Tải bản đầy đủ (.doc) (327 trang)

Lịch sử đoàn thanh niên cộng sản hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 327 trang )

CHƯƠNG I:
NGUYẾN ÁI QUỐC VÀ TỔ CHỨC VIỆT NAM THANH NIÊN CÁCH MẠNG
ĐỒNG CHÍ HỘI VỚI Q TRÌNH CHUẨN BỊ THÀNH LẬP ĐOÀN

LỜI TỰA
Sự phát triển vẻ vang của dân tộc ta từ khi có Đảng và Bác Hồ kính u đến nay
ln gắn liền với những kỳ tích của các thế hệ thanh niên được vũ trang bằng lý tưởng cách
mạng cao đẹp.
Lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên nước ta
là lịch sử của đội qn xung kích ln nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng; chiến đấu,
hy sinh oanh liệt; lao động sáng tạo, kiên cường, góp phần làm rạng rỡ non sông đất nước
ta.
Quá khứ hào hùng của các thế hệ đi trước là truyền thống tốt đẹp hướng dẫn các thế
hệ trẻ ngày nay đoàn kết phấn đấu thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đi
vào tương lai, sánh vai các cường quốc năm châu như mong muốn thiết tha của Bác Hồ
kính yêu.
Đọc lịch sử Đoàn, mọi cán bộ, đoàn viên thanh niên hãy tự soi mình để tự rèn luyện, phấn
đấu tốt hơn góp phần xứng đáng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
yêu quý của chúng ta.
PHẠM
VĂN ĐỒNG
MỞ ĐẦU
TUỔI TRẺ LÀ MÙA XUÂN CỦA XÃ HỘI

Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân
của xã hội
Câu nói của Bác Hồ trong bức thư gửi cho thanh thiếu niên nhân ngày Tết Độc lập
đầu tiên của dân tộc Việt Nam sau ngày Cách mạng thành công (1-1946) khơng chỉ nói lên
niềm tin vào thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng tương lai của đất nước mà còn nêu lên
một chân lý lịch sử về vai trị của các thế hệ trẻ đối với tiến trình phát triển của dân tộc
Việt Nam qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.


Ngay ở buổi bình minh của lịch sử dân tộc ta, những truyền thuyết gắn liền với thời
đại các vua Hùng dựng nước đều biểu dương sức trẻ trong công cuộc chinh phục thiên
nhiên (Sơn Tinh - Thủy Tinh, Mai An Tiêm...), xây dựng đời sống, tập qn văn hóa (Lang
Liêu với sự tích bánh chưng, Chử Đồng Tử...) và đặc biệt trong sự nghiệp giữ nước. Câu
chuyện truyền thuyết về Thánh Gióng, cậu bé làng Phù Đổng tuổi nhỏ chí lớn đã gánh vác
việc nước, cưỡi ngựa sắt đánh giặc Ân bảo vệ Tổ quốc đã trở thành biểu tượng của ý chí


độc lập tự do cho dân tộc ta:
Thiếu niên ta rất vẻ vang
"
Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời.
Tuổi tuy chưa đến chín mười,
Ra tay cứu nước dẹp lồi vơ lương"
(Hồ Chí Minh - Lịch sử nước ta)
Chính sức trẻ của các thế hệ thanh thiếu niên của mọi thời đại trong lịch sử đã mang
lại sức mạnh cho dân tộc ta vượt qua mọi thử thách. Một ngàn năm đơ hộ của nhà Hán
được chính sử nước ta chép lại như một đêm trường nô lệ, nhưng ở đó vẫn lóe sáng lên
những tấm gương nghĩa liệt của các thế hệ người Việt yêu nước chống lại ách thống trị và
âm mưu đồng hóa của ngoại bang. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng bùng nổ vào giữa
thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên (40-43) là ngọn cờ đầu của tuổi trẻ. Sử sách khơng nói
chính xác tuổi tác của Hai Bà khi dựng cờ tụ nghĩa, nhưng cuộc nổi dậy với lý tưởng:
Một, xin rửa sạch mối thù
"
Hai, xin đem lại nghiệp xưa vua Hùng..."
(Thiên Nam ngũ lục)
đã thu hút đông đảo nhân dân tham gia mà sử sách hay các thần phả ở nhiều địa phương
còn lưu giữ được cho biết một đội ngũ rất đông đảo tên tuổi các vị tướng của Hai Bà tuổi
còn rất trẻ như Thánh Thiên, Lê Chân, Thiều Hoa, Xuân Nương, Cao Thị Liên, Nàng
Tía,v.v... tất cả đều ở độ tuổi đơi mươi.

Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng lan rộng, nghĩa qn chiếm được 65 thành và Hai Bà
đóng đơ ở Mê Linh, nhưng cuối cùng cũng thất bại sau khi nêu được khí tiết lẫm liệt của
một dân tộc sẵn sàng hy sinh để giành quyền tự chủ đối với giang sơn gấm vóc của các vua
Hùng để lại.
Hai thế kỷ sau, vào năm 246, một cuộc khởi nghĩa cũng do một thiếu nữ tuổi trịn hai
mươi có tên là Triệu Thị Trinh chỉ huy đã bùng nổ từ căn cứ Ngàn Nưa (của đất Cửu Chân,
nay thuộc Thanh Hóa) nêu cao ý chí quật khởi:
"Người ta sống trong hồng trần, như mầm cây ngọn cỏ, tươi héo chỉ trong nháy
mắt, từ thanh niên tới già cỗi nhanh chóng như bay. Cho nên không kể là trai hay gái, phải
lập cơng lớn để thơm ngàn năm, việc gì lại cúi đầu khom lưng làm tôi tớ cho kẻ khác...
Ta quyết cưỡi gió, đạp sóng, chém cá kình ngồi biển Đơng, quét sạch bờ cõi, cứu
dân khỏi lầm than, chứ không thể cúi đầu khom lưng làm tì thiếp người".
Cũng như Hai Bà Trưng, cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh cũng không thành,
người nữ anh hùng đã lên núi Nùng tuẫn tiết khi mới vừa 22 tuổi (năm 248) và được nhân
dân muôn đời tôn vinh là vua Bà, Bà Triệu...
Sau Bà Triệu, lịch sử những thế kỷ sau của dân tộc ta còn được viết tiếp với tên
tuổi của những người anh hùng cứu nước mà tiêu biểu là Lý Bí(2), người đã lãnh đạo nhân
dân chống ách đơ hộ của nhà Lương. Cuộc khởi nghĩa nổ ra vào năm 541 đánh chiếm Long
Biên rồi liên tiếp đánh bại viện binh từ phương Bắc tới. Tháng 2 năm 544, Lý Bí xưng
vương là Lý Nam Đế lập ra nước Vạn Xuân.
Giúp Lý Nam Đế lập nên nghiệp lớn, cùng với những lão tướng như Phạm Tu cịn
có nhiều vị tướng trẻ như Trương Hống, Trương Hát và người kế nghiệp là Triệu Quang
Phục làm nên kỷ nguyên độc lập đầu tiên của nước Vạn Xuân sau ngàn năm đô hộ của


phương Bắc. Vào thế kỷ thứ VIII, nối tiếp cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan nổi dậy
chống nền đô hộ của nhà Đường, ba anh em họ Phùng ở xứ Đường Lâm (Sơn Tây) là
Phùng Hưng, Phùng Hải, Phùng Dĩnh cùng ở tuổi 18 đã phất cờ khởi nghĩa vào năm 767.
Chiến đấu liên tục một phần tư thế kỷ, năm 791 nghĩa quân đã thu lại non sông gấm vóc
dựng nền tự chủ. Phùng Hưng được dân suy tơn là “Cha Mẹ” khi ơng mới trịn 30 tuổi (Bố

Cái Đại Vương).
ở thế kỷ thứ X, một vị tướng trẻ là Ngơ Quyền cũng ở tuổi 30 đã phị giúp Dương
Đình Nghệ đánh quân Nam Hán, rồi tự mình thống sối qn binh lập chiến cơng hiển
hách trên sơng Bạch Đằng vào năm 938 tiêu diệt đại binh Nam Hán, giành nền tự chủ lâu
dài cho dân tộc ta, mở vương triều nhà Ngô khi ông mới bước vào tuổi 40. Cũng ở độ tuổi
tương tự, Lê Đại Hành mở ra triều Tiền Lê sau khi đã giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn sứ quân
rồi tự mình cầm quân đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Tống (981). Sự nghiệp
củng cố quyền tự chủ của các triều Ngơ-Đinh-Tiền Lê đã đắp nền móng cho một thời đại
hưng thịnh của dân tộc gắn liền với việc dựng đô ở Thăng Long của Lý Thái Tổ (1010).
Nền văn hiến của Nhà nước Đại Việt thời Lý gắn liền với công cuộc bảo vệ biên cương của
đất nước. Trong sự nghiệp ấy, tên tuổi của Nơng Trí Cao, chàng trai 26 tuổi lãnh đạo cộng
đồng các dân tộc ít người che chắn biên cương phía Bắc chống giặc ngoại xâm cũng như
của ỷ Lan phu nhân, từ một thiếu nữ hái dâu chăn tằm trở thành người nhiếp chính cơng
việc triều đình giúp chồng đánh giặc và giúp con trị nước, góp phần vào cơng cuộc phá
Tống bình Chiêm, mở ra thời thịnh trị cho quốc gia Đại Việt.
Vào thời ỷ Lan nhiếp chính, quân dân nhà Lý với vị tướng tài như Lý Thường Kiệt
đã chặn đứng âm mưu xâm lược của nhà Tống, đánh sâu vào đất địch và lập chiến công
trên sông Như Nguyệt và âm mang bài thơ “Thần”: "Nam quốc sơn hà Nam Đế cư"... như
lời tuyên ngôn bất hủ về nền độc lập dân tộc, muôn đời cổ vũ cho các thế hệ người Việt
Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Cũng chính vào thời kỳ này, khoa thi đầu tiên đã được mở (năm 1075) để chọn
người ra giúp việc nước, mở ra tiền đồ phấn đấu trí tuệ cho các thế hệ hiền tài của quốc
gia.
Kế tục nhà Lý là vương triều Trần với nền văn hiến phát triển rực rỡ, được củng cố bằng
ba lần kháng chiến chống giặc xâm lược Nguyên Mông liên tục trong nửa cuối thế kỷ XIII,
kết thúc tồn thắng bằng chiến cơng trên sơng Bạch Đằng năm 1288.
Hào khí Đơng A của thời đại nhà Trần được hun đúc bởi một tinh thần "Sát Thát"
viết thành chữ khắc trên tay những chiến binh trẻ tuổi cùng chung một ý chí của các bậc
lão thành tại Hội nghị Diên Hồng khi hô vang câu trả lời đanh thép: "Quyết đánh". Sức
mạnh ấy còn được biểu hiện bằng cả một đường lối trị nước của các nhà lãnh đạo quốc gia

luôn coi trọng thế hệ trẻ. Các ông vua vượt tuổi “tứ thập” đều bước qua ngôi vị Thái
thượng hồng đế nhường việc triều chính cho những người kế vị trẻ tuổi.
Ngay lúc giặc Nguyên Mông lần đầu tiên đến Thăng Long (1258), bên cạnh Trần
Thái Tông, ngoài lão tướng Trần Thủ Độ với câu trả lời tiết tháo: "Đầu thần chưa rơi
xuống đất xin bệ hạ chớ lo", đã có những vị tướng đầy tài năng nhưng tuổi còn rất trẻ, tiêu
biểu nhất là Trần Quốc Tuấn khi đó mới ngồi 20 tuổi, người mà trải qua ba thập kỷ chinh
chiến đã trở thành người anh hùng kiệt xuất Trần Hưng Đạo, vị thống soái của cuộc kháng
chiến chống Nguyên Mông. Trong trận Đông Bộ Đầu, cịn có mặt thái tử Hoảng, người sau


này lên ngôi với vương hiệu Trần Thánh Tông lúc này mới 18 tuổi, cùng với người em là
Trần Quang Khải 17 tuổi sau này cũng trở nên một danh tướng lừng lẫy...
Thời Trần, mỗi khi giặc ngoại xâm tới là tất cả những người trong vương hầu cùng
“trăm họ đều làm lính”, vua tơi trên dưới đồng lịng đánh giặc. Câu chuyện truyền kỳ thiếu
niên Trần Quốc Toản tay bóp nát quả cam quyết địi đi đánh giặc lập công, dựng lá cờ
thiêu sáu chữ vàng: "Phá cường địch, báo hoàng ân" tập hợp đội quân trai trẻ theo cha anh
đánh giặc cứu nước đã trở thành một biểu tượng của truyền thống “tuổi nhở chí lớn” của
các thế hệ trẻ Việt Nam:
Quốc Toản là trẻ có tài
"
Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền
Mấy lần đánh thắng quân Nguyên
Được Phong làm tướng cầm quyền binh nhung"
(Hồ Chí Minh - Lịch sử nước ta)
Hoặc như tấm gương Trần Bình Trọng, sinh năm 1259 tức là 1 năm sau ngày giặc
Nguyên Mông lần đầu kéo đến nước ta (1258). Đến lần sau giặc đến, Trần Bình Trọng đã
trưởng thành tham gia đánh giặc. Trong trận đánh ngày 21-1 năm ất Dậu (1285) ông bị
giặc bắt. Bất chấp lời dụ hàng của giặc, ông hiên ngang chấp nhận sự hy sinh với câu nói
bất hủ được ghi vào sử sách: "Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc".
Giặc đã giết Trần Bình Trọng khi ơng mới 26 tuổi! Còn Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật

sinh năm 1255, lập công đầu giữ yên biên cương năm 25 tuổi (1280), chỉ huy đánh thắng
giặc Nguyên trong trận “Cầm hồ Hàm Tử Quan” khi mới 30 tuổi (1285).
Đầu thế kỷ XV, giặc Minh lại từ phương Bắc tràn sang chiếm nước ta. Nhà Hồ cầm
cự chỉ được ít lâu là nước ta đã bị giặc Minh đô hộ với một chính sách tàn sát và đồng hóa
hà khắc. Khi đó ở đất Lam Sơn (Thanh Hóa) có một thanh niên mới 22 tuổi tên là Lê Lợi.
Biết Lê Lợi là người ni chí lớn, qn giặc đã tìm cách dụ dỗ, mua chuộc nhưng thất bại.
Sử sách đã ghi lại lời nói khảng khái của Lê Lợi: "Trượng phu ở đời phải cứu nạn lớn, lập
công to, để tiếng thơm muôn thuở, đâu lại xun xoe đi làm đầy tớ người".
Mười năm sau (1416) Lê Lợi cùng những đồng chí của mình mở hội thề Lũng Nhai
giao kết cùng nhau đánh giặc cứu nước. Năm 1418 cuộc khởi nghĩa bùng nổ từ đất Lam
Sơn, trải qua 10 năm trường kỳ kháng chiến đã giành thắng lợi hoàn toàn, đuổi sạch quân
xâm lược nhà Minh ra khỏi bờ cõi, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho Nhà nước Đại
Việt dưới triều Lê, đạt tới những đỉnh cao văn hiến dưới thời Lê Thánh Tông, vị vua lên
ngôi khi mới 18 tuổi với hai niên hiệu Quang Thuận và Hồng Đức kéo dài 37 năm (14601497).
Cho đến cuối thế kỷ XVII, đất nước ta đứng trước những thử thách lớn khi các thế lực
phong kiến Trịnh - Nguyễn nồi da nấu thịt trong khi các thế lực xâm lược từ bên ngoài lăm
le can thiệp.
Năm 1771 từ đất An Khê của cao nguyên miền Trung đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của
ba anh em, trong đó ít tuổi nhất là Nguyễn Huệ năm đó mới 18 tuổi. ý thức được sứ mệnh
lịch sử của mình, năm 23 tuổi (1776), Nguyễn Huệ đã mở rộng thế lực của mình tới Bình
Thuận; 29 tuổi (1782) quân khởi nghĩa đã chiếm được trọn vẹn vùng đất cực nam của đất
nước; 32 tuổi (1785) ông chỉ huy đánh bại 5 vạn quân Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút; một
năm sau kéo đại quân ra diệt nhà Trịnh, dẹp tan cả hai thế lực cát cứ đất nước. Năm 1788,


được tin quân Thanh từ phía Bắc tràn xuống cướp nước ta, Nguyễn Huệ lên ngơi Hồng đế
lấy vương hiệu là Quang Trung rồi cuối năm đó vị hồng đế 36 tuổi đã cất quân thần tốc ra
Bắc quét sạch gần 30 vạn quân Thanh làm nên đại thắng mùa Xuân năm Kỷ Dậu, mở ra
một kỷ nguyên mới cho một quốc gia có một lãnh thổ rộng lớn từ ải Nam Quan đến mũi
Cà Mau. Dù cho cái chết đột ngột của Hoàng đế Quang Trung ở tuổi 39 đã làm cho sự

nghiệp thống nhất quốc gia của ông dang dở nhưng thời đại Tây Sơn mà ông đã mở ra mãi
mãi là một đỉnh cao của ý chí quật cường của dân tộc ta "Đánh cho nó biết nước Nam anh
hùng là có chủ" (Minh đơ sử).
Bước vào thế kỷ XIX, mặc dầu triều đại nhà Nguyễn đã được lập trên một giang sơn
thống nhất về một mối, nhưng thế nước vẫn chênh vênh trước âm mưu xâm lược của các
thế lực thực dân phương Tây. Những thử thách mới một lần nữa lại đòi hỏi lớp lớp người
trẻ tuổi bước vào cuộc chiến đấu mới. Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp đánh chiếm nước
ta, sức mạnh của vũ khí cùng với sự bạc nhược của triều đình phong kiến có thể làm cho
các thành qch của ta bị thất thủ, nhưng ý chí chiến đấu vì tự do và độc lập của Tổ quốc
càng thêm kiên định. Tấm gương người anh hùng nông dân Nam Bộ Nguyễn Trung Trực
là một bằng chứng đanh thép. Năm 22 tuổi (1859), Nguyễn Trung Trực đã tham gia trận
đánh oanh liệt trên sông Vàm Cỏ đốt cháy chiến thuyền “Espérance” (Hy vọng) của giặc
Pháp, 24 tuổi mộ nghĩa binh nổi dậy đánh phá các đồn binh của giặc và năm 31 tuổi hiên
ngang bước lên đoạn đầu đài với lời cảnh cáo quân cướp nước: "Bao giờ nhổ hết cỏ nước
Nam mới hết người Nam đánh Tây".
Các cuộc nổi dậy của nông dân do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo với các tên tuổi như
Trương Định, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Cơng Tráng... cho đến Hồng
Hoa Thám kéo dài suốt nửa sau thế kỷ XIX qua đầu thế kỷ XX đã tạo nên cả một cao trào
cứu nước diễn ra trên toàn quốc theo ngọn cờ của mọt ông vua trẻ yêu nước: Hàm Nghi, ra
chiếu Cần Vương năm 1885 khi mới còn tuổi thiếu niên. Trong đội ngũ nghĩa quân, chủ
yếu là các tầng lớp thanh niên, nổi lên những tên tuổi như Cao Thắng, một thủ lĩnh trẻ theo
Phan Đình Phùng lên căn cứ Hương Khê (Hà Tĩnh) khi mới 20 tuổi, với tài năng của mình
đã chế tạo được loại súng trường theo mẫu mã phương Tây và hy sinh khi mới 29 tuổi.
Như Mai Xuân Thưởng đỗ cử nhân lúc 24 tuổi (1884) dựng cờ chống Pháp ở Bình Định
khi 25 tuổi và hy sinh anh dũng năm 29 tuổi (1887) để lại bài thơ tuyệt mệnh khí khái:
"Khơng tính làm chi việc mất cịn
Nợ trai lo trả ấy là khơn
Gió đưa hờn nghĩa gươm ba thước
Đá tạc lòng trung quý mấy hòn..."
Hầu như tất cả các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp cho đến đầu thế kỷ XX đều

bị dìm trong biển máu và để lại những tấm gương anh hùng...
Trong một bài viết năm 1924, Nguyễn ái Quốc đã trích dẫn một đoạn trong hồi ký
của Phó đơ đốc Rêvâye thuật lại cảm nghĩ của viên sĩ quan thực dân này trước những hành
động anh hùng của hai người thanh niên Việt Nam bị quân xâm lược bắt đã hiên ngang và
thản nhiên đón nhận cái chết: "Thật anh hùng... ở Hy Lạp có lẽ người ta phải dựng tượng
họ rồi".
Cuộc khởi nghĩa do ông Đề Thám lãnh đạo xây dựng căn cứ ở Yên Thế (Bắc Giang)
kéo dài đến thập kỷ đầu của thế kỷ XX, được coi là một cái mốc chấm dứt cuộc đấu tranh


giành độc lập dân tộc theo ngọn cờ Cần Vương cứu nước.
Bước vào thế kỷ XX, chế độ thống trị của đế quốc Pháp đã được xác lập trên đất
nước ta. Cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam tuy không khi nào
chấm dứt nhưng đang đứng trước một cuộc khủng khoảng về đường lối, địi hỏi phải tìm ra
con đường đi đến thắng lợi trong bối cảnh có những thay đổi to lớn trên đất nước ta lúc này
đã trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp và giữa những biến chuyển to lớn của
thời đại.
Ách đô hộ của thực dân Pháp đè nặng lên mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam, nhưng
chính thanh niên là lớp người phải chịu phần khắc nghiệt hơn cả. Tuổi trẻ với sức lực và
những ước mơ tiến thủ đã trở thành đối tượng khai thác của guồng máy thống trị thực dân.
Hai cuộc khai thác thuộc địa được tiến hành trước và sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất đã
bần cùng hóa những người nông dân ở nông thôn, đẩy nguồn nhân lực khốn cùng mà phần
lớn là những người trai trẻ vào các hầm mỏ, đồn điền. Hàng vạn thanh niên Việt Nam phải
rời Tổ quốc để lao động khổ sai trong các đồn điền tại các thuộc địa của thực dân Pháp trên
các đại dương. Đặc biệt là trong cuộc chiến tranh đế quốc, hàng chục ngàn thanh niên Việt
Nam đã phải “nộp thuế máu” bị lùa sang những chiến trường ở châu Âu để giành giật
quyền lợi cho bọn trùm tư bản. Nhiều người trong số họ đã bỏ mạng nơi đất khách quê
người.
Một chế độ giáo dục và những chính sách xã hội thuộc địa được áp dụng trên đất
nước ta, khơng chỉ đày đọa về thể xác, bóc lột sức lao động mà cịn bóp chết mọi ước mơ

của tuổi trẻ. Nền giáo dục truyền thống vốn luôn tạo cơ hội cho mọi người có thể vươn lên
bằng học tập và thi cử đã bị thay thế bằng một hệ thống giáo dục nhằm đào tạo những
người nô lệ có ích cho chế độ thuộc địa. Chủ nghĩa thực dân truyền bá trong thanh niên
Việt Nam một nền văn hóa nơ dịch, mất gốc cùng với những tệ nạn xã hội được khuyến
khích như rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện, mại dâm... nhằm ngu dân và trụy lạc hóa nhân
dân ta, mà trước nhất là thế hệ trẻ.
Thảm trạng này đã được nêu rõ trong nhiều bài viết lên án chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt
Nam của Nguyễn ái Quốc: "Người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy
hiểm hơn cả là sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết
của người đi học... dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình
và đang áp bức mình. Nền giáo dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc dịng
giống mình. Nó làm cho thanh thiếu niên trở nên ngu ngốc..."
"Sự thực những người An Nam đã bị họ bắt và đẩy vào chiến tranh làm bia đỡ đạn...
51.000 người An Nam đã bị động viên và đẩy ra mặt trận của nước Pháp, 49.000 người bị
đưa đến các nhà máy để sản xuất thiết bị quân sự"
Mở đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước gắn liền với tên tuổi của nhà chí sĩ Phan
Bội Châu (sinh năm 1867), 17 tuổi đã hưởng ứng Chiếu Cần Vương viết bài hịch “Bình
Tây thu Bắc” rồi lập đội “Sĩ tử Cần Vương” ở vùng quê nhà Nam Đàn, Nghệ An. Chính
Phan Bội Châu là người khởi xướng và trở thành linh hồn của nhiều phong trào yêu nước
đầu thế kỷ: Cuộc vận động Duy Tân (1904) kêu gọi hàng trăm thanh thiếu niên tham gia
phong trào Đông Du vượt biển sang Nhật Bản (1905), thành lập Việt Nam Quang Phục
Hội (1911) rồi thu hút các nhà cách mạng trẻ tuổi sang Trung Quốc thành lập nhóm “Tâm
tâm xã” chuẩn bị lực lượng cho những bước chuyển quyết định cho phong trào cách mạng


nước ta. Dẫu cho sự nghiệp của Phan Bội Châu không thành nhưng những di sản mà ông
đã để lại cho phong trào cách mạng Việt Nam vô cùng quý báu, đó là sự thức tỉnh cả một
thế hệ thanh niên mà ông luôn coi trọng như lực lượng sẽ định đoạt tương lai của nước
nhà. Ông đã từng viết: "Nếu ai nói rằng: thanh niên lay trời, trời phải rung, thanh niên xoay
đất, đất phải chuyển cũng không phải là quá đáng vậy", và khi phát động phong trào Đông

Du, Phan Bội Châu đã từng đặt hy vọng chỉ sau vài năm "thì những thiếu niên nước ta sẽ
bay nhảy hô vang, khua cá sấu mà chống lại rồng trời, non sơng gấm vóc của ta sẽ rực rỡ
tốt tươi, uy sấm sét sẽ đuổi hết lũ quỷ ma..."
Cho đến trước khi cơng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam tìm ra được con
đường và tổ chức cách mạng bảo đảm cho thắng lợi cuối cùng, các phong trào yêu nước
mà lực lượng chủ công vẫn là đông đảo các tầng lớp thanh niên vẫn không ngừng phát
triển với nhiều khuynh hướng khác nhau và với nhiều tấm gương nghĩa liệt của những
người anh hùng trẻ tuổi.
Tiếng bom của hai chiến sĩ cảm tử trẻ tuổi của Việt Nam Nam Quang Phục Hội là
Nguyễn Khắc Cần và Phạm Văn Tráng tiêu diệt những võ quan Pháp ngay tại Hà Nội năm
1913; một ông vua mới 16 tuổi đã từ bỏ ngai vàng cùng với những chiến sĩ yêu nước như
Thái Phiên, Trần Cao Vân phát động cuộc nổi dậy chống Pháp mang danh vương hiệu của
mình cũng là lý tưởng của đất nước: Khởi nghĩa Duy Tân năm 1916. Cuộc khởi nghĩa của
binh sĩ và tù chính trị nổ ra ở tỉnh lỵ Thái Nguyên năm 1917 có vị thủ lĩnh là Lương Ngọc
Quyến, con trai của cụ cử Lương Văn Can, 15 tuổi đã xuất dương Đông Du, 25 tuổi bị giặc
bắt và 27 tuổi hy sinh trong khi chỉ huy nghĩa quân đánh Pháp...
Các cuộc nổi dậy vũ trang chống Pháp còn đạt tới đỉnh cao bằng một hành động “sát
thân thành nhân” của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng với cuộc khởi nghĩa Yên Bái vào
đầu năm 1930. Cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng tinh thần chiến đấu quả cảm của những
người yêu nước trong sự kiện này, mà phần đơng cịn rất trẻ trở thành bất diệt: Đảng
trưởng Nguyễn Thái Học lúc hy sinh mới 29 tuổi... Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái
và sự tan rã của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng yêu nước là dấu hiệu của sự kết thúc một
giai đoạn đấu tranh cũ để mở ra một thời kỳ cách mạng mới gắn liền với sự kiện ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam, xảy ra gần như cùng một lúc vào mùa xuân năm 1930.
Bước ngoặt lớn của lịch sử dân tộc này gắn liền với tên tuổi của một nhà hoạt động
cách mạng vĩ đại: Nguyễn ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sinh năm 1890 tại Nghệ An, ở tuổi niên thiếu con người này đã đặt ra câu hỏi:
"Khi tôi độ tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái... và
từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng
sau những thứ ấy... và tơi đã vượt biển ra nước ngồi"

Đó là năm 1911, sau một chặng đường dài đi qua nhiều nước, làm nhiều nghề, tiếp
xúc với nhiều học thuyết, đặc biệt là từ sau khi cách mạng Nga thành công (1917), Nguyễn
ái Quốc đã dần nhận ra con đường chính trị của mình cũng là con đường sống của dân tộc
Việt Nam. Cuối năm 1920, tại Pháp Nguyễn ái Quốc trở thành một chiến sĩ cộng sản và có
những đóng góp to lớn vào việc đưa học thuyết cách mạng này vào trong các tầng lớp trẻ
yêu nước.
Vào thời điểm này, phong trào yêu nước của nhân dân ta vẫn đang tìm kiếm con
đường để giành thắng lợi, vai trị thanh niên ngày càng có ý nghĩa trong tiến trình thay thế


dần vai trò của lớp sĩ phu của các thế hệ trước. Các nhà nho bậc tiền bối như Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh đã từng có một tuổi trẻ sôi động xông pha trên mọi nẻo đường cứu
nước với chí khí xả thân vì nghĩa lớn như câu thơ:
Quốc khổ trầm luân dân tộc lụy
"
Nam nhi hà sự phạ Cơn Lơn"
(Đất nước đắm chìm nịi giống mịn
Làm trai há sợ cái Côn Lôn)
(Lời dịch của Huỳnh Thúc Kháng)
Nay cũng cảm thấy bị thời đại vượt qua, và ý thức được rằng tương lai của cách
mạng chỉ có thể thuộc về một thế hệ mới mà Nguyễn ái Quốc là tiêu biểu.
Cùng hoạt động trong phong trào người Việt Nam yêu nước ở Pháp, mặc dầu về
tuổi tác cũng như vị thế xã hội Phan Châu Trinh vẫn được Nguyễn ái Quốc coi là bậc tiền
bối, song chính Phâu Châu Trinh đã từng thừa nhận:
"Tơi tự ví thân tơi như con ngựa già hết nước kiệu pha nước tế. Thân tôi tựa như
chim lồng, cá chậu. Vả lại, cây già thì gió dễ lay, người già thì trí dễ lẫn. Cảnh tơi như hoa
sắp tàn, hiềm vì quốc phá gia vong, mà hơi tàn cũng phải gào cho hả dạ, may ra có tỉnh
giấc hơn mê".
Rồi cụ Phan khơng ngần ngại mà còn nhận rằng Nguyễn ái Quốc "như cây đương
lộc, nghị lực có thừa, dày cơng học hành, lý thuyết tinh thông" và tin rằng "không bao lâu

nữa cái chủ nghĩa anh tôn thờ sẽ thâm căn cố đế (sâu rễ bền gốc) trong đám dân tình chí sĩ
nước ta". Trước đó hơn một năm, Nguyễn ái Quốc đã tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin và
gia nhập Đảng Cộng sản.
Trường hợp tương tự cũng xảy ra đối với Phan Bội Châu, người đồng hương cùng
lớp với cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Sau một hồi hoạt động sôi nổi như linh hồn của
phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu cũng nếm trải nhiều thất bại phải rời
đất Nhật về Trung Quốc. Lúc này, Nguyễn ái Quốc đã trưởng thành trên con đường hoạt
động chính trị của mình, đã rời nước Pháp từ giữa năm 1923, qua nước Nga Xơ viết rồi từ
đó đến Trung Quốc với bí danh là Lý Thuỵ.
Một lần nữa, ta lại chứng kiến một sự “Chuyển giao thế hệ” trong phong trào cách
mạng Việt Nam qua một bức thư cũng không kém phần thống thiết của Phan Bội Châu, lúc
này đã 58 tuổi, gửi Lý Thụy (tức Nguyễn ái Quốc) lúc này vừa 35 tuổi. Trong thư, Phan
Bội Châu nhận ra rằng Nguyễn ái Quốc "học vấn, tri thức nay đã tăng trưởng quá nhiều".
"Phan Bội Châu này đâu có ngờ rằng sau này đứa cháu sẽ trở thành một tiểu anh
hùng như thế này... Và mừng cho đất nước ta. Việc thừa kế nay đã có người, người đi sau
giỏi hơn kẻ đi trước, tiền đồ đen tối sẽ xuất hiện ánh sáng ban mai"
Trong khi đó, một thế hệ các nhà cách mạng trẻ bước vào cuộc vận động cách
mạng sổi nổi. Trong cao trào đấu tranh đòi quyền dân chủ được nhen nhóm từ đầu những
năm 20, Nguyễn An Ninh, một nhà hoạt động cách mạng tên tuổi (sinh năm 1900) từ Pháp
trở về diễn thuyết tại Hội Khuyến học Nam Kỳ ngày 25-1-1923 về lý tưởng của thanh niên
dẫn đến sự hình thành tự phát Thanh niên Cao vọng Đảng trong một số quần chúng nông
dân và trí thức Nam Bộ. Và trong khơng khí sơi động của cuộc vận động đòi ân xá Phan
Bội Châu cũng như đám tang Phân Châu Trinh. Trần Huy Liệu, một thanh niên 25 tuổi hô
hào thành lập Đảng Thanh niên... với những mục tiêu tranh đấu cho quyền dân chủ.


Nhưng cũng như Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học được ra đời sau
đó ít lâu (25-12-1927). Đảng Thanh Niên cũng như Thanh niên Cao vọng Đảng tuy ban
đầu thu hút đông đảo giới trẻ tham gia, nhưng tất cả các tổ chức chính trị đó đều đi vào con
đường bế tắc, hoặc tự giải thể hoặc tan vỡ trong một cuộc bạo động non. Những thành viên

tiên tiến của các tổ chức này lần lượt chuyển sang hàng ngũ cách mạng của những người
cộng sản.
Vào thời điểm lịch sử ấy, Nguyễn ái Quốc đã ý thức được tầm quan trọng của cuộc vận
động phong trào thanh niên nhằm thức tỉnh lực lượng quan trọng hàng đầu của phong trào
giải phóng dân tộc. Kết thúc tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp", Nguyễn ái Quốc
kêu gọi: "Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già
cỗi của người không sớm hồi sinh(2).
Nguyễn ái Quốc bắt tay vào cuộc vận động cách mạng khởi đầu bằng việc tập hợp
những lực lượng thanh niên tiên tiến nhất làm nòng cốt cho sự ra đời của những tổ chức
cộng sản, nhân tố quyết định cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Những nhân tố tiên
phong ấy chính là những đồn viên thanh niên cộng sản đầu tiên, tiền thân của Đảng Cộng
sản Việt Nam cũng như của đội ngũ hậu bị hùng hậu của Đảng là Đoàn Thanh niên.
Hơn 20 năm sau lời kêu gọi ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết lại chặng đường
cách mạng đã qua thành một bài học về sức sống trẻ trung của dân tộc:
"Dân tộc ta rất trẻ trung, nước nhà ta rất trẻ trung và chúng ta đều trẻ trung. Chúng
ta trẻ trung mà chúng ta phải đảm đương hai nhiệm vụ rất vẻ vang, rất to lớn: phá tan
những xiềng xích cũ và xây dựng những tương lai mới.
Chúng ta trẻ trung nhưng chúng ta là những người thừa tự cái truyền thống oanh
liệt, quật cường và một cơ đồ gấm vóc của mấy ngàn năm tổ tiên ta để lại. Chúng ta trẻ
trung nhưng chúng ta giàu về kinh nghiệm, kinh nghiệm đau xót có, kinh nghiệm vẻ vang
có. Do đó mà chúng ta đã có một lực lượng cực kỳ to lớn, vững chắc, lực lượng đại đoàn
kết toàn dân. Nhờ truyền thống và lực lượng ấy, thêm vào chí khí trẻ trung của chúng ta,
chúng ta đã vượt qua nhiều bước gian nan và giành được nhiều thắng lợi..." (phát biểu vào
năm 1948).
CHƯƠNG I
NGUYẾN ÁI QUỐC VÀ TỔ CHỨC VIỆT NAM THANH NIÊN CÁCH MẠNG
ĐỒNG CHÍ HỘI VỚI Q TRÌNH CHUẨN BỊ THÀNH LẬP ĐOÀN
Sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp ráo riết thực hiện chính sách bóc
lột hết sức tàn bạo nhằm vơ vét sức người, sức của ở Việt Nam. Trong thân phận người
dân mất nước, cũng như cha anh mình, tuổi trẻ Việt Nam hồi đầu thế kỷ phải sống dưới

gông cùm nô lệ. ở mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, thanh niên là lực lượng lao động chủ yếu
và là lớp người bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất. Báo cáo ngày 17-7-1928 của Đơ Lama gửi
cho Phủ toàn quyền Đơng Dương về tình hình “cu li” ở đồn điền cao su Michelin (Nam
Kỳ) có đoạn viết:
“Một đứa tên là Trần Văn Chung 20 tuổi mang trên vai 8 cái sẹo của đầu gậy bổ sâu
vào thịt. Một đứa khác tên là Vũ Viết Thu 21 tuổi mang trên vai 50 vết roi cá đuối”.
Các tầng lớp thanh niên khác, nhất là thanh niên nông dân đều cùng chung cảnh ngộ
bị đọa đầy dưới ách thực dân, phong kiến. Không thể cam chịu mãi cảnh sống cơ cực nước


mất, nhà tan, các phong trào yêu nước của nhân dân và thanh niên ta không ngừng phát
triển ngày càng mạnh mẽ làm cho kẻ thù lo sợ và điên cuồng đối phó.
Song, trước sau do thiếu một đường lối đúng đắn, một tổ chức chặt chẽ nên cuối
cùng các phong trào đấu tranh bị kẻ thù dìm trong biển máu. Tình trạng khủng hoảng về
lãnh đạo địi hỏi phải được giải quyết để đưa cách mạng nước ta tiến lên. Đúng vào thời
điểm này, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, sau lấy tên là Nguyễn ái Quốc đã
mở đầu cuộc hành trình hết sức quả cảm và gian lao tìm đường cứu nước, cứu dân...
Giữa năm 1911, ở tuổi 20, Nguyễn ái Quốc xuống tàu Latusơ Tơrêvin tại cảng Nhà
Rồng (Sài Gịn) đi ra nước ngồi với ý thức tìm hiểu nước Pháp và các nước khác làm thế
nào mà trở nên độc lập, hùng cường rồi sẽ “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ
chức, đoàn kết và huấn luyện để đưa họ đấu tranh giành quyền tự do, độc lập”. Nguyễn ái
Quốc đã đến Pháp, đi qua nhiều nước châu Phi, đến Mỹ, Anh,v.v... và trở lại Pháp vào cuối
năm 1917 lúc chiến tranh thế giời lần thứ nhất ở vào giai đoạn quyết liệt nhất.
Tại Paris, Người kết bạn với nhiều nhà hoạt động chính trị xã hội, văn hóa có uy tín
lớn của nước Pháp. Người viết nhiều bài báo tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở các thuộc
địa, tranh thủ mọi diễn đàn, những buổi hội họp, mít tinh, sinh hoạt câu lạc bộ để tuyên
truyền cho cách mạng Việt Nam, Lào, Campuchia và các nước thuộc địa khác.
Với nhiệt huyết của tuổi thanh niên, Nguyễn ái Quốc sáng lập ra “Nhóm những
người Việt Nam yêu nước” tại Pháp. Thành viên của nhóm hầu hết là thanh niên cơng
nhân, binh lính (thực dân Pháp đã bắt hơn 10 vạn thanh niên nông dân, công nhân sang

phục vụ chiến tranh thế giới lần thứ nhất tại Pháp) và sinh viên... Nhóm hoạt động mạnh
mẽ làm cho giới cầm quyền Pháp rất lo ngại. Do công tác tuyên truyền, tổ chức của nhóm
được tiến hành tích cực nên cơ sở của nhóm phát triển khá mạnh. Đồng chí Nguyễn ái
Quốc đã chân thành mời hai nhà yêu nước Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường tham gia
hoạt động của “Nhóm những người Việt Nam yêu nước” song cơ bản cả hai ơng khơng tán
thành: “Vì các ơng cho nhóm thanh niên ấy là trẻ con”
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Hội nghị Vécxây (Versailles) họp tại Thủ đô
Paris giữa các nước thắng trận vào ngày 18-6-1919. Nguyễn ái Quốc thay mặt những người
Việt Nam yêu nước ở Pháp đưa tới hội nghị bản u sách địi chính phủ Pháp phải thừa
nhận quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và tự quyết của dân tộc Việt Nam. Bản yêu
sách này được gửi đến các đoàn đại biểu Đồng minh và tất cả các nghị viện của Quốc hội
Pháp. Báo “Nhân đạo” (L’Humanité) và nhiều nhật báo khác ở Pháp đã đăng nguyên văn
hoặc trích ngang bản yêu sách chính trị quan trọng này. Nguyễn ái Quốc cùng những đồng
chí của Người đã cho in bản yêu sách thành truyền đơn gửi về trong nước. Dư luận ở Paris
cũng như ở Pháp coi việc làm của người thanh niên yêu nước Nguyễn ái Quốc như là quả
bom chính trị nổ ngay giữa Paris.
Tháng 7-1920, Nguyễn ái Quốc biết bao sung sướng, vui mừng được đọc bản "Sơ
thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin, khẳng
định lập trường kiên quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đơng
của Quốc tế Cộng sản. Từ đó Người hồn tồn tin theo Lênin, dứt khốt đứng về Quốc tế
thứ ba.
Tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (Tours -12-1920) Nguyễn ái Quốc đã
bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế III, và cùng những người chủ trương gia nhập


Quốc tế III tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản aise de I’Internationale
communiste, viết tắt là S.F.I.C). Sự (Section Fran Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia
nhập Quốc tế III, thamkiện gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng
sản Việt Nam đầu tiên, đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu
nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin và đi theo con đường cách mạng vô sản. Sự kiện này cũng

đánh dấu bước mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc
Việt Nam.
Năm 1921, tại Paris, Nguyễn ái Quốc cùng một số đồng chí của Người lại sáng lập
ra “Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa” để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ
nghĩa thực dân, thông qua tổ chức này đưa chủ nghĩa Mác-Lênin đến các dân tộc thuộc địa.
Thành viên trong tổ chức “Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa” cũng bao gồm tuyệt
đại bộ phận là thanh niên giống như “Nhóm những người Việt Nam yêu nước ở Pháp”.
Điều này về sau được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định khi nhắc lại quá trình hình thành
của Hội: ... “Hơn 40 năm trước đây, một nhóm thanh niên yêu nước, người các thuộc địa
Pháp, trong đó có thanh niên Việt Nam và thanh niên Ghinê, đã cùng nhau đoàn kết đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân, để giành tự do, độc lập cho đất nước mình...”
Đây chính là loại hình Quốc tế thanh niên thuộc địa theo quan điểm của Lênin mà
Nguyễn ái Quốc bước đầu bắt tay thực hiện. Qua việc sáng lập các tổ chức mà đại bộ phận
thành viên là những người yêu nước trẻ tuổi Việt Nam và các thuộc địa Pháp đã giúp
Nguyễn ái Quốc sớm hình thành những quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá các khả năng
cách mạng của tuổi trẻ cũng như hình thức, phương pháp đoàn kết, tập họp họ. Đây là một
trong nhiều hoạt động của Nguyễn ái Quốc trong phong trào thanh niên hồi đầu thế kỷ.
Thực tiễn phong phú này tạo điều kiện cho Người rút ra nhiều bài học kinh nghiệm
về vận động thanh niên các nước thuộc địa.
Báo “Người cùng khổ” (Le Paria) do Nguyễn ái Quốc làm chủ nhiệm kiêm chủ bút
đã cất lên tiếng nói đầu tiên vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế
quốc nói chung và của đế quốc Pháp ở Đông Dương, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, trước
hết là thanh niên tiểu tư sản, trí thức yêu nước hăng hái đứng lên đấu tranh để tự giải
phóng.
Mùa hè năm 1923, đồng chí Nguyễn ái Quốc đến Liên Xô, đất nước của Cách mạng Tháng
Mười và V.I.Lênin vĩ đại. Tại Mátxcơva, Người tham gia nhiều đại hội và hội nghị quốc
tế; viết nhiều bài đăng trên các báo “Sự thật” (pab ga) và “Thư tín quốc tế”
(Correspondance internationale).
Ngày 17-6-1924, Nguyễn ái Quốc là đại biểu chính thức tại Đại hội Quốc tế Cộng
sản lần thứ V khai diễn tại Nhà hát lớn Mátxcơva.

Đoàn đại biểu Ban Chấp hành Quốc tế Thanh niên Cộng sản tại Đại hội đã liên hệ
với Nguyễn ái Quốc và chính thức mời Người tham gia công việc chuẩn bị nội dung cho
Đại hội Quốc tế Thanh niên Cộng sản lần thứ IV sẽ họp vào thời gian sau đó. Từ khi cịn
hoạt động ở Pháp, Nguyễn ái Quốc đã có mối quan hệ với Quốc tế Thanh niên Cộng sản.
Người đã đến Hội trường Thanh niên Cộng hòa ở Paris để giới thiệu về phong trào thanh
niên thế giới, phong trào thanh niên Đông Dương và các chủ trương của Quốc tế Thanh
niên Cộng sản được người nghe rất hoan nghênh.
Ngày 15-7-1924, Đại hội Quốc tế Thanh niên Cộng sản lần thứ IV đã khai mạc tại


Hội trường Cơng đồn ở Mátxcơva. Đại hội được tiến hành khi Lênin qua đời vừa được
sáu tháng.
Những phần tử cơ hội và phản động Quốc tế cấu kết với các giới đế quốc điên cuồng mở
rộng tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa Lênin và học thuyết cách mạng của Người. Phong
trào Thanh niên cộng sản Quốc tế đứng trước nhiệm vụ cấp bách là đẩy lùi và đập tan
những luận điệu lừa bịp ấy nhằm tiếp tục tranh thủ trái tim và khối óc của hàng triệu thanh
niên cộng sản trong đó có phong trào thanh niên cộng sản ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc.
Trong bối cảnh đó, Đại hội IV Quốc tế Thanh niên Cộng sản có ý nghĩa và tầm
quan trọng đặc biệt đối với việc thực hiện di huấn của V.I.Lênin vĩ đại: “Sự nghiệp to lớn
và tất yếu của các đồng chí là chuẩn bị cho tuổi trẻ sẵn sàng tham gia cuộc đấu tranh cách
mạng và trong việc học tập”.
Là người đại diện ưu tú của các dân tộc bị áp bức, ngay trước khi tham dự Quốc tế
Cộng sản lần thứ V, Nguyễn ái Quốc đã đề nghị với Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản
về việc thành lập “Nhóm châu á” tại Trường Đại học Phương Đông nhằm tạo điều kiện cho
thanh niên, học viên có cơ hội nghiên cứu tình hình, đặc điểm của các nước thuộc địa và
phụ thuộc.
Là thành viên trong đoàn Chủ tịch trực tiếp lãnh đạo Đại hội, bằng kinh nghiệm thực tiễn
phong phú đã trải qua, nhất là sự hiểu biết sâu rộng về tình cảnh thanh niên các nước thuộc
địa, Nguyễn ái Quốc đã có những đóng góp quan trọng vào việc soạn thảo hàng loạt văn

kiện của Đại hội.
Đặc biệt, Nguyễn ái Quốc là người chủ trì và là tác giả chính trong nhóm tác giả
soạn thảo “Luận cương về thanh niên thuộc địa” nổi tiếng theo tư tưởng của Lênin Người
đã trực tiếp trình bày văn kiện hết sức quan trọng này tại Đại hội và được Đại hội nhất trí
thơng qua. Luận cương mở đầu bằng việc đánh giá và khẳng định rằng từ năm 1919 đến
năm 1924, phong trào thanh niên thuộc địa đã có những chuyển biến mạnh mẽ dưới ngọn
cờ của Quốc tế Cộng sản và được ảnh hưởng của Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga.
Năm 1919 là thời điểm V.I. Lênin sáng lập ra Quốc tế Thanh niên cộng sản và Nguyễn ái
Quốc đã may mắn sớm có mối liên hệ với tổ chức này như trên đã nêu. Luận cương nhận
định rằng thanh niên các thuộc địa đã dần dần hướng phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc theo thắng lợi của cuộc cách mạng vơ sản. Họ đi theo ngọn cờ của Lênin vì họ tìm thấy
ánh sáng soi đường trong Luận cương về vấn đề dân tộc nổi tiếng của Người.
Tiếp đến, “Luận cương về thanh niên thuộc địa” nêu lên yêu cầu cấp bách phải tổ
chức, tập họp lực lượng thanh niên cách mạng và xây dựng cơ sở Đoàn Thanh niên Cộng
sản ở các thuộc địa. Đây là mâu thuẫn gay gắt nổi lên trong những năm đầu thế kỷ ở các
thuộc địa giữa đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và những khả năng để giải quyết những
nhiệm vụ đó. Vấn đề “Thiếu tổ chức và thiếu người tổ chức” mà sau này vào năm 1925
trong “Thư gửi thanh niên An Nam” đồng chí Nguyễn ái Quốc đã chỉ rõ là tình hình chung
của nhiều nước thuộc địa khác trên thế giới chứ không chỉ riêng ở Việt Nam. “Luận cương
về thanh niên thuộc địa” đặt ra yêu cầu khẩn thiết về việc hình thành các đồn thể thanh
niên cách mạng và tiến tới xây dựng các tổ chức thanh niên cộng sản ở thuộc địa là nhằm
giải quyết mâu thuẫn nêu trên.
Cuối cùng “Luận cương về thanh niên thuộc địa” nhấn mạnh việc tăng cường mối


liên hệ giữa các tổ chức thanh niên cách mạng, thanh niên cộng sản ở các thuộc địa với tổ
chức thanh niên cộng sản ở chính quốc.
Luận cương vạch ra những công việc cụ thể về giúp đỡ vật chất, tinh thần của các tổ
chức TNCS chính quốc với các tổ chức TNCS ở thuộc địa.
Nghiên cứu toàn bộ “Luận cương về thanh niên thuộc địa” do đồng chí Nguyễn ái

Quốc chủ trì soạn thảo Đại hội lần thứ IV Quốc tế TNCS (1924) chúng ta tìm thấy nhiều ý
tưởng, quan điểm về vấn đề thanh niên thuộc địa mà trước đó đồng chí Nguyễn ái Quốc đã
nhiều lần đề cấp đến trong các bài viết của Người trên báo chí của Đảng Cộng sản Pháp
hoặc trong các cuộc tranh luận nội bộ về các vấn đề có liên hệ đến trách nhiệm của Đảng
đối với phong trào thuộc địa cũng như các bài viết của Nga đăng trên tạp chí “Thư tín quốc
tế’ của Quốc tế Cộng sản” và báo “Sự thật” của Đảng Cộng sản Liên Xô.
Luận cương về thanh niên thuộc địa đã đưa ra những quan điểm rất cơ bản và chỉ rõ
nhiệm vụ cụ thể về tổ chức, giáo dục và hướng dẫn cuộc đấu tranh vì những mục tiêu độc
lập, tự do, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc của thanh niên các nước thuộc địa.
Luận cương vừa có giá trị như một cương lĩnh chính trị vừa như một chương trình hành
động phù hợp với tình hình, nguyện vọng của hàng chục triệu thanh niên đang bị áp bức,
đọa đày do chính sách và những hành động tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc cấu
kết phong kiến bản địa.
Giữa năm 1925, nghĩa là chỉ hơn một năm sau khi “Luận cương về thanh niên thuộc
địa” được nhất trí thơng qua tại Đại hội Quốc tế Thanh niên Cộng sản lần thứ IV, tác giả
của văn kiện nổi tiếng này - đồng chí Nguyễn ái Quốc, lãnh tụ của dân tộc và giai cấp công
nhân Việt Nam đã triển khai thắng lợi chủ trương xây dựng một tổ chức thanh niên cách
mạng ở Việt Nam một nước thuộc địa của Pháp là “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí Hội”, một tổ chức bao gồm phần lớn là thành viên trẻ tuổi theo xu hướng cộng sản, tiền
thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong những năm tháng Nguyễn ái Quốc sống và hoạt động ở Liên Xô (1923-1924)
cũng là lúc phong trào cách mạng ở Trung Quốc phát triển mạnh mẽ. Quảng Châu là trung
tâm cách mạng của đất nước Trung Hoa rộng lớn. Quảng Châu trở thành địa bàn quan
trọng cho hoạt động của nhiều nhà cách mạng Việt Nam và những nhà yêu nước Triều
Tiên, Inđônêsia, Miến Điện. Nhiều thanh niên yêu nước Việt Nam xuất dương vào đầu
những năm 20 cũng đã đến đây và được tập hợp lại trong tổ chức Tâm Tâm Xã. Đầu năm
1924 Phạm Hồng Thái sang Quảng Châu và gia nhập Tâm Tâm Xã. Tháng 6-1924, Phạm
Hồng Thái thực hiện nhiệm vụ ném tạc đạn nhằm mưu sát tên toàn quyền Méclanh
(Merlin) nhân dịp y đi công cán qua Quảng Châu.
Tiếng bom Sa Diện mưu sát tồn quyền Đơng Dương Méc lanh của người thanh niên

yêu nước Phạm Hồng Thái tuy không thành cơng “nhưng nó báo hiệu bắt đầu thời đại đấu
tranh dân tộc, như chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân”, là hiệu kèn thúc giục nhiều thanh niên
yêu nước Việt Nam dấn thân trên con đường tranh đấu.
Năm 1925, cụ Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt và kết án tử hình. Hàng chục vạn
thanh niên thuộc đủ các tầng lớp trong cả nước đã sôi sục đấu tranh địi bọn cầm quyền ở
Đơng Dương phải thả cụ. Năm 1925, cụ Phan Chu Trinh mất, hơn 140 ngàn người trong đó
có hàng vạn thanh niên, học sinh đã tập hợp ở Sài Gòn để đưa đám tang cụ. Đây là một
cuộc biểu dương lực lượng rất to lớn có ảnh hưởng rất rộng trong cả nước, nhất là đối với


phong trào thanh niên. Nguyễn ái Quốc, ngay thời gian đó đã nêu rõ: “Chưa bao giờ có
một phong trào quần chúng rộng rãi như vậy”. Đây là một dịp rất tốt cho Nguyễn ái Quốc
tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, cổ vũ đấu tranh cách mạng.
Trong phong trào đấu tranh của quần chúng, hàng loạt tổ chức yêu nước do những
người trẻ tuổi sáng lập ra đời. Năm 1925, nhóm sinh viên cao đẳng Hà Nội gồm 17 người,
trong đó có Tơn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai, Phạm Thiều... cùng với một số thầy giáo trẻ
ở miền Trung nhóm họp tại Vinh và quyết định thành lập “Hội Phục Việt” sau này là “Tân
Việt”. Tháng 3 năm 1926, một số thanh niên trí thức ở Nam Bộ trong đó có Trần Huy Liệu,
lập ra “Đảng Thanh niên”. Giữa năm 1926, nhà yêu nước trẻ tuổi Nguyễn An Ninh tập hợp
một số thanh niên viên chức, thầy giáo yêu nước vào tổ chức “Thanh niên Cao Vọng”.
Những tổ chức thanh niên yêu nước nói trên hoạt động rất hăng hái, như “Hội Phục Việt”
đã vận động hội viên tham gia cuộc đấu tranh đòi thả cụ Pham Bội Châu với nhiều hình
thức phong phú. “Đảng thanh niên hơ hào thanh niên biến cuộc đưa đám cụ Phan Chu
Trinh thành cuộc biểu dương lực lượng của quần chúng.
Vào thời gian có nhiều sự kiện đặc biệt đó, sau khi dự Đại hội Quốc tế Thanh niên
Cộng sản lần thứ IV, Nguyễn ái Quốc đã từ Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc) với
trách nhiệm nặng nền đối với phong trào cách mạng ở Đông Dương và châu á. Người đã
khẩn trương tìm hiểu tình hình và tìm cách bắt liên lạc với những thanh niên Việt Nam yêu
nước tại đây qua sự giúp đỡ một phần của phái đoàn cố vấn Liên Xơ bên cạnh Chính phủ
Tơn Dật Tiên.

Liên tiếp trong 2 ngày 18 và 19-12-1924, Nguyễn ái Quốc gửi thư và báo cáo cho
Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản, trong đó Người đánh giá cao tinh thần cách mạng của số
thanh niên yêu nước mà Người đã tiếp xúc.
Từ tháng 12 năm 1924 cho đến tháng 2 năm 1925 là thời gian Nguyễn ái Quốc làm
việc mật thiết với nhóm thanh niên trong tổ chức Tâm Tâm Xã. Người đã thẳng thắn nêu
lên những thiếu sót trong nhận thức, hành động của nhóm này và tỏ rõ sự khâm phục tinh
thần yêu nước của các chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi như trường hợp Phạm Hồng Thái. Dưới
hình thức những lớp bồi dưỡng nhỏ, phân tán, Nguyễn ái Quốc đã giới thiệu với anh em về
Cách mạng Tháng Mười Nga, về Quốc tế Cộng sản, về chủ nghĩa xã hội khoa học, về học
thuyết Mác - Lênin. Tác dụng của các lớp học đầu tiên này đối với số thanh niên đang khát
khao lý tưởng thật là to lớn. Kết luận mà Nguyễn ái Quốc rút ra cho các học trò của Người
là muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải dựa vào quần chúng nhân dân, nhất là cơng
nhân, nơng dân, phải có một Đảng tiên phong theo chủ nghĩa Mác - Lênin lãnh đạo.
Với lý luận sắc bén, kinh nghiệm phong phú, tác phong cởi mở, Nguyễn ái Quốc đã
tạo nên niềm tin mạnh mẽ cho số thanh niên yêu nước và đưa dần họ đến với chân lý cách
mạng.
Lúc này Nguyễn ái Quốc chủ trương tổ chức một nhóm bí mật. Tuy về quy mơ chỉ là nhóm
đầu tiên nhưng có đầy đủ Chương trình, Điều lệ...
Hồn thành xong nhiệm vụ có ý nghĩa lịch sử này, ngày 19-2-1925, Nguyễn ái Quốc
đã gửi báo cáo tới Đồn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản. Trong mục “Cơng tác đã làm được”,
Nguyễn ái Quốc viết: “Chúng tôi đã lập một nhóm bí mật gồm 9 thành viên, trong đó có:
- 2 người đã được phái về nước.
- 3 người ở tiền tuyến (trong quân đội của Tôn Dật Tiên).


- 1 người đi công cán quân sự (cho Quốc dân đảng).
Trong số hội viên đó, có 5 người đã là đảng viên dự bị của Đảng Cộng sản.
Chúng tôi cịn có 2 đồn viên dự bị của “Đồn thanh niên Cộng sản Lênin”.
Nhóm bí mật 9 người do Nguyễn ái Quốc xây dựng là cái mầm non của một tổ chức
cộng sản mà Người đã ấp ủ trong kế hoạch tổ chức từ sau khi tham dự đại hội Quốc tế

Cộng sản lần thứ V và Đại hội Quốc tế Thanh niên Cộng sản lần thứ IV.
Con đường truyền bá tư tưởng giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
giai cấp công nhân và nhân dân yêu nước Việt Nam mà Nguyễn ái Quốc đã thực hiện lúc
đó là dựa vào thanh niên, lớp người trẻ tuổi có lịng u nước, căm thù giặc, hăng hái cách
mạng, nhạy cảm với cái mới, có học thức, được học tập lý luận giải phóng dân tộc và
phương pháp tổ chức nhân dân do chính Người đào tạo.
Chính từ kết quả đầu tiên bằng tư duy rất sáng tạo và tài tổ chức của mình, Nguyễn
ái Quốc đã yêu cầu Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản cho “gửi sinh viên Việt Nam sang
học Trường Đại học Cộng sản ở Mátxcơva” và nói rõ hơn cho tơi biết “là có thể gửi bao
nhiêu sinh viên Việt Nam sang”.
Sự ra đời của nhóm cách mạng trẻ tuổi 9 người tuy còn quá nhỏ bé trên con đường
dài dựng Đảng, dựng Đồn nhưng đó là thời điểm khai sinh ra một thế hệ thanh niên mới
với xu hướng làm cho thực dân Pháp và bọn cai trị run sợ. Toàn quyền Đông Dương
Méclanh đầu năm 1925 gửi báo cáo về Bộ thuộc địa Pháp nói: “Xuất hiện ở Quảng Châu
một người cách mạng Việt Nam tên là Lý Thụy hoạt động rất tích cực trong số những
người Việt Nam tại đây và dùng những biện pháp tuyên truyền kiểu mới có xu hướng cộng
sản”
Việc ra đời nhóm đồn viên thanh niên cộng sản Việt Nam đầu tiên này là sự kiện
đặc biệt quan trọng mở đầu cho quá trình hình thành và phát triển các tổ chức thanh niên
cách mạng theo xu hướng cộng sản chủ nghĩa cũng như sự ra đời của Đoàn Thanh niên
Cộng sản ở nước ta sau này.
Đối với phong trào thanh niên cộng sản quốc tế, sự xuất hiện nhóm đồn viên thanh
niên cộng sản Việt Nam đầu tiên vào đầu năm 1925 đã góp phần minh chứng tính đúng
đắn của Luận cương về thanh niên thuộc địa do Nguyễn ái Quốc chủ trì soạn thảo như trên
đã nêu.
Từ nhóm bí mật 9 người, chỉ trong vòng hơn 4 tháng sau các chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi
dưới sự hướng dẫn của Nguyễn ái Quốc vừa lo tổ chức, huấn luyện, bồi dưỡng cho những
thanh niên ở trong nước ra, vừa lo chuẩn bị chương trình điều lệ,v.v... để đến tháng 6-1925,
Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí (từ sau năm 2000 tên Hội được gọi là Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên) chính thức tuyên bố thành lập và bắt đầu mở rộng các

hoạt động tạo ra bước ngoặt quan trọng trong phong trào yêu nước của nhân dân, đặc biệt
là của thanh niên ta.
Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí ngay từ khi mới thành lập đã lo đặt
viên đá đầu tiên để chuẩn bị cho tổ chức thanh niên sau này.
Do việc tích cực phát triển Đồn nên từ đầu năm 1925 đến năm 1926, số đoàn viên,
từ một nhóm nhỏ vài ba đồng chí đã tăng lên 25 đồng chí.
Lớp đồn viên thanh niên cộng sản đầu tiên này phần lớn trở về nước hoạt động như
trường hợp Vương Thúc Oánh, Nguyễn Ngọc Ba... một số khác được phân công học tiếp


tại các lớp đào tạo cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản của Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô và
học quân sự ở Trường Hoàng Phố (Quảng Châu).
Tuân theo di huấn của Lênin: “Khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong trào
cách mạng”, Nguyễn ái Quốc lần lượt mở các lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu. Mục
đích học tập là “Học làm cách mạng, học cách hoạt động bí mật. Học xong họ lại bí mật về
nước truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân”(2).
Nguyễn ái Quốc cùng với các cộng sự đắc lực của Người như các đồng chí Hồ Tùng
Mậu, Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn,v.v... đã mở liên tiếp các lớp huấn luyện thu hút khá
đông thanh niên yêu nước các miền Bắc, Trung, Nam sang Quảng Châu học tập.
Theo báo cáo của Nguyễn ái Quốc gửi Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản, từ năm
1924 đến năm 1927, Người đã mở được ba khóa huấn luyện cho 75 người, xuất bản được 3
tờ báo nhỏ. Đây là vốn quý mà Người đã chuẩn bị cho cách mạng Việt Nam. Hy vọng
tuyệt đại bộ phận được trở về Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Nam Kỳ về Xiêm để hoạt động, tuyên
truyền lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân. Đồng chí Phạm Văn Đồng là một
trong những học viên được cử phụ trách các cơ sở Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí Hội ở các tỉnh phía Nam nước ta.
Học viên tuy là những người có trình độ văn hóa (phần lớn là học sinh và giáo viên)
nhưng còn hết sức bỡ ngỡ với biết bao khái niệm chính trị, triết học... mà họ chưa hề biết
đến...
Tất cả những điều mới mẻ trên có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với lớp thanh niên đang khát khao

lý tưởng, khát khao tìm đường cứu nước, cứu dân. Họ hấp thụ chân lý chủ nghĩa Mác Lênin như hấp thụ ánh sáng mặt trời.
Đối với công tác thanh niên, học viên được nghe giới thiệu về Quốc tế Thanh niên Cộng
sản. Đây là đường lối công tác thanh niên theo chủ nghĩa Mác - Lênin lần đầu tiên được
truyền bá vào Việt Nam.
Các bài giảng của Nguyễn ái Quốc tại các lớp huấn luyện thanh niên yêu nước ở
Quảng Châu đã được tập hợp và in thành sách với tên chung là “Đường kách mệnh”.
“Đường kách mệnh” trở thành vũ khí chiến đấu của những người cách mạng Việt
Nam lúc bấy giờ nhằm chống lại mọi trào lưu tư tưởng phi vô sản và cơ hội chủ nghĩa
trong và ngoài nước.
Với yêu cầu đào tạo lúc bấy giờ. “Đường kách mệnh” không chỉ nêu lên những vấn
đề thuộc chủ nghĩa, đường lối, sách lược mà còn hướng dẫn công việc tổ chức, tuyên
truyền rất cụ thể để mỗi học viên sau khi học xong có thể bắt tay thực hành.
Bài học đầu tiên mà học viên được nghe giảng là tư cách một người cách mạng trong đó
nêu lên 3 mối quan hệ của người cách mạng: “Đối với bản thân, đối với mọi người và đối
với cơng việc”.
Trong cuộc chiến đấu quyết liệt mất cịn với kẻ thù vấn đề đặt ra đối với những
người cách mạng, đặc biệt là đối với lớp thanh niên chưa trải qua nhiều thử thách thì bên
cạnh việc bồi dưỡng về trí thức cách mạng cần đặt lên hàng đầu việc bồi dưỡng về đạo đức
và phẩm chất cách mạng ấy chính là ý nghĩa của bài học đầu tiên này.
Cùng với việc mở Trường đào tạo cán bộ thanh niên tại Quảng Châu, đồng chí
Nguyễn ái Quốc đã liên hệ với Quốc tế Cộng sản và Quốc tế Thanh niên Cộng sản để gửi
một số thanh niên Việt Nam đến học ở khoa đào tạo cán bộ Đoàn của trường Đảng Liên


Xơ.
Đồng chí Nguyễn ái Quốc cũng đã trực tiếp gửi thư cho Uỷ ban Trung ương Đội
Thiếu niên Tiền phong trực thuộc Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Lênin đề nghị
đào tạo theo chương trình lâu dài một số thiếu niên Việt Nam thành cán bộ Đoàn sau này.
Bức thư đề ngày 22-7-1926 có đoạn viết: “Chúng tơi có tại đây (Quảng Châu-Trung Quốc)
một nhóm thiếu nhi An Nam. Các em đều từ 12 đến 15 tuổi. Đó là những thiếu nhi cộng

sản đầu tiên của nước An Nam bị chủ nghĩa đế quốc áp bức và ở đó mọi việc giáo dục đều
bị cấm... chúng tôi hy vọng rằng các bạn sẽ không từ chối tiếp nhận 3 hay 4 bạn nhỏ An
Nam”. Đề nghị trên đã được Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng Sản Lênin đáp ứng một
cách nồng nhiệt, tuy nhiên do tình hình chính trị ở Quảng Châu diễn biến xấu nên chủ
trương gửi các cháu thiếu niên nói trên đi đào tạo ở Mátxcơva không thực hiện được.
Cùng với sự ra đời của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội một tờ báo lấy
tên là “Thanh Niên”, phục vụ cho đối tượng chính là thanh niên, với tư cách là cơ quan
ngơn luận của Hội phát hành số đầu tiên vào ngày 21-6-1925.
Người phụ trách trực tiếp và cũng là người viết nhiều bài cho báo là Nguyễn ái
Quốc. Đây là tờ báo tiếp nối sự nghiệp của báo Le Paria (Người cùng Khổ) trong điều kiện
mới với đối tượng mới. Báo “Thanh Niên” in khổ nhỏ (13x19) mỗi kỳ ra 100 bản, mỗi bản
2 trang đặc biệt có số 4 trang, báo viết bằng tiếng Việt(2).
Về nội dung, báo “Thanh Niên” có các loại bài xã luận, bình luận, truyện lịch sử thế
giới, truyện lịch sử dân tộc và tin tức, đặc biệt có thêm việc hướng dẫn tổ chức các đoàn
thể, kinh nghiệm các cuộc cách mạng trên thế giới và giới thiệu về những thành tựu của
Liên Xơ.
Nhìn lại các bài viết trên báo “Thanh Niên”, chúng ta thấy rõ mục đích của báo là:
Phát động lịng u nước, căm thù giặc đặc biệt là đối với thanh niên, bồi dưỡng
quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược để giành lại độc lập, tự do cho đất nước.
Giới thiệu kinh nghiệm lịch sử, nhất là kinh nghiệm các cuộc vận động cách mạng ở
nhiều nước để vận dụng vào cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, giới thiệu về chủ
nghĩa cộng sản và những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như những vấn đề
chủ yếu về chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam.
Từng bước lý giải về sự cần thiết phải thành lập một Đảng cách mạng theo chủ nghĩa
Mác - Lênin; giáo dục về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và tuổi trẻ trước yêu cầu
của sự nghiệp giải phóng dân tộc và giai cấp.
Với lối viết giản dị nhưng chứa đựng tinh thần tố cáo và cổ vũ sâu sắc, báo “Thanh
Niên” kêu gọi nhân dân và tuổi trẻ đứng lên đấu tranh.
Về mức độ phổ biến của báo “Thanh Niên” tuy gặp nhiều khó khăn nhưng những cơ
sở của Việt Nam cách mạng đồng chí Hội đã cố gắng giới thiệu báo “Thanh Niên” cho hội

viên và những người cảm tình với Hội đọc. Các đầu mối tiếp nhận báo ở trong nước lúc đó
là Cảng Hải Phịng, Hà Nội, Nam Định,v.v... và một số cơ sở ở Sài Gòn (nhật báo “Thanh
Niên” qua đường từ Băng Cốc đưa về).
Tên mật thám cáo già Lui Mácti đã nhận xét khái quát qua 88 số báo “Thanh Niên”
mà y có như sau: “Trong số báo đầu tiên, Nguyễn ái Quốc nhấn mạnh trước hết sức mạnh
và sự đoàn kết đã đem lại cho một tập thể, nhấn mạnh đến lợi ích mà những cá nhân trong
tập thể ấy thu được. Nguyễn ái Quốc đã thức tỉnh tinh thần độc lập và tình cảm dân tộc,


đặc trưng cho tính khí người An Nam. Tiếp đó, dần dà ơng cung cấp cho độc giả của mình
những hiểu biết về lịch sử An Nam và các trào lưu tư tưởng nước ngoài, và lịch sử các
cường quốc thế giới,v.v... Rồi lần lượt ông đưa ra từng thuật ngữ Hán-Việt tương ứng với
một cuốn từ vựng mới về chủ nghĩa cộng sản và nêu ra một định nghĩa rõ ràng, chính xác
về mặt thuật ngữ ấy. Từng bước lúc đầu cịn ít và về sau thường xun hơn, ông công bố
một câu hoặc một bài báo ngắn, thông báo cho độc giả biết sự tồn tại của Liên Xô và hạnh
phúc mà nhân dân Xô Viết đã được hưởng. Nguyễn ái Quốc cũng không ngần ngại dành
đến 60 số báo của mình để chuẩn bị tinh thần cho độc giả, ít khi ơng nói rõ ý đồ của mình
khi ơng viết: “Chỉ có Đảng cộng sản mới có thể đảm bảo hạnh phúc cho An Nam”.
Và chính Lui Mácti cũng thấy rõ rằng báo “Thanh Niên” có sức hấp dẫn thanh niên,
chẳng những họ đọc mà còn chép lại để chuyển cho người khác đọc.
Báo “Thanh Niên” thực sự đã góp phần đắc lực vào việc chuẩn bị về tư tưởng, lý luận và tổ
chức cho việc thành lập Đoàn, thành lập Đảng.
*
* *
Từ năm 1926 đến năm 1929, phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam, đặc biệt
là phong trào đấu tranh của quần chúng công nông và thanh niên, học sinh đã phát triển lên
một bước mới dưới sự lãnh đạo của Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí. Chính
từ phong trào đấu tranh đó mà Hội đã có bước phát triển mới về tổ chức, cả về số lượng và
chất lượng. Hệ thống tổ chức 5 cấp từ Trung ương Hội đến cơ sở đã xây dựng hồn chỉnh.
Hội có 1.700 hội viên và hàng nghìn người có cảm tình với Hội.

Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đơng Dương đã chỉ rõ: “Những cuộc bãi
công trong năm 1928-1929... đã chứng tỏ rằng sự tranh đấu của giai cấp ở Đông Dương
ngày càng rộng khắp. Điều đặc biệt và quan trọng của phong trào cách mạng ở Đông
Dương là sự tranh đấu của quần chúng cơng nơng có tính chất độc lập rất rõ rệt, chứ không
phải là chịu ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như lúc trước nữa”.
Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí đã ý thức được rằng cách mạng không
phải chỉ dừng lại ở chỗ tuyên truyền đường lối mà phải vận động quần chúng thực hiện
đường lối và lấy công nông làm gốc cách mạng. Hội đã cố gắng đưa hội viên của mình đi
vào cơng nơng bằng cuộc vận động “Vơ sản hóa”.
Từ giữa năm 1929 trở đi, có thể nói làn sóng đấu tranh của công nhân trong cả nước
ta ngày một dâng cao, là lực lượng xung kích đi đầu đấu tranh chống địch bất chấp mọi
hành động khủng bố tàn bạo của đế quốc và phong kiến.
Cùng với phong trào đấu tranh của thanh niên công nhân, các phong trào đấu tranh
của thanh niên nông dân, thanh niên học sinh cũng được Hội Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí quan tâm lãnh đạo. ở nông thôn, Hội vận động thanh niên bài trừ hủ tục,
chống phù thu lạm bổ, vạch mặt bọn quan lại địa phương. Đặc biệt Hội Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí đã đấu tranh mạnh mẽ chống chính sách mộ phu của bọn tư bản,
thực dân.
Cuối năm 1928, trong khi đang có sự tranh luận về vấn đề thành lập Đảng Cộng sản
thì các đồng chí trong Kỳ bộ Thanh niên cách mạng đồng chí Hội Bắc Kỳ rất vui mừng
nhận được bản “Đề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc
địa” của đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản. Văn kiện quan trọng này chỉ rõ nhiệm vụ,


tính chất, lực lượng cách mạng và vai trị lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân ở các
nước thuộc địa và nửa thuộc địa làm sáng tỏ những vấn đề đang được thảo luận, nhất là
vấn đề đánh giá vai trị của giai cấp cơng nhân ở các nước thuộc địa từ sau Đại hội Quốc tế
Cộng sản lần thứ V. Văn kiện này cũng đã đề cập mạnh mẽ vấn đề thanh niên thuộc địa từ
sau Đại hội Quốc tế Thanh niên Cộng sản lần thứ IV như sau:
“Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản yêu cầu các Đảng Cộng sản ở các nước thuộc

địa phải chú trọng vấn đề xây dựng và phát triển phong trào thanh niên cộng sản và đấu
tranh chống lại những quan điểm lạc hậu trong giai cấp công nhân cũng như trong các tổ
chức công hội thường thiếu quan tâm đến những quyền lợi của thanh niên công nhân và
không chú trọng lãnh đạo cuộc đấu tranh nhằm làm cho tình cảnh của những thanh niên bị
bóc lột được khá hơn.
Trước yêu cầu cấp bách của phong trào và sau một quá trình đấu tranh, chi bộ Đảng
Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam ra đời vào tháng 3-1929 tại số nhà 5D phố Hàm Long (Hà
Nội) đến tháng 6-1929 thì Đơng Dương cộng sản Đảng ra đời. Tiếp sau đó là An Nam
Cộng sản Đảng ra đời ở Nam Kỳ và Đơng Dương Cộng sản liên đồn ra đời ở Trung Kỳ.
Năm 1930, Nguyễn ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản chủ trì cuộc họp thống nhất các tổ
chức cộng sản ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt vĩ
đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Trước năm 1929 đã có một số đồn viên thanh niên cộng sản do các cán bộ của
“Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội” vốn là đồn viên thanh niên cộng sản
được kết nạp ở Quảng Châu về nước trực tiếp tuyên truyền và tổ chức, nhưng các đồng chí
đồn viên này chưa được tổ chức vào các tổ chức cơ sở của Đoàn mà hoạt động trong mối
quan hệ trực tiếp với các cán bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Chỉ từ sau
khi các tổ chức Đảng ở nước ta hình thành, nhất là từ sau khi Đơng Dương Cộng sản Đảng
ở Bắc Kỳ ra đời thì các tổ chức Đoàn cơ sở mới được thành lập.
Tháng 6-1929, hai chi bộ Đoàn thanh niên cộng sản được thành lập ở Hải Phòng
trong phong trào đấu tranh rộng lớn của các quần chúng. Chi bộ Đoàn thứ nhất ra đời ở
Nhà máy Xi măng Hải Phòng. Chi bộ Đồn Nhà máy Xi măng Hải Phịng được xây dựng
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, một học viên của Trường Chính
trị Quảng Châu do đồng chí Nguyễn ái Quốc đào tạo. Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh thường
cùng lao động với thanh niên công nhân của nhà máy, đi sâu tìm hiểu hồn cảnh của họ,
tuyên truyền giác ngộ họ rồi chọn lọc một số thanh niên ưu tú kết nạp vào Đoàn. Chi bộ
Đoàn ra tờ báo lấy tên “Tia lửa”, bí mật phân phát trong nhà máy để giáo dục và tập hợp
thanh niên. Chi bộ Đồn đã có sáng kiến lập một số đội bóng đá và thường đứng ra tổ chức
các trận đấu giao hữu ở bãi xi măng đen. Một số nhóm đọc sách do chi bộ Đồn đứng ra
thành lập thu hút khá đông thanh niên tham gia. Ngày 7-11-1929, để kỷ niệm cách mạng

xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại, chi bộ Đoàn đã tổ chức rải truyền đơn và treo cờ
đỏ búa liềm trong nhà máy, ngồi ra cịn tổ chức kể chuyện về Liên Xô qua những tài liệu
thu thập trong sách báo cho đồn viên và những thanh niên cảm tình với Đồn nghe.
Cuối năm 1929, chi bộ Đồn đã tích cực tham gia và trở thành lực lượng xung kích
thực hiện chỉ thị của nhà máy đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống khủng bố của
đế quốc.
Chi bộ Đoàn thứ hai ra đời ở Trường Bônan (nay là trường Ngô Quyền) là nơi có phong


trào đấu tranh mạnh mẽ của học sinh trong những năm 1925, 1926 và các năm sau. Chi bộ
Đồn có 11 đồn viên, chia thành các tiểu tổ trong đó có một số học sinh ở trường khác.
Chi bộ Đồn Trường Bơnan do Bùi Đức Thanh làm bí thư. Chi bộ Đồn có tờ báo in thạch
lấy tên là “Thanh niên cộng sản” để giáo dục và tập hợp thanh niên học sinh. Các đoàn
viên thanh niên cộng sản ở Trường Bơnan hoạt động rất tích cực, nhất là trong công tác
tuyên truyền cách mạng, vận động thanh niên đấu tranh. Có tháng, chi bộ Đồn đã cho ra
ba số “Thanh niên cộng sản” nhằm đáp ứng nguyện vọng muốn hiểu biết của thanh niên.
Chi bộ Đoàn thanh niên cộng sản Trường Bônan đã giúp anh chị em học sinh tổ chức ra
“Học sinh đoàn” để thu hút những học sinh có tinh thần yêu nước, hăng hái hoạt động cách
mạng. Lớp học sinh đồn đầu tiên gồm có Lê Viêm, Vũ Thiện Tấn, Nguyễn Văn Cúc (tức
đồng chí Nguyễn Văn Linh Tổng Bí thư Trung ương Đảng khóa VI). Đồng chí Nguyễn
Văn Linh là một học sinh yêu nước, hoạt động rất hăng hái đã bị đế quốc Pháp đày ra Cơn
Đảo. Nhưng chính tại đây trong chế độ lao tù vơ cùng khắc nghiệt, đồng chí đã cùng với
nhiều đảng viên cộng sản Việt Nam khác anh dũng biến nhà tù thành trường học, rèn luyện
ý chí cách mạng. Đồng chí đã trở thành người đảng viên đấu tranh kiên cường vì lý tưởng
của Đảng.
Khoảng tháng 10-1929, tại Hà Nội một nhóm đồn viên thanh niên cộng sản đã được
hình thành tại ga Hàng Cỏ trong đó có đồn viên Long 21 tuổi là thợ cơ khí. Nhóm này do
Lê Văn Nhuận (tức đồng chí Lê Duẩn) lúc ấy hoạt động trong Sở Hỏa xa Bắc Đông Dương
giác ngộ và kết nạp.
Nhiệm vụ của nhóm đồn viên này dưới sự hướng dẫn của đồng chí Lê Duẩn là tuyên

truyền cách mạng trong thanh niên giúp việc liên lạc cho Đảng, phát hành báo “Búa liềm”
đi các tỉnh. Nhân kỷ niệm Cách mạng Xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm đó (7-111929) nhóm đồn viên thanh niên cộng sản ga Hàng Cỏ đã chuyển nhiều truyền đơn của
Thành ủy lâm thời Hà Nội về các tỉnh.
Cùng thời gian trên, nhiều cơ sở “sinh hội” bí mật xuất hiện trong một số trường hợp
ở Hà Nội như các trường Sinh Từ, Đỗ Hữu Vị, Trần Nhật Duật, Mạc Đĩnh Chi... Tháng 9 1929, Tổng Hội sinh viên ra đời ở Hà Nội và xuất bản báo “Người sinh viên” do Đặng
Xuân Khu (tức đồng chí Trường Chinh) phụ trách. Nhiều bài báo hay có tác dụng cổ vũ
sinh viên đứng lên cùng nhân dân đánh đuổi đế quốc của Trường Chinh đã có tiếng vang
lớn khơng những trong hàng ngũ sinh viên và còn thức tỉnh các lớp thanh niên trí thức, tiểu
tư sản, tham gia vào hàng ngũ cách mạng.
Ở Nghệ An, trong những năm 1928-1929 đã có một số thanh niên ưu tú được tổ
chức vào thanh niên cộng sản Đoàn do Vương Thúc Oánh, Nguyễn Ngọc Ba... là những
đoàn viên thanh niên cộng sản được dự lớp chính trị ở Quảng Châu trở về nước xây dựng
cơ sở.
Năm 1929, sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ cử Nguyễn Phong Sắc, Trần
Văn Cung vào Nghệ Tĩnh xây dựng cơ sở Đảng ở Trung kỳ thì một số nhóm đồn viên
thanh niên cộng sản ở các địa phương nói trên cũng được hình thành.
Cũng trong năm này, các đảng viên cộng sản hoạt động ở Sài Gòn và các tỉnh Nam
Kỳ đã tuyên truyền, giác ngộ và tổ chức được nhiều thanh niên vào Đoàn. Riêng ở Sài
Gòn, tại một số cơ sở quan trọng đã có những nhóm đồn viên hoạt động dưới sự chỉ đạo
của các đảng viên.



×