Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài thu hoạch diễn án hồ sơ 09 kiện đòi tài sản bà Chu Thị Thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.01 KB, 12 trang )

BỘ TƯ PHÁP
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
-----------------

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
HỒ SƠ ĐTC.DS 09

Họ và tên

NGUYỄN THỊ THU HÀ

Ngày sinh
Số báo danh
Lớp

Đào tạo nguồn Thẩm phán - Viện
kiểm sát – Luật sư

Hà Nội, ngày 12 tháng 01 năm 2023


Mục Lục
I. Tóm tắt vụ án................................................................................................................ 2
1. Đương sự................................................................................................................... 2
2. Diễn biến................................................................................................................... 3
II. Yêu cầu khởi kiện........................................................................................................4
III. Kế hoạch hỏi bảo vệ cho bị đơn................................................................................4
IV. Luận cứ bảo vệ cho Bị đơn........................................................................................6

1



I.
1.
1.1.
1.1.1.

Tóm tắt vụ án
Đương sự trong vụ án
Nguyên đơn:
Bà Chu Thị Hồng Thanh (Tên gọi khác là Chu Thị Thanh) - Sinh năm: 1930
Địa chỉ: Số nhà 12, tổ 16 phường Nam Thanh, thành phố Điện Biên, tỉnh Điện

Biên.
Đại diện theo ủy quyền là bà Chu Thị Hồng Tâm – Sinh năm: 1970. Địa chỉ: Số
nhà 61, Tổ 6 phường Nam Thanh, thành phố Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
1.1.2. Ông Chu Khắc Sinh (Tên gọi khác là Chu Văn Sinh) - Sinh năm: 1936
1.2.

Địa chỉ: Vạn Thắng, Hòa Thắng, Hữu Lũng, Lạng Sơn.
Bị đơn: Bà Đinh Thị Tám - Sinh năm: 1930

Địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
1.3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1.3.1. Bà Chu Thị Loan - Sinh năm: 1935
Địa chỉ: Tổ 3 phường Cầu Thía, thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái.
Đại diện theo uỷ quyền là ông Chu Anh Quyết – Sinh năm 1952. Địa chỉ: Thôn
6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
1.3.2. Bà Chu Thị The - Sinh năm: 1944
Địa chỉ: Đội 1, thơn Diên Điền, xã Hịa Bình, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.
Đại diện theo uỷ quyền là ông Chu Anh Quyết – Sinh năm 1952. Địa chỉ: Thôn

6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
1.3.3. Ông Chu Khắc Hồng - Sinh năm: 1956
Địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
1.3.4. Bà Trần Thị Đắc - Sinh năm: 1957
Địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
1.3.5. Bà Chu Thị Mai- Sinh năm: 1952
Cùng địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
1.3.6. Ủy ban nhân dân xã Phù Vân
Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Thùy Ngân – Phó Chủ tịch UBND xã Phù
Vân.

2


2.

Quan hệ pháp luật tranh chấp
Đây là Tranh chấp về Quyền sử dụng đất thuộc những trường hợp tranh chấp về
đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự
2015 (Sau đây gọi là “BLTTDS”).
3.
Thẩm quyền giải quyết vụ án
Căn cứ pháp lý: Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39
BLTTDS.
Thẩm quyền về vụ việc: Đây là vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án theo Điều 26 BLTTDS.
Thẩm quyền về cấp xét xử: Theo điểm a khoản 1 Điều 35 BLTTDS, Tòa án Nhân
dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về đất đai.
Thẩm quyền theo lãnh thổ: Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 39 BLTTDS,
mảnh đất đang có tranh chấp có vị trí tại thơn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý (nay là

Thành phố Phủ Lý), tỉnh Hà Nam. Như vậy, Tòa án Nhân dân (sau đây gọi là “TAND”)
Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam là tịa án có thẩm quyền giải quyết vụ án này.
4.
Nội dung vụ án
Cụ Chu Khắc Trường và cụ Chu Thị Cúc là vợ chồng, kết hôn trước năm 1945.
Năm 1945, Cụ Chu Khắc Trường mất và không để lại di chúc.
Khi hai cụ cịn sống có 04 người con chung là Bà Chu Thị Thanh (Chu Thị Hồng
Thanh), Chu Khắc Sinh, Chu Thị Loan, Chu Thị The. Khi trưởng thành đều lập gia đình
và làm ăn sinh sống ở nơi khác nhau.
Năm 1990, cụ Chu Thị Cúc mất để lại ngôi nhà 2 gian và đất ở với tổng diện tích
777 m2 tại thửa đất số 40 tờ bản đồ số 02 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, huyện
Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, trên đất có tài sản là 01 ngôi nhà cấp 4 hai gian lợp ngói, Ao cùng
tồn bộ cây cối, hoa màu (thơng tin theo sổ địa chính của xã Phù Vân đang lưu trữ,
nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất vì chưa kê khai).
Ngày 21/01/1994, ơng Chu Khắc Sinh không thông qua thống nhất với các đồng
thừa kế khác, tự ý lập giấy chuyển nhượng mảnh đất nói trên cho ông Chu Khắc Thuyên
(chồng bà Đinh Thị Tám) với giá trị là 1.500.000đ (BL 7, 8, 13, 52). Đã giao cho ông
Sinh cầm 500.000 đồng.
Ngày 10/04/1994, UBND xã Phù Vân ra Thơng báo số 05/TB-UB tạm đình chỉ việc
chuyển nhượng nói trên giữa ơng Sinh và vợ chồng ơng Thuyên (BL 9).
Ngày 15/04/1994, bốn chị em bà Thanh, bà Loan, ông Sinh và bà The đã thống nhất
giao mảnh đất trên cho ông Thuyên (anh họ) và bà Tám (vợ ông Thuyên) trông nom,
quản lý. Thời hạn giao 05 năm kể từ ngày 15/04/1994 đến 15/04/1999. Ơng Thun có
trách nhiệm tư sửa nhà cửa giữ để ở không để dột nát, đất đai tự sản xuất ra sản phẩm sử
dụng và nạp nghĩa vụ với nhà nước (trồng các cây ngắn ngày) không được xây dựng cơ
bản như: làm nhà, đất phải giữ nguyên mặt bằng không được đào khoét. Các cây cối lưu
3


niên không được chặt phá. Tổng giá trị thu nhập cây lưu niên hàng năm phải có sự chứng

kiến của hai bên nội ngoại. Số tiền đó ơng Chu Khắc Thuyên được hưởng 50% (năm
mươi phần trăm) phần còn lại do bốn chị em bà Thanh sử dụng (mở sổ ở ngân hàng do bà
Chu Thị Thanh đứng tên) (BL 10).
Ngày 22/11/2001, ông Chu Khắc Sinh làm giấy giao quyền cho ông Chu Khắc
Chinh (trưởng họ) trông nom, bảo vệ và thu hoạch và hưởng 50% tiền hoa lợi từ cây lưu
niên hàng năm (BL 13) nhưng trên thực tế cho đến nay.
Mảnh đất trên vợ chồng ông khuyên và bà Tám quản lý, sử dụng và nộp thuế từ
năm 1990 đến nay.
Tháng 05/2012 bà Tám xây dựng 01 ngôi nhà cấp 4 khoảng 100m2 trên mảnh đất
kể trên. Không đồng ý với việc xây cất nói trên nên ơng Sinh có đơn gửi UBND xã Phù
Vân đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai giữa bốn chị em ông với bà Đinh Thị Tám.
UBND xã Phù Vân đã tiến hành 2 phiên hòa giải ngày 19/06/2012 và ngày
25/10/2012 nhưng khơng có kết quả. Có lập biên bản hịa giải (bút lục 26, 27, 28).
Ngày 27/06/2017, sau khi đã phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải, Ủy ban nhân dân xã Phù Vân có ý kiến phần đất ao 289 m2 là của
UBND xã quản lý, quá trình đo đạc 1998 đo theo chỉ dẫn của đại diện hộ gia đình ơng
Chu Hữu Vang tự chỉ và nhận mốc giới vì vậy xã sẽ thu hồi để quản lí, nếu hộ gia đình cá
nhân có nhu cầu sử dụng thì phải có đơn để làm căn cứ xét tạm giao để canh tác. (BL
102)
Phía bị đơn giữ nguyên quan điểm quyền sử dụng đất là của gia đình ơng Thun và
bà Tám vì ông Chu Khắc Sinh đã làm giấy chuyển quyền năm 1994, thỏa thuận trả
1.500.000 đồng và ông Sinh đã nhận thực tế 500.000 đồng.
II.

Yêu cầu khởi kiện
Ý kiến của Nguyên đơn - Bà Chu Thị Thanh, Ông Chu Văn Sinh đối với các yêu

cầu khởi kiện:
(1)
Yêu cầu bà Đinh Thị Tám trả lại diện tích đất 777 m2 tại thửa đất, số 40 tờ

bản đồ số 2 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho bà
Chu Thị Thanh, ông Chu Văn Sinh, bà Chu Thị Loan, bà Chu Thị The.
(2)
Yêu cầu bà Đinh Thị Tám trả nhà, đất, cây cối trên diện tích đất nêu trên và
50% giá trị thu nhập từ hoa màu của các cây lưu niên kể từ ngày 15/04/1994.
(3)
Trong q trình giải quyết vụ án, phía ngun đơn bổ sung yêu cầu bị đơn
phá dỡ nhà đã xây dựng trên đất.
III.

Kế hoạch hỏi bảo vệ cho bị đơn
1. Hỏi bị đơn bà Tám:
- Nguồn gốc đất mà bà đang xây nhà trên thửa đất đó là của ai? Thửa đất này hiện

nay
đã có sổ đỏ (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) chưa?
4


- Vào năm 1994 khi ông Chu Văn Sinh về quê đã có ý định bán đất cho ai?
- Bà đã làm gì sau khi biết ơng Sinh muốn bán mảnh đất trên?
- Ơng Thun và bà có biết về việc ơng Sinh giao quyền trơng nom diện tích đất
đang tranh chấp cho ông Chu Khắc Chinh không? Tại sao gia đình bà khơng giao lại việc
quản lý đất cho ông Chu Khắc Chinh?
- Trong giấy biên nhận giao tiền, bà giao cho ông Sinh bao nhiêu? Thực tế đã đưa
cho ông sinh bao nhiêu tiền? Tại sao bà lại đưa tiền cho ơng Sinh?
- Bà hãy cho biết tình trạng nhà cấp 4 của bà Cúc (mẹ nguyên đơn) khi bà có dự
định xây nhà mới? Trước khi xây cất nhà, bà có xin phép chính quyền địa phương hay
không?
- Khi viết giấy chuyển quyền thừa kế ông Sinh có nhắc gì đến ý kiến của các anh

chị em ruột của mình về việc ơng bán mảnh đất khơng?
- Trên thực tế gia đình bà đã sử dụng mảnh đất trên bao nhiêu năm? có xảy ra tranh
chấp gì hay khơng?
- Nghĩa vụ đóng thuế với Nhà nước đối với thửa đất này từ trước đến nay ai thực
hiện?
- Trong thời gian từ năm 1994 đến nay, bà đã có cơng sức như thế nào trong việc
duy trì, tơn tạo đất đai, nhà cửa, cây cối?
2. Hỏi bị đơn
- Hỏi ơng Chu Khắc Sinh:
+ Năm 1994, có phải ơng đã chuyển quyền sử dụng đất cho ông Thuyên? Việc
chuyển nhượng này có những ai biết? Lý do ơng chuyển là gì? Mảnh đất tại thời điểm
ơng chuyển đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa?
+ Việc viết giấy là do ơng tự nguyện có đúng khơng?
+ Vào thời điểm ký văn bản chuyển quyền thừa kế ông có nhận thức được ông
không có quyền quyết định đối với tồn bộ mảnh đất mà bố mẹ ơng đã để lại không?
+ Khi các chị em của ông biết thì ơng đã xử lý như thế nào?
+ Giấy giao quyền trơng nom thỏa thuận những nội dung gì? Có những ai làm
chứng?
+ Vì sao sau khi hết hạn Giấy giao quyền trông nom ngày 15/04/1994 ông và các
chị em của ông như Bà Thanh, bà Loan, bà The không trở về để giải quyết theo đúng như
thỏa thuận?
+ Tại sao sau khi hết thơi hạn của giấy giao quyền, gia đình ơng khơng ai trở về để
giải quyết đúng như thỏa thuận?

5


+ Ơng và gia đình có đồng ý rằng nếu tất cả không ai trở về để giải quyết sau ngày
15/04/1999 đồng nghĩa với việc bà Tám tiếp tục có quyền sử dụng mảnh đất, thu hoạch
hoa màu lợi tức hay khơng?

+ Ơng có đồng ý cho bà Tám phá dỡ hay xây nhà mới không?
- Hỏi bà Chu Thị Hồng Thanh:
+ Khi chết thì cụ Trường và cụ Cúc có để lại di chúc khơng? Các anh chị em trong
gia đình bà đã đến UBND xã để đăng kí khai nhận di sản thừa kế hay không?
+ Ngày 20/01/1994, ông Chu Khắc Sinh cùng vợ là bà Đỗ Thị Lý viết đơn chuyển
quyền thừa kế cho ông Chu Khắc Thun (tức Kha), bà có biết vấn đề này khơng? Bà đã
xử lý như thế nào?
+ Bà có biết việc UBND xã Phù Vân đã ra thông báo về việc tạm đình chỉ việc
chuyển quyền thừa kế vào ngày ngày 10/4/1994 khơng? Sau khi biết sự việc bà đã làm
gì?
+ Năm 2001, ơng Chu Khắc Sinh có làm giấy giao quyền sử dụng đất cho anh Chu
Khắc Chinh, việc này có xác nhận của thơn 6 và UBND xã Phù Vân, bà và các chị em
khác có biết việc này khơng? Bà đã làm gì khi biết việc này?
+ Khi giao đất cho ơng Chu Khắc Thun quản lý có lập biên bản không?
+ Việc ông Chu Khắc Sinh viết giấy chuyển giao quyền sử dụng đất cho ông
Thuyên bà có biết khơng?
+ Khi bà Tám dỡ nhà và xây nhà mới có báo cho bà khơng hay bà có biết khơng?
+ Bà có đồng ý cho bà Tám dỡ nhà và xây nhà mới không?
+ Hiện nay mảnh đất do ai quản lý?
+ Nghĩa vụ về thuế của mảnh đất này do ai nộp?
IV.

Luận cứ bảo vệ cho Bị đơn
LUẬN CỨ BẢO VỆ
QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO BỊ ĐƠN
Kính thưa:
- Hội đồng xét xử!
- Thưa vị đại diện Viện kiểm sát cùng tồn thể q vị có mặt trong phiên tịa
ngày hơm nay!
- Thưa các vị Luật sư đồng nghiệp cùng tồn thể q vị có mặt tại phiên tồ

ngày hơm nay!
Tơi là Luật sư Nguyễn Thị Thu Hà đến từ đoàn luật sư Thành phố Hà Nội

6


Trên cơ sở yêu cầu của bà Đinh Thị Tám và được sự đồng ý của Q Tịa, tơi có
mặt tại phiên tịa hơm nay để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Đinh Thị Tám là
bị đơn trong vụ án dân sự đã được TAND TP Phủ Lý tỉnh Hà Nam thụ lý số 20/TBTLVA ngày 09/11/2016.
Kính thưa Hội đồng xét xử
Qua q trình nghiên cứu hồ sơ vụ việc cũng như theo dõi diễn biến phiên tịa ngày
hơm nay tơi xin đưa ra quan điểm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà
Đinh Thị Tám như sau:
Thứ nhất: về hợp đồng chuyển giao quyền thừa kế. Theo kết quả phần hỏi phiên
tịa sơ thẩm ngày hơm nay cũng như xét về nội dung của giao dịch dân sự xác lập ngày
20/01/1994 giữa ông Chu Khắc Sinh và ông Chu Khắc Thuyên có thể xác định hợp đồng
dân sự này là vô hiệu. Khoản 1 Điều 15 Pháp lệnh về hợp đồng dân sự ngày 29 tháng 04
năm 1991 của Hội Đồng Nhà nước quy định như sau: “Điều 15. Hợp đồng vơ hiệu 1Hợp đồng vơ hiệu tồn bộ trong các trường hợp sau đây: a) Nội dung hợp đồng vi phạm
điều cấm của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội; b) Một hoặc các bên khơng có quyền
giao kết hợp đồng.” Theo nội dung hồ sơ đã xác định được rõ ông Chu Khắc Sinh không
phải là người thừa kế duy nhất của thửa đất 777,4m² tại thửa đất số 40 tờ bản đồ số 02 lập
năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Do vậy ơng khơng có
quyền chuyển quyền sử dụng đất cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào khác (trừ khi bên
chuyển quyền sử dụng đất là toàn bộ người thừa kế). Dẫn đến xác định được hợp đồng
giữa ông Chu Khắc Sinh và ông Chu Khắc Thun ký ngày 20/01/1994 là vơ hiệu tồn
bộ.
Xét căn cứ về thời hiệu, theo điều 1.4 về thời hạn yêu cầu Tịa tun bố giao dịch
dân sự vơ hiệu của Nghị quyết số 02 ngày 10/08/2004/NQ-HĐTP-TANDTC: “Đối với
giao dịch dân sự được giao kết trước ngày 01/07/1996 thuộc trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 15 của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 […], thì thời gian yêu cầu

Tịa án tun bố giao dịch dân sự vơ hiệu không bị hạn chế. Trong mọi thời điểm một bên
hoặc các bên đều có quyền u cầu Tịa án tun bố giao dịch dân sự đó vơ hiệu.”
Như vậy, hiện nay còn thời hiệu để Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Cùng
theo quy định tại Điều 16 Pháp lệnh về hợp đồng dân sự ngày 29 tháng 04 năm 1991 của
Hội Đồng Nhà nước thì cách xử lý hợp đồng vô hiệu như sau: “- Trong trường hợp hợp
đồng đã được thực hiện một phần hoặc tồn bộ, thì các bên có nghĩa vụ hồn trả cho nhau
7


tài sản đã nhận, nếu tài sản đó khơng bị tịch thu theo quy định của pháp luật; nếu khơng
hồn trả được bằng hiện vật, thì phải hồn trả bằng tiền. 4- Bên có lỗi trong việc giao kết
hợp đồng vô hiệu mà gây ra thiệt hại cho bên kia, thì phải bồi thường, trừ trường hợp bên
bị thiệt hại biết rõ lý do làm cho hợp đồng vô hiệu mà vẫn giao kết.” Kính thưa HĐXX,
hợp đồng chuyển quyền thừa kế được xác lập từ năm 1994, đến thời điểm hiện tại đã kéo
dài gần 30 năm, để lại nhiều hệ lụy cho cả gia đình phía bên ngun đơn, đặc biệt là hao
tốn công sức, tinh thần, thậm chí tiền của của bên bị đơn. Do vậy tơi – với tư cách là đại
diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, kính đề nghị Tòa án yêu cầu ông Chu
Khắc Sinh, là bên bán trong giao dịch dân sự kể trên có trách nhiệm bồi hồn cho bà
Đinh Thị Tám cũng như bồi thường thích đáng do hậu quả của thiệt hại ông Sinh đã gây
ra cho phía bên gia đình bà Tám. Đối với giao dịch dân sự vô hiệu thuộc trường hợp quy
định tại Khoản 1 Điều 15 của Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 thì việc xử lý hậu
quả của giao dịch dân sự vô hiệu, theo điểm a mục 1.4 của Nghị quyết 02 ngày
10/08/2004/NQ-HĐTPTANDTC như sau: Tòa án xử lý hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu
theo quy định của văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm giao dịch được xác lập. Dẫn
chiếu theo quy định này, tại khoản 2 Điều 137 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định trong
trường hợp có thiệt hại mà các bên đều có lỗi, thì mỗi bên tự chịu phần thiệt hại của
mình; nếu chỉ một bên có lỗi thì bên đó phải bồi thường thiệt hại cho bên kia; Tuy nhiên
trong Bộ luật nói trên khơng xác định rõ cách xác định lỗi và xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Theo tiểu mục 2.3, điểm c.2, c.3 của Nghị quyết số 02 ngày 10/08/2004/
NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc giải quyết tranh

chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau ngày 15/10/1993;
xác định lỗi và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo hướng dẫn
tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP
ngày 16/04/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hơn nhân và gia đình.”.
Điểm a.1 của tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết này quy định Một bên bị coi là có lỗi nếu
bên đó có hành vi làm cho bên kia nhầm tưởng là có đầy đủ điều kiện để mua hoặc bán
tài sản là hợp pháp. Ông Sinh khi ký thỏa thuận chuyển quyền sử dụng đất với ông
Thuyên, bà Tám đã làm cho vợ chồng 8 bà Tám có sự nhầm lẫn, xuất phát từ việc tin
tưởng ông Sinh cũng như bối cảnh không thể xác nhận sự đồng thuận của các chị em
trong gia đình (do các chị em của ơng Sinh đã định cư ở nơi khác, thông tin liên lạc cực
8


kì khó khăn). Khơng những vậy, ơng Sinh thậm chí cịn làm cho cả trưởng thơn cũng như
trưởng họ (ơng Chu Khắc Chinh) nhầm tưởng rằng ơng có đầy đủ quyền để có thể
chuyển giao thửa đất một cách hợp pháp, bằng chứng là việc ký xác nhận của gia đình
ơng Thun cũng như của cán bộ địa phương tại Văn bản chuyển giao quyền thừa kế
ngày 20/01/1994 (Bút lục số 07). Do vậy lỗi phần lớn là phía bên ông Sinh, có thể xác
định lỗi của bên bán trong trường hợp này chiếm 70% dẫn đến việc hợp đồng dân sự giữa
ông Sinh và ông Thuyên vô hiệu. Về phía ơng Thun và bà Tám, có thể xác định lỗi của
vợ chồng bà là lỗi vô ý, do chủ quan và quá tin tưởng vào gia đình, chiếm 30% lỗi dẫn
đến thiệt hại mà bà Tám phải chịu hàng mấy chục năm trời nay. Theo điểm b.3 Tiểu mục
2.4 Phần I của Nghị quyết này, bên bán có lỗi làm cho hợp đồng mua bán vơ hiệu thì bên
bán phải trả cho bên mua số tiền đã nhận và bên mua phải giao lại tài sản cho bên bán,
trong trường hợp có sự chênh lệch giá tài sản mà bên mua bị thiệt hại thì bên bán phải bồi
thường khoản tiền chênh lệch giá được xác định theo hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.4
mục 2. Theo Biên bản đo đạc, kiểm tra khảo sát thực địa và định giá tài sản ngày
01/03/2017 tại BL số 90. Theo đó tổng giá trị của thửa đất được xác định là 384.271.220
đồng (ba trăm tám mươi tư triệu hai trăm bảy mốt ngàn hai trăm hai mươi ngàn đồng).

Giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất do các bên thỏa thuận căn cứ theo hợp
đồng chuyển quyền sử dụng đất là 1.500.000đ. Do vậy thiệt hại được xác định là:
267.939.854đ
Ơng Chu Khắc Sinh có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Tám cùng gia đình
bằng tiền mặt số tiền kể trên.
Thứ hai: Trên thực tế giao dịch dân sự giữa ông Sinh và vợ chồng ông Thuyên
đã được thực hiện vợ chồng ông Thuyên đã nộp thuế, quản lý, sử dụng diện tích đất
đó liên tục nhiều năm không sảy ra tranh chấp.
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án năm 1994 ơng Sinh chuyển giao quyền thừa
kế cho vợ chồng ông Thuyên được sự chứng kiến của các nhưng người làm chứng và đại
diện UBND, các đồng thừa kế khơng có ý kiến gì cũng khơng phản đối kể từ thời điểm
chuyển giao quyền thừa kế vợ chồng ông thuyên đã quản lý, sử dụng mảnh đất đó liên tục
khơng có tranh chấp từ 1994 đến 2015 điều này được khẳng định tại các bút lục 04, 05 tờ
trình sự việc của ông Sinh, BL 39 biên bản lấy lời khai của bà Tám. Ngoài ra BL 55, 56
cũng chứng minh gia đình ơng Thun đã hồn thành nghĩa vụ thuế hàng năm liên tục từ
1994 đến 2015.
9


Bốn người con của cụ Cúc đều sinh ra và lớn lên trên mảnh đất thôn 6 phù vân TP,
Phủ Lý, Hà Nam nhưng khi lớn lên dựng vợ gả chồng thì khơng một ai ở lại q nhà
trơng nom ni dưỡng mẹ già. Bỏ mặc cụ Cúc một mình sống đơn thân nương nhờ vào
sự chăm sóc của vợ chồng ông thuyên và sau này đến vợ chồng con trai ông thuyên từ lúc
ốm đau bệnh tật, từng miếng cơm viên thuốc 4 người con đẻ không hề quan tâm, lo lắng
cho cụ. Cho đến lúc cụ Cúc chết đi cũng chỉ có mình bà The về ma chay được vài ngày
lại bỏ đi để cho vợ chồng anh Chu khắc Hồng là gia đình con trai bà Tám hương khói cho
cụ.
Năm 2011 căn nhà của bà Cúc từng ở khi còn sống cũng là căn nhà duy nhất để các
con cháu cụ Cúc có nơi để thắm nén hương cho tổ tiên mỗi khi về quê nhà vì quá cũ nên
sụp đổ. Bà Tám đã tự bỏ tiền của gia đình mình ra xây cất một căn nhà cấp 4 trên nền nhà

cũ vừa để quản lý đất đai cho thuận tiện cũng vừa là có nơi cho con cháu cụ Cúc đặt bàn
thờ tổ tiên. Dù xét về tình hay về lý thì việc bà tám xấy cất căn nhà trên cũng đều là thoả
đáng.
Hơn nữa trước khi xây dựng bà Tám đã thơng báo chính quyền thơn và chính quyền
thơn đã khơng phản đối việc xây dựng này thể hiện ở bút lục 38, 39.
Tài sản gây dựng trên đất của bà Tám gồm: 1 căn nhà cấp 4, 6 cây xanh, 6 bụi
chuối điều này được thể hiện tại các bút lục 38, 39, 40. Tổng giá trị tài sản trên căn cứ
theo biên bản định giá tài sản là: 57.930.320 VNĐ ngoài ra chưa kể đến cơng tơn tạo giữ
gìn tài sản, đất đai của gia đình bà Tám suất quãng thời gian mà các con cụ Cúc đã bỏ đi
biền biệt.
Từ những phân tích trên tơi đề nghị HĐXX xem xét ra quyết định hợp tình hợp lý
đảm bảo quyền lợi cho thân chủ tôi. Tôi tin tưởng vào sự phán xét công minh của HĐXX
trong phiên tồ ngày hơm nay.
Trên đây là toàn bộ quan điểm của luật sư bảo vệ cho bị đơn bà Đinh thị Tám cảm
ơn HĐXX và quý vị đã lắng nghe.
LUẬT SƯ

Nguyễn Thị Thu Hà
10


11



×