2007 diện tích là 217,2
triệu ha, năng suất đạt 28,0 tạ/ha, sản lƣợng 603,6 triệu tấn [36]. Sở dĩ
năng suất ngô tăng nhanh là do việc phát hiện ra ƣu thế lai trong chọn tạo
giống cây trồng mà ngô là đối tƣợng thành cơng điển hình trong số các
cây trồng lƣơng thực, đồng thời không ngừng cải thiện biện pháp kỹ
thuật canh tác (TS.Phan Xuân Hào, 2008) [3].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





7

Bảng 1.1: Diện tích, năng suất, sản lƣợng ngơ, lúa mì, lúa nƣớc thế giới 1961-2007
NGƠ

Năm

LÚA NƢỚC

LÚA MÌ

D.tích

N.suất

Sản lƣợng

D.tích

N.suất

Sản lƣợng

D.tích

N.suất


Sản lƣợng

(triệu ha)

(tạ/ha)

(triệu tấn)

(triệu ha)

(tạ/ha)

(triệu tấn)

(triệu ha)

(tạ/ha)

(triệu tấn)

1961

105,5

19,0

205,0

204,2


11,0

222,4

115,3

19,0

215,6

2004

145,7

50,0

727,4

217,2

29,0

633,3

150,2

40,0

607,3


2005

145,5

49,0

712,9

221,4

28,0

628,7

154,5

41,0

631,5

2006

144,4

48,0

695,2

216,1


28,0

605,9

153,0

41,0

634,6

2007/08 157,0

49,0

766,2

217,2

28,0

603,6

153,7

41,0

626,7

Nguồn: FAOSTAT(1961-2006), USDA(2007) [28], [36].


900
800
700
600

D.tích (triệu ha)

500

N.suất (tạ/ha)

400

Sản lƣợng (triệu tấn)

300
200
100
0

1961

2004

2005

2006

2007/08


Hình 1.1: Diện tích, năng suất, sản lƣợng ngơ trên thê giới 1961 - 2005

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




8

Có thể nói việc chọn ra giống cây trồng mới nhƣ giống thụ phấn tự do cải
tiến và giống lai, đồng thời với việc áp dụng thành công những tiến bộ khoa học
kỹ thuật mới, đã dần dần thay thế các giống cũ trong sản xuất từ nửa cuối thế kỷ
trƣớc đến nay, làm thay đổi căn bản ngành sản xuất ngô trên thế giới. Ngô lai
tạo ra bƣớc nhảy vọt về năng suất, song lúc đầu nó chỉ phát huy hiệu quả ở Mỹ
và các nƣớc có nền cơng nghiệp phát triển. Còn đối với các nƣớc đang phát
triển ngô lai không phát huy tác dụng cho đến những năm 80 của thế kỷ trƣớc.
Hiện nay, Mỹ là nƣớc có diện tích và sản lƣợng ngơ lớn nhất thế giới và
100% diện tích đƣợc trồng bằng giống ngơ lai. Năm 2004 năng suất ngơ trung
bình của Mỹ là 100,7 tạ/ha, trên diện tích là 29,8 triệu ha (FAOSTAT, 2004)
[28], và là nƣớc có năng suất xếp vào hàng cao nhất trên thế giới. Thời gian gần
đây, trong khi phần lớn các nƣớc phát triển tăng khơng đáng kể, thì năng suất
ngơ ở Mỹ lại có sự tăng đột biến. Kết quả đó có đƣợc là nhờ ứng dụng cơng
nghệ sinh học. Theo Ming- Tang Chang và cộng sự (Ming- Tang Chang et al,
2005) [33], ở Mỹ chỉ còn 48% giống ngô đƣợc sử dụng là đƣợc chọn tạo theo
công nghệ truyền thống, cịn lại 52% là bằng cơng nghệ sinh học (nhiều hơn
năm 2004 là 5%), trong đó có những bang có diện tích ngơ lớn nhƣ Iowa, tỷ lệ
này là 60%. Nƣớc có năng suất ngơ cao nhất thế giới hiện nay là Israel với 160
tạ/ha, sau đó là Bỉ 122,0 tạ/ha, ChiLê 110,0 tạ/ha, Tây Ban Nha 99
tạ/ha...(FAOSTAT, 2004) [28].
Trung Quốc là nƣớc có diện tích ngơ đứng thứ hai trên thế giới, hàng

năm luôn đạt xung quanh 25 triệu ha, trong đó tới 90% diện tích đƣợc trồng
bằng giống lai. Năng suất bình qn ngơ của Trung Quốc đã tăng từ 30 tạ/ha
(năm 1980) lên 51,5 tạ/ha (năm 2004) (FAOSTAT, 2004) [28]. Ở một số
nƣớc đang phát triển nhƣ Achentina, Braxin, Colombia, Mehico, Ấn Độ,
Pakistan...trong thời kỳ 1966 – 1990 có xấp xỉ 852 giống ngơ đƣợc tạo ra,
trong đó có 59% là giống ngơ thụ phấn tự do, 27% là giống lai quy ƣớc, 10%

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




9

là giống lai không quy ƣớc, 4% là các loại giống khác (S.K. Vasal, et al.,
1999) [39]. Cũng trong năm 2004 diện tích ngơ của ấn Độ là 8 triệu ha, năng
suất bình quân là 25,0 tạ/ha, sản lƣợng là 14 triệu tấn. Ở Thái Lan diện tích
ngơ 2004 là 1,13 triệu ha, năng suất bình quân là 36,2 tạ/ha. Indonesia diện
tích ngơ lớn nhất ở khu vực, năm 2004 với diện tích 3,35 triệu ha, cho năng
suất bình qn 33,9 tạ/ha và sản lƣợng là 11,35 triệu tấn. Tuy nhiên, diện tích
trồng bằng giống lai của nƣớc này cịn thấp, khoảng 30 - 40%. (FAOSTAT,
2004) [28].
Công tác nghiên cứu lai tạo giống ngơ hiện nay đang có bƣớc chuyển
biến mới, đó là ứng dụng cơng nghệ sinh học trong chọn tạo dòng thuần.
Những năm gần đây, việc nghiên cứu chọn ra những dịng đơn bội kép
(Double haploid), bằng ni cấy invitro đã giúp cho cơng việc chọn tạo dịng
thuần một cách nhanh chóng, tiết kiệm đƣợc hơn nửa thời gian so với việc
tạo dịng bằng các phƣơng pháp thơng thƣờng. Tạo dịng thuần bằng phƣơng
pháp invitro có thể dựa vào kỹ thuật nuôi cấy một trong ba bộ phận sinh sản
của ngô là bao phấn, hạt phấn tách rời và noãn chƣa thụ tinh. Gần đây, ngƣời

ta đã nghiên cứu thành cơng phƣơng pháp mới tạo dịng thuần bằng dùng
dịng kích tạo đơn bội. Ở Việt Nam, các nghiên cứu về đơn bội ngô đã bắt
đầu tại Viện Di Truyền Nông nghiệp Việt Nam từ năm 1995. Viện đã xây
dựng hồn chỉnh quy trình ni cấy bao phấn ngơ để tạo dịng đồng hợp tử
phục vụ cho cơng tác chọn tạo giống ngô. Hiện nay kỹ thuật nuôi cấy bao
phấn là một trong những hƣớng nghiên cứu tạo dòng thuần có nhiều triển
vọng, phƣơng pháp này cho kết quả khá ổn định và có hiệu quả, tuy nhiên
cịn phụ thuộc vào từng giống, Viện Di Truyền Nông nghiệp đã phát triển
các phƣơng pháp khác để tạo dòng thuần, nhƣ phƣơng pháp ni cấy nỗn
chƣa thụ tinh và dùng dịng kích tạo đơn bội. (Lê Huy Hàm và cs, 2005; Đỗ
Năng Vịnh và cs, 2004) [2],[24].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




10

Các ứng dụng công nghệ gen phát triển mạnh từ đầu những năm 90 tới
nay và đang ra tăng nhanh chóng. Năm 2006 diện tích trồng cây biến đổi gen
là 102 triệu héc-ta; năm 2007 tăng lên 114 triệu ha cây trồng biến đổi gen,
trong đó ngơ kháng sâu đục thân và kháng thuốc trừ cỏ có 19,3 triệu ha
(chiếm 24%) (Nguồn: TTXVN, 4/2008)[21]. Diện tích ngơ biến đổi gen lớn
nhất ở Mỹ, chiếm đến 52% tổng diện tích ngơ (Ming – Tang Chang và cs,
2005) [33]. Ở Đông Nam Á, Philipin cũng đã sử dụng ngô chuyển gen từ mấy
năm gần đây. Theo Vũ Đức Quang và cs, hiện nay ở Việt Nam cũng đã trồng
ngô, lúa và bông biến đổi gen ở một số địa phƣơng (Vũ Đức Quang và cs,
2005) [9].


Hình 1.2: Sự phát triển của cây trồng biến đổi gien trên thế giới. (Nguồn: www.i saaa.org)

Trung tâm cải tạo ngô và lúa mỳ Quốc tế (CIMMYT), đã xây dựng, cải
thiện và phát triển khối lƣợng lớn nguồn nguyên liệu, vốn gen, các quần thể và
giống thí nghiệm, cung cấp cho khoảng hơn 80 nƣớc trên thế giới thông qua
mạng lƣới khảo nghiệm giống Quốc tế. Các nguồn ngun liệu mà chƣơng
trình ngơ CIMMYT cung cấp cho các nƣớc là cơ sở cho chƣơng trình tạo dịng
và giống lai (Ngơ Hữu Tình và cs, 1999) [16]. Năm 1985, chƣơng trình ngơ lai
của CIMMYT đƣợc tiến hành với mục tiêu phát triển các vật liệu mới phục vụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




11

chọn tạo giống lai, tích luỹ và cơng bố KNKH và các nhóm ƣu thế lai của các
vật liệu nhiệt đới và cận nhiệt đới mà CIMMYT đã có, đồng thời tiến hành tạo
dòng thuần. Gần đây, CIMMYT đẩy mạnh chƣơng trình tạo giống ngơ chất
lƣợng Prơtêin cao và đã đạt đƣợc những kết quả quan trọng
1.3. Tình hình sản xuất và nghiên cứu ngô ở Việt Nam
Ngô đƣợc đƣa vào trồng ở nƣớc ta từ cuối thế kỷ 17 (Ngơ Hữu Tình
và cs, 1999) [16], đã trở thành cây lƣơng thực quan trọng thứ 2 sau lúa nƣớc.
Song, với nền canh tác quảng canh và chủ yếu dùng giống ngô đá và ngô nếp
địa phƣơng, nên năng suất thấp. Năng suất ngô Việt Nam những năm 1960
chỉ đạt trên 1 tấn/ha, với diện tích hơn 200 nghìn ha và sản lƣợng hơn
400.000 tấn do vẫn trồng các giống ngô địa phƣơng với kỹ thuật canh tác lạc
hậu. Từ giữa những năm 1980 trở lại đây, nhờ hợp tác với Trung tâm Cải tạo
Ngô và Lúa mỳ Quốc tế (CIMMYT), nhiều giống ngô cải tiến đã đƣợc đƣa

vào trồng ở nƣớc ta nhƣ các giống TPTD VM1, HSB1, TH2A, TSB1, TSB2,
MSB49, Q2, CV1,... góp phần nâng cao năng suất lên gần gấp 15 tạ/ha vào
đầu những năm 1990. Tuy nhiên ngành sản xuất ngô ở nƣớc ta thực sự đã có
bƣớc tiến nhảy vọt là từ đầu những năm 1990 đến nay, gắn liền với việc
không ngừng mở rộng giống lai ra sản xuất, đồng thời cải thiện các biện
pháp kỹ thuật canh tác theo đòi hỏi của giống mới. Các giống lai không quy
ƣớc : LS3, LS5, LS6, LS7, LS8, ...Nhờ việc sản xuất giống dễ dàng, giá
giống rẻ, con lai có năng suất cao và thích ứng rộng, các giống lai không quy
ƣớc đã đƣợc ngƣời trồng ngô chấp nhận và nhanh chóng mở rộng diện tích.
Đây cũng là bƣớc chuyển tiếp quan trọng từ giống lai không quy ƣớc sang
giống lai quy ƣớc. Nhờ chính sách đổi mới, sự quan tâm đầu tƣ đúng mức của
nhà nƣớc và sự phát huy nội lực cao độ của ngƣời làm cơng tác chọn tạo giống
ngơ, chƣơng trình phát triển ngô lai ở Việt Nam đã thu đƣợc những kết quả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




12

quan trọng. Một loạt giống lai có TGST khác nhau đƣợc chọn tạo bằng phƣơng
pháp truyền thống và đã áp dụng vào tất cả các vùng sinh thái của Việt Nam :
Các giống dài ngày nhƣ LVN10, HQ2000, T6, LVN98..., các giống trung ngày
nhƣ : LVN4, LVN12, LVN17, LVN22, VN8960, MB069..., Các giống ngắn
ngày : LVN9, LVN20, LVN24, LVN25, LVN99... ngồi ra các giống của các
Cơng ty giống cây trồng nƣớc ngoài cũng đƣợc đƣa vào trồng ở nƣớc ta góp
phần quan trọng trong việc phát triển ngơ lai trong thời gian qua.
Năm 1991, diện tích trồng giống lai chƣa đến 1% trong tổng số
400.000 ha trồng ngô, năm 2004 diện tích trồng ngơ của cả nƣớc là

990.400 ha, năng suất đạt 34,9 tạ/ha và sản lƣợng là 3,454 triệu tấn (Tổng
cục Thống kê, 2005) [20], Tỉ lệ diện tích trồng bằng giống lai là 84%
(Phạm Đồng Quảng và cs, 2005 ; Trung tâm khuyến nông quốc gia, 2005)
[12], [23], năm 2007 giống lai đã chiếm khoảng 95% trong số hơn 1 triệu
ha. Để đạt đƣợc thành quả đó trong thời gian qua là nhờ những tiến bộ và
việc chọn đƣợc nguồn nguyên liệu ban đầu phù hợp cho việc tạo dòng
thuần là các giống lai ƣu tú của chƣơng trình phát triển giống ngơ lai ở
Việt Nam (Ngơ Hữu Tình, Phan Xn Hào, 2005) [18]. Năng suất ngơ
nƣớc ta tăng nhanh liên tục với tốc độ cao hơn trung bình thế giới trong
suốt hơn 20 năm qua. Năm 1980, năng suất ngô nƣớc ta chỉ bằng 34% so
với trung bình thế giới (11/32 tạ/ha) ; năm 1990 bằng 42% (15,5/37
tạ/ha) ; năm 2000 bằng 60% (25/42 tạ/ha) ; năm 2005 bằng 73% (36/49
tạ/ha) và năm 2007 đã đạt 81,0% (39,6/49 tạ/ha). Năm 1994, sản lƣợng
ngô Việt Nam vƣợt ngƣỡng 1 triệu tấn, năm 2000 vƣợt ngƣỡng 2 triệu tấn
và năm 2007 chúng ta đạt diện tích, năng suất, sản lƣợng lớn nhất từ trƣớc
tới nay : Diện tích là 1.072.800 ha, năng suất 39,6 tạ/ha, sản lƣợng vƣợt
ngƣỡng 4 triệu tấn - 4.250.900 tấn. (TS. Phan Xuân Hào, 2008) [3].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




13

Bảng 1.2. Tình hình sản xuất ngơ ở Việt Nam từ năm1961 – 2007
Năm

1961


1975

1990

1994

2000

2005

2007

260,20

267,0

432,0

534,6

730,2

1052,6

1072,8

Sản lƣợng (1000 tấn) 292,20

280,60


671,0

1143,9

2005,9

3787,1

4250,9

10,5

15,5

21,4

25,1

36,0

39,6

Diện tích (1000 ha)

Năng suất (tạ/ha)

11,2

Nguồn: Tổng cục thống kê (đến 2005), Bộ NN&PTNT (2007 )[20].
4500

4000
3500
3000

Diện t ích (1000 ha)

2500

Sản lƣợng (1000 t ấn)
Năng suất (t ạ/ha)

2000
1500
1000
500
0

Hình 3 : Diện tích, năng suất, sản lƣợng ngơ Việt Nam 1961 – 2005

Hình1961
3: Diện
tích,1990
năng 1994
suất sản
lƣợng
ngơ Việt
1975
2000
2005
2007Nam từ 1961 - 2005

Hình 1.3 : Diện tích, năng suất, sản lƣợng ngơ ở Việt Nam

1.4. Tình hình sản xuất và nghiên cứu ngô ở Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc - cửa ngõ Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội, thuộc vùng Châu
thổ sông Hồng là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.
Vĩnh Phúc nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng
năm 24,20C, lƣợng mƣa trung bình 1733.9 mm (Cục Thống kê tỉnh Vĩnh
Phúc, 1998-2008) [19]. Do đặc điểm vị trí địa lý nên nơi đây hình thành 3
vùng sinh thái rõ rệt: đồng bằng, trung du và miền núi hết sức thuận tiện
cho phát triển nông - lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp và du lịch - dịch
vụ. Một trong những ƣu thế của Vĩnh Phúc so với các tỉnh xung quanh Hà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




14

Nội là có diện tích đất đồi khá lớn của vùng trung du, có đặc tính cơ lý tốt
thuận tiện cho việc xây dựng và phát triển công nghiệp.
Trong những năm gần đây, ngồi việc phát triển mạnh cơng nghiệp,
dịch vụ và đơ thị, Vĩnh Phúc cịn là một trong những tỉnh đi đầu trong việc
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt
là công tác giống cây trồng mới, nhƣ: Các giống lúa lai Bồi tạp sơn thanh,
Q.ƣu1, HT1, N97…; ngô lai LVN4, LVN10, MX2, VN2, P60, P11,
HQ2000,…Với những thuận lợi trên dẫn đến năng suất, sản lƣợng lƣơng
thực của Vĩnh Phúc đƣợc tăng lên rõ rệt. Năm 1998 diện tích trồng ngô là
19.802,5 ha, năng suất là 26,03 tạ/ha, sản lƣợng đạt 51.547,0 tấn ; năm
2005 là năm năng suất và sản lƣợng đạt cao nhất ; đến năm 2007 diện tích

ngơ chỉ cịn 15.241,8 ha, năng suất đạt 33,86 tạ/ha, sản lƣợng đạt 51.609,1
tấn (Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc, 1998-2008) [19]. Tình hình sản xuất
ngơ của Vĩnh Phúc giai đoạn 1998 - 2007 đƣợc trình bày ở bảng 1.3.

Bảng 1.3: Sản xuất ngô của Vĩnh Phúc giai đoạn 1998 – 2007
Năm

1998

1999

2001

2005

2007

Diện tích (1000 ha)

19,8025

20,8744

14,9427

16,4900

15,2418

Sản lƣợng (1000 tấn)


51,547

60,2983

48,3932

61,7483

51,6091

Năng suất (tạ/ha)

26,03

28,75

32,4

37,45

33,86

Nguồn: Cục thống kê tỉnh Vĩnh Phúc (1998 - 2007)[19].

700.0
600.0
500.0

Diện

tích (1000 ha)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

400.0
300.0

1998

1999

2001

2005

2007

Sản lƣợng (1000 tấn)


15

Hình 1.4 : Diện tích, năng suất, sản lƣợng ngơ Vĩnh Phúc 1998-2007

1.5. Ngô nếp, nguồn gốc, phân loại và đặc tính
Ngơ nếp (Zea mays L.subsp. Ceratina Kulesh), là một trong những
lồi phụ chính của lồi Zea mays L. Hạt ngơ nếp nhìn bề ngồi tƣơng tự
với ngơ đá, nhƣng bề mặt bóng hơn. Lớp ngồi cùng của mặt cắt nội nhũ
khơng có lớp sừng nhƣ ở ngơ tẻ, có tính chất quang học giống nhƣ lớp
sáp. Do vậy, ngơ nếp cịn có tên gọi khác là ngơ sáp (Tomob, 1984) [40].

Ngô nếp là dạng ngô tẻ do biến đổi tinh bột mà thành. Tinh bột của ngô
nếp chứa gần nhƣ 100% amylopectin, trong khi ngô thƣờng chỉ chứa 75%
amylopectin và 25% amyloza. Amylopectin là dạng của tinh bột có cấu
trúc phân tử gluco phân nhánh dựa trên liên kết α.1-4 và α.1-6, ngƣợc lại
amyloza có cấu trúc phân tử gluco không phân nhánh trọng lƣợng phân tử
của chúng từ 1 đến 3 triệu. Khi cho tinh bột ngô nếp vào dung dịch KI thì
nó chuyển thành màu cà phê đỏ, trong khi tinh bột của ngơ thƣờng thì
chuyển thành màu xanh tím. Đặc tính của ngơ nếp đƣợc quy định bởi đơn
gen lặn đó là gen wx. Gen wx là gen lấn át gen khác để tạo tinh bột dạng
nhỏ (Peter Thompson, 2005) [34]. Theo Fergason, 1994 ; Garwood và
Creech, 1972 ; Hallauer, 1994 [27], [29], [30], thì gen wx nằm ở locus 5S-

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




16

56 có biểu hiện của gen opaque, do vậy hạt ngơ nếp cũng giàu lyzin,
triptophan và protein.
Có giả thuyết cho rằng, ngơ nếp có nguồn gốc ở Đơng Nam Á mà
Trung Quốc, Miến Điện, Philippin là quê hƣơng đầu tiên của nó. Nhƣng sau
đó ngƣời ta thấy rằng đó là kết quả của một đột biến thông thƣờng của các
giống ngô răng ngựa biểu hiện gen Wx và gắn liền với các điều kiện trồng
trọt khơng bình thƣờng đột biến thành gen lặn wx, chúng có thể xuất hiện ở
các vùng khác nhau của trái đất (Grebensc 1954, dẫn theo Nguyễn Thị Lâm,
1997) [8].
Theo James L. Brewbaker (Brewbaker, 1998) [31], quá trình chọn lọc
tự nhiên đã tạo ra những đột biến nhƣ Sugaryl (với phytoglycogen cao) ở dãy

núi Andes và ở đông bắc nƣớc Mỹ, đột biến 2 là waxyl (tinh bột của hạt có
cấu tạo bởi amylopectin) ở châu Á với các giống đƣợc chọn lọc có vỏ mềm.
Những giống nếp lai và các giống nếp thƣờng, với đặc điểm dẻo, thơm ngon
rất thông dụng ở châu Á nhƣ : Hàn Quốc, Philippin, Thái Lan, Trung Quốc,
Việt Nam và nhiều quốc gia khác (US. Grains Council, 2001) [38].
1.6. Tình hình nghiên cứu và sử dụng ngơ nếp trên thế giới và ở Việt Nam
1.6.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng ngô nếp trên thế giới
Theo Tomob, để chọn giống ngô nếp ngƣời ta dùng vật liệu ban đầu
từ các giống ngô nếp địa phƣơng của Trung Quốc, ngô nếp Cracnoda hoặc
nguồn ngô nếp đột biến tự nhiên hay đột biến nhân tạo nhƣ là donor. Từ
nguồn vật liệu chọn lọc ban đầu, thông qua tự phối và chọn lọc cá thể dựa
vào nội nhũ nếp và các đặc tính nơng học khác để tạo dịng nếp thuần. Cịn
tạo các đồng đẳng ngơ nếp từ nguồn ngơ thƣờng thì ngƣời ta cho lai ngô nếp
và ngô thƣờng với nhau sau đó tiến hành lai lại và kiểm tra bằng phân tích
hạt phấn qua phản ứng với dung kịch KI. Bằng cách này ngƣời ta đã tạo ra

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




17

khá nhiều dòng và giống nếp lai mới, chúng đƣợc trồng cách ly với các loại
ngô khác (Tomob, 1984) [40].
Ngô nếp đƣợc trồng nhiều nhất ở Mỹ, nhƣng phần lớn diện tích đƣợc
trồng ở miền trung Illinois và Indian, phía bắc của Iowa, phía nam của
Minnesota và Nebraska (US. Grains Council, 2001) [37].Diện tích ngơ nếp
hàng năm của Mỹ khoảng 290.000 ha. Hầu hết diện tích này đƣợc trồng là
nếp vàng, nhƣng gần đây có một số diện tích nhỏ đƣợc trồng bằng nếp trắng.

Theo Alexander and Creech, mặc dầu đã trải qua một thời gian khá dài
nhƣng vẫn gặp rất nhiều vấn đề trong việc tạo các dịng ngơ nếp thƣơng mại
(Sprague, G.F. et al, 1988) [35]. Ở bang Ohio việc chọn lọc giống lai của
những dạng ngô đặc biệt rất phức tạp vì thiếu những dạng ngơ làm đối
chứng. Cả 2 dạng giống lai có hàm lƣợng lizin cao và ngô nếp đã đƣợc đƣa
ra những năm qua nhƣng khơng có số liệu về amyloza cao và dầu cao. Tiềm
năng năng suất hạt của những giống lai đặc biệt này nhìn chung là thấp hơn
so với ngơ tẻ. Những giống nếp lai mới đã đƣợc báo cáo là có khả năng cạnh
tranh hơn với giống răng ngựa về năng suất. Theo Thompson, năng suất của
ngơ có hàm lƣợng amyloza cao biến động tuỳ thuộc vào đất trồng, nhƣng
trung bình cũng đạt từ 65 – 75% so với ngơ tẻ thƣờng (Peter Thompson,
2005) [34]. Ngơ nếp có thể cho năng suất thấp hơn ở điều kiện thời tiết bất
thuận. Theo thông báo của trƣờng Đại học Illinois, gần đây đã có một số
giống nếp lai điển hình cho năng suất cao hơn những giống ngô lai thông
thƣờng (College of AgricuIture of Illinois, 2003) [26].
Theo thông tin từ hội nghị ngô châu Á lần thứ 9 tại Bắc Kinh –
T9/2005, Trung Quốc đã tạo ra khá nhiều giống ngô nếp lai cho năng suất
cao và chất lƣợng tốt. Ví dụ : Giống nếp lai đơn màu trắng JYF 101, cho
năng suất trung bình 150 tạ bắp tƣơi/ha ; giống nếp lai đơn màu tím
Jingkenou 218, năng suất khoảng 120 tạ bắp tƣơi/ha ; giống ngơ nếp trắng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




18

Jingkenou 2000 năng suất trung bình trên 130 tạ bắp tƣơi/ha ; giống ngơ nếp
lai đơn tím trắng Jingtianzihuanuo và giống ngô nếp trắng lai đơn Yahejin

2006, cho năng suất tới 200 tạ bắp tƣơi/ha...(Beijing Maize Reseach Center,
2005) [25].
Theo Kyung – Joo Park (Kyung – Joo Park, 2001) [32], ở Hàn Quốc
có một số tỉnh ngƣời ta trồng ngơ nếp bán bắp tƣơi thu đƣợc 7925 USD/ha,
sau đó trồng bắp cải, tổng thu nhập trên 16.228 USD/ha. Nếu thu hoạch vào
cuối tháng 6, bán đƣợc 0,39 USD/bắp, còn vào giữa tháng 7 đến 0,47
USD/bắp, còn những bắp chất lƣợng thấp ngƣời ta bán cho khách du lịch
một túi 3 bắp với 1,18 USD. Cũng theo tài liệu trên, vào năm 1996, 1kg
giống TPTD Chalok No.1 đƣợc bán với giá 6,23 USD, trong khi đó giống
ngơ nếp lai Daehakchal do đại học Choongram cung cấp có giá 45,01
USD/Kg. Cũng theo Kyung – Joo Park tại tỉnh Chonbuk có hợp tác xã đã
xây dựng một kho lạnh bảo quản đƣợc 1,5 triệu bắp ngô tƣơi 1 năm.
Ngô nếp đƣợc sử dụng làm lƣơng thực và thức ăn chăn nuôi gia súc,
gia cầm. Khi nấu chín có độ dẻo, mùi vị thơm ngon. Nó có giá trị dinh dƣỡng
cao, bởi tinh bột của nó có cấu trúc đặc biệt, dễ hấp thụ hơn so với tinh bột
của ngơ tẻ. Có khá nhiều báo cáo về những kết quả đạt đƣợc trong chăn nuôi
cho cả động vật thƣờng và động vật nhai lại (Fergason, 1994) [27]. Một số
thử nghiệm ở Mỹ đã chỉ ra rằng, bị đực non lớn nhanh hơn khi đƣợc ni
bằng ngô nếp (US.Grains Council) [37]. Một trong những nguyên nhân dẫn
đến hiệu quả trên là do trong ngơ nếp có hàm lƣợng các axitamin không thay
thế nhƣ lyzin và triptophan cao (Grawood, 1972 ; Jemes L. Brewbaker,
1998) [29], [31].
Ngô nếp đƣợc dùng vào các mục đích khác nhau : ăn tƣơi, đóng hộp,
chế biến tinh bột v.v...Nhìn chung, có 2 cách sử dụng chính : Làm thực phẩm
và chế biến tinh bột. Ở Mỹ và các nƣớc phát triển, phần lớn sản lƣợng ngơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





19

nếp đƣợc dùng để chế biến tinh bột. Ngƣời ta chế biến tinh bột ngô nếp bằng
cách xay ƣớt để dùng trong công nghiệp chế biến thực phẩm, keo dán, chất
hồ dính, cơng nghiệp dệt, cơng nghiệp giấy, lên men sản xuất cồn và chuyển
thành đƣờng Fructo, chế sirô v.v... Tinh bột ngơ nếp cịn đƣợc sử dụng nhƣ
một dạng sữa ngơ làm đồ gia vị cho món salad. Phạm vi sử dụng tinh bột ngô
nếp ngày một phát triển, nhờ những tính chất đặc biệt của nó (James L.
Brewbaker, 1998) [31].
1.6.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng ngơ nếp ở Việt Nam
Theo các nghiên cứu phân loại ngô địa phƣơng ở Việt Nam từ
những năm 1960 cho thấy, ngô Việt Nam tập trung chủ yếu vào 2 loại phụ
chính là đá rắn và nếp (Ngơ Hữu Tình, 1997) [15]. Ngô nếp đƣợc phân bố
ở khắp các vùng, miền trong cả nƣớc, với nhiều dạng mày hạt khác nhau :
Trắng, vàng, tím, nâu, đỏ...Hiện nay ở Viện nghiên cứu Ngô, đã thu thập
và lƣu giữ 148 mẫu ngô nếp địa phƣơng, trong đó có : 111 nguồn nếp
trắng, 15 nguồn nếp vàng và 22 nguồn nếp tím, nâu đỏ. Theo điều tra của
Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống cây trồng Trung ƣơng trong 2 năm
2003 và 2004 thì diện tích ngơ nếp ở nƣớc ta chiếm gần 10% diện tích
trồng ngơ (Phạm Đồng Quảng và cs, 2005) [11]. Diện tích trồng ngơ nếp
khơng ngừng tăng nhanh trong thời gian qua, đặc biệt là ở vùng đồng bằng
ven đô thị. Ngun nhân chính trƣớc hết do các giống ngơ nếp đáp ứng
đƣợc nhu cầu luân canh tăng vụ trong cơ cấu nông nghiệp hiện nay, nhƣng
quan trọng hơn là do nhu cầu của xã hội ngày một tăng đối với sản phẩm
này.
Ở các vùng núi cao và vùng sâu, ngô nếp đƣợc ngƣời dân sử dụng
làm lƣơng thực chính, dƣới dạng xơi ngơ hoặc dùng tƣơi dƣới dạng
nƣớng, luộc, cịn ở hầu hết các địa phƣơng khác trong nƣớc thì ngô nếp
đƣợc xem nhƣ là loại thực phẩm ăn quà và chế biến đơn giản.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




20

Những năm gần đây, đời sống kinh tế của đại bộ phận các tầng lớp
nhân dân đang đƣợc cải thiện, nhu cầu tiêu dùng của ngƣời dân cũng trở
nên đa dạng hơn. Các loại ngô thực phẩm đƣợc sử dụng ngày một nhiều,
không những đƣợc dùng làm lƣơng thực, làm quà ăn tƣơi (nƣớng, luộc),
mà còn đƣợc chế biến thành các món ăn đƣợc nhiều ngƣời ƣa chuộng nhƣ
ngơ chiên, súp ngô, snack ngô, ngô rau bao tử, chế biến tinh bột...
Cũng nhƣ tình trạng chung trên thế giới, các nghiên cứu về ngô ở
Việt Nam tập trung chủ yếu vào ngơ tẻ. Cịn với ngơ nếp thì đến nay chỉ
có một số cơng trình đƣợc cơng bố.
Các tác giả Nguyễn Thị Lâm và Trần Hồng Uy (Nguyễn Thị Lâm và
Trần Hồng Uy, 1997) [8], đã tiến hành phân loài phụ cho 72 giống ngô
nếp địa phƣơng. Trong số 72 mẫu giống mà các tác giả nghiên cứu thuộc
về 3 biến chủng : nếp trắng 48 mẫu, nếp vàng 8 mẫu, nếp tím 16 mẫu. Kết
quả cho thấy, biến chủng nếp tím có thời gian sinh trƣởng, chiều cao cây,
chiều cao đóng bắp và số lá lớn hơn cả.
Tác giả Ngơ Hữu Tình và Nguyễn Thị Lƣu [14] đã chọn tạo thành
công giống ngô nếp trắng tổng hợp, đƣợc công nhận giống quốc gia năm
1989. Từ vốn gen gồm một tổng hợp các dòng thuần nếp trắng (làm nền)
đƣợc bổ sung thêm 12 nguồn gen của các giống nếp địa phƣơng và chọn
lọc bằng phƣơng pháp bắp trên hàng cải tiến. Kết quả việc đƣa thêm
nguyên liệu mới vào nguồn nền nhằm làm tăng độ thích ứng nhƣng khơng
làm giảm năng suất của vốn gen. Nếp Tổng hợp là giống nếp ngắn ngày,

có thời gian sinh trƣởng vụ Xuân 110 - 120 ngày, vụ Hè Thu 95 - 100
ngày, Đông 105 - 115 ngày, năng suất trung bình 25 - 30 tạ/ha, có khả
năng thích ứng rộng, đƣợc trồng khá phổ biến ở miền Bắc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




21

Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam dùng phƣơng pháp
chọn lọc chu kỳ từ tổ hợp lai giữa giống ngô nếp tổng hợp Glut - 22 và
Glut - 41 nhập nội từ Philippin để tạo ra giống nếp trắng S-2 . Đây là
giống nếp ngắn ngày, vụ Xuân 90 - 95 ngày, vụ Hè Thu 80 - 90 ngày, vụ
Đơng 95 - 100 ngày, năng suất trung bình 20 - 25 tạ/ha, đƣợc công nhận
năm 1989 (Ngô Hữu Tình, 2003) [17] .
Từ các giống ngơ nếp trắng ngắn ngày, năng suất khá, chất lƣợng
tốt, có nguồn gốc khác nhau : Nếp Tây Ninh, Nếp Quảng Nam – Đà Nẵng,
nếp Thanh Sơn, Phú Thọ và nếp S-2 từ Philippin, Phan Xuân Hào và cộng
sự đã chọn tạo thành công giống ngô nếp trắng VN2 và đƣợc công nhận
giống quốc gia năm 1997. Đây là giống nếp trắng ngắn ngày, có thời gian
sinh trƣởng vụ Xuân 100 - 105 ngày, vụ Hè 80 - 85 ngày. Năng suất bình
quân 30 tạ/ha, thâm canh tốt có thể đạt 40tạ/ha. Ngơ nếp VN2 cũng là
giống có chất lƣợng dinh dƣỡng cao. Qua phân tích 43 giống ngơ, trong
đó có 24 giống ngơ nếp tại Viện Công nghệ sau thu hoạch cho thấy, VN2
có hàm lƣợng protein rất cao, trên 10%, đặc biệt là hàm lƣợng lyzin đến
4,86%, chỉ đứng sau 2 giống opaque là sữa Dĩ An và sữa Phát Ngân (Phan
xuân Hào và cs, 1997) [4]. VN2 là một trong những giống có khả năng
thích ứng rộng, trồng đƣợc nhiều vùng trong cả nƣớc (Phạm Đồng Quảng

và cs, 2000 – 2003) [10].
Phạm Thị Rịnh và cộng sự (Phạm Thị Rịnh và cs, 2004) [13] ở
Phịng nghiên cứu Ngơ Viện KHKTNN miền Nam đã tạo đƣợc giống ngô
nếp dạng nù TPTD cải tiến N-1 từ 2 quần thể ngô nếp nù địa phƣơng ở
Đồng Nai và An Giang, bằng phƣơng pháp chọn lọc bắp trên hàng cải
tiến. N-1 đã đƣợc công nhận giống quốc gia năm 2004. Đây là giống ngơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




22

nếp ngắn ngày, ở phía Nam từ gieo đến thu bắp tƣơi là 60 đến 65 ngày cịn
thu hạt khơ là 83 - 85 ngày. N-1 có tiềm năng năng suất khá cao 40 – 50 tạ
hạt khô/ha. Cùng với giống N-1, hiện nay các giống nếp dạng nù đang
đƣợc trồng phổ biến khơng chỉ ở các tỉnh phía Nam mà cả ở các tỉnh phía
Bắc (Phạm Đồng Quảng và cs, 2005) [11].
Các tác giả Nguyễn Hữu Đống, Phan Đức Trực, Nguyễn Văn Cƣơng
và cộng sự ở Viện Di truyền nơng nghiệp Việt Nam và Ngơ Hữu Tình
cùng cộng sự ở Viện Nghiên cứu Ngô đã nghiên cứu gây tạo đột biến bằng
tia gamma kết hợp xử lý Diethylsulphat ở ngơ nếp đã thu đƣợc một số
dịng biến dị có các đặc tính nơng học q so với giống ban đầu (Nguyễn
Hữu Đống và cs, 1997) [1].
Thời gian gần đây, các nhà tạo giống Việt Nam đã bắt đầu chuyển
sang hƣớng tạo giống nếp lai và đã tạo đƣợc một vài giống nếp lai khơng
quy ƣớc có triển vọng nhƣ các giống lai MX2, MX4 của Công ty cổ phần
giống cây trồng Miền Nam, Bạch ngọc của công ty Lƣơng Nông. Từ vài
năm nay, một số giống ngô nếp lai quy ƣớc từ các cơng ty giống nƣớc

ngồi đã đƣợc trồng ở Việt Nam, chủ yếu là các tỉnh phía nam. Nguồn
giống nếp này phần lớn là các giống lai từ Đài Loan, Thái Lan thông qua
một số công ty giống nhƣ Nông Hữu, Thần Nông, Lƣơng Nông, Trang
Nông, Long Hồng Gia, An Điền... Có điều những giống từ các công ty
này bán ra với giá rất cao, chẳng hạn giống lai đơn của cơng ty Đơng Tây
có giá bán là 140.000đ/kg, giống Wax – 44 của Syngenta Thái Lan là
160.000đ/kg...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




23

CHƢƠNG II
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu gồm 9 giống ngơ nếp lai có triển vọng thu thập từ
các cơ quan đơn vị khác nhau ở Việt nam :
STT

Giống

Nguồn gốc

Nhóm TGST

1


VN2 (đ/c)

Viện nghiên cứu ngô

Ngắn ngày

2

MX-10

C.ty CP GCT Miền Nam

Ngắn ngày

3

NL-1

Viện nghiên cứu ngô

Ngắn ngày

4

NL-2

Viện nghiên cứu ngô

Ngắn ngày


5

NL-4

Viện nghiên cứu ngô

Ngắn ngày

6

NL-6

Viện nghiên cứu ngô

Ngắn ngày

7

NL-7

Viện nghiên cứu ngô

Ngắn ngày

8

NL-8

Viện nghiên cứu ngô


Ngắn ngày

9

LSB4

Viện nghiên cứu ngô

Ngắn ngày

Giống đối chứng của thí nghiệm là giống VN2 hiện nay đang đƣợc
trồng nhiều ở tỉnh Vĩnh Phúc
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm sinh trƣởng, khả năng chống chịu, năng suất và
chất lƣợng của các giống ngô nếp.
- Xây dựng mơ hình trình diễn giống ngơ có triển vọng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




24

2.3. Địa điểm và thời gian thực hiện đề tài
2.3.1. Địa điểm : - Thí nghiệm khảo nghiệm giống đƣợc tiến hành tại Trại sản
xuất giống cây trồng Mai Nham thuộc Trung tâm giống cây trồng Vĩnh Phúc .
Địa chỉ : Xã Duy Phiên - huyện Tam Dương - tỉnh Vĩnh Phúc.
- Mơ hình trình diễn giống ngơ có triển vọng đƣợc thực hiện tại xã
Hợp Thịnh huyện Tam Dƣơng tỉnh Vĩnh Phúc.

2.3.2. Thời gian thực hiện :
- Thí nghiệm so sánh giống thực hiện trong 02 vụ:
Vụ xuân : Gieo ngày 27/01/2007.
Vụ đơng : Gieo ngày 24/9/2007.
- Trình diễn giống ngơ mới có triển vọng 01 vụ : Vụ xn 2008.
2.4. Quy trình kỹ thuật áp dụng trong thí nghiệm (Áp dụng Quy phạm khảo
nghiệm giống cây trồng TW số 10TCN 341-2006)
- Thí nghiệm đƣợc thực hiện trên đất trồng màu, đại diện cho vùng
sinh thái, có độ phì đồng đều, bằng phẳng và chủ động tƣới tiêu.
- Đất đƣợc cày xới, làm sạch cỏ, san bằng phẳng, độ ẩm đất khi gieo
75-80% độ ẩm tối đa đồng ruộng.
- Mật độ và khoảng cách :
+ Mật độ trồng : 71.000 cây/ha
+ Khoảng cách : 70 cm x 20 cm ( 100 cây/ơ thí nghiệm)
- Phân bón : + 8 tấn phân chuồng/1ha
+ Phân vô cơ : N (kg) : P 2 O5(kg) : K2 O (kg) ;

120 : 90 : 90.

Tƣơng đƣơng với lƣợng phân: - Đạm Urê: 260,8 kg/ha.
- Lân Supe: 500 kg/ha.
- Kaliclorua: 150 kg/ha

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




25


- Phƣơng pháp bón :
+ Bón lót 100% Phân chuồng và 100% phân lân supe
+ Bón thúc chia làm 3 lần :
Lần 1 : Bón khi ngơ có 3- 5 lá : 1/3 lƣợng đạm + 1/2 lƣợng kali
Lần 2 : Bón khi ngơ có 7 - 9 lá : 1/3 Lƣợng đạm + 1/2 lƣợng kali
Lần 3 : Bón trƣớc khi ngô trỗ cờ 10-15 ngày : 1/3 Lƣợng đạm cịn lại
- Chăm sóc
+ Vun xới và bón thúc
- Khi ngơ có 3- 5 lá : Xới đất bón thúc lần 1 và vun nhẹ quanh gốc .
- Khi ngơ 7- 9 lá : Xới đất bón thúc lần 2 và vun cao chống đổ.
+ Tƣới nƣớc : Đảm bảo đủ độ ẩm cho ngô, đặc biệt vào các thời kỳ
ngơ 6-7 lá, ngơ xốy nõn (trƣớc khi trỗ cờ 10-12 ngày), kết thúc thụ phấn
đến chín sữa (sau khi trỗ cờ 10-15 ngày). Cần tƣới đồng đều.
- Thu hoạch
+ Khi ngơ ở thời kỳ chín sữa
+ Khi lá chuyển sang màu vàng, chân hạt có vết đen.(Thời kỳ chín hồn tồn)
2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.5.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm.
Thí nghiệm so sánh giống đƣợc bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh
(RCBD - Randomized Complete Block Design), 3 lần nhắc lại, mỗi công
thức gieo 4 hàng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




×