Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm môn tập đọc lớp 2 một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trong môn tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.32 KB, 11 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài.
Giáo dục tiểu học là nền tảng của giáo dục phổ thông. Thành quả giáo dục
tiểu học có tác dụng cơ bản lâu dài, có tính quyết định đối với cuộc đời mỗi
người. Những đức tính trung thực, công bằng, cẩn thận, lễ phép, hiếu thảo và
những kĩ năng cơ bản nghe, nói, đọc viết, tính toán... nếu không được hình
thành vững chắc ở tiểu học thì sẽ khó có cơ hội hình thành và phát triển ở
những cấp học cao hơn. Để đạt được những mục tiêu trên, môn Tiếng Việt đã
đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách, phẩm chất của
con người. Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh tri thức về ngôn ngữ học,
trang bị cho học sinh công cụ để học tập tất cả các môn học khác trong nhà
trường. Trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học các phân môn được thiết kế có một
mối quan hệ mật thiết, bổ trợ nhau nhằm từng bước giúp các em làm chủ được
công cụ ngôn ngữ để học tập, để giao tiếp một cách đúng đắn, mạch lạc, tự
nhiên trong các môi trường xã hội thuộc phạm vi hoạt động lứa tuổi.
Không biết từ bao giờ, trải qua hàng ngàn năm tiến hóa của loài người,
ngôn ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò
biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lí và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa,
tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông
cha ta rất coi trọng:
“ Học ăn, học nói, học gói, học mở”
“ Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Để đánh giá một con người, chúng ta cần phải có sự thử thách qua giao
tiếp hàng ngày với họ: “ Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”. Mặt khác
việc giao tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh
vực. Với trẻ em, lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ngay từ khi các em còn rất
nhỏ, chúng ta đã rất chú trọng. Ngành giáo dục đào tạo nói chung và ngành giáo
dục tiểu học nói riêng đã được xã hội trao cho trọng trách đáng tự hào là giáo
1/22



dục trẻ em ngay từ những ngày đầu bước chân tới trường. Từ bao đời nay, việc
giáo dục ở nhà trường đã áp dụng phương châm: “Tiên học lễ, hậu học văn”.
Dạy Tiếng Việt không có nghĩa là chỉ dạy các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà
dạy các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô
cùng quan trọng. Chính vì vậy ngay từ đầu năm học ………tôi được phân công giảng
dạy lớp 2B. Sau khi nhận lớp và tổ chức dạy học cho học sinh tôi nhận thấy: Việc tổ
chức luyện nói cho học sinh trong học Tiếng Việt còn gặp nhiều khó khăn và
kết quả học tập chưa cao. Giáo viên thường đưa ra, giáo viên gợi ý, đa phần học
sinh nhắc lại các câu mẫu của giáo viên chỉ có một số rất ít nói được theo cách
riêng của mình.
Trên thực tế dạy học Tiếng Việt và đánh giá học sinh theo thông tư
22/2016/TT- BGDĐT, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức hoạt
động luyện nói trong giờ học Tiếng Việt cho học sinh lớp 2. Các em chưa mạnh
dạn, tự tin khi nói hoặc chưa thể diễn đạt được nội dung cần nói (do vốn kĩ năng
ngôn ngữ còn ít). Vì vậy, để nâng cao hiệu quả dạy học Tiếng Việt, phát huy
quan điểm dạy học Tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp cần phải có những
biện pháp cụ thể để tổ chức hoạt động luyện nói cho học sinh ngay trong giờ
học Tiếng Việt. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm rèn kĩ

năng nói cho học sinh lớp 2 trong môn Tiếng Việt” để trao đổi với các bạn
đồng nghiệp giúp cho công tác giảng dạy trong nhà trường ngày một tốt hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trước hết, bản thân tìm ra những biện pháp phù hợp nhằm giúp trẻ mạnh
dạn hơn trong giao tiếp, tiếp đó là rèn cho học sinh những kĩ năng, thói quen
dùng lời nói biểu cảm trong giao tiếp, cũng như sự bày tỏ quan điểm nhận thức
của bản thân. Trước những vấn đề mà các em phải tự bộc lộ qua những lời nói,
lời phát biểu, trả lời các câu hỏi theo nội dung bài học, khả năng giao tiếp với
mọi người xung quanh ở trường, ở lớp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:

- Biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trong môn Tiếng Việt.
2/22


1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết:
Sử dụng phương pháp này khi nghiên cứu các tài liệu nói về vấn đề dạy
học Tiếng Việt, nghiên cứu các bài viết, công trình nghiên cứu trên tập san, tạp
chí,... có liên quan đến đề tài để làm cơ sở cho việc điều tra thực trạng.
2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin bằng các câu
hỏi phỏng vấn:
- Giáo viên trực tiếp giảng dạy khối 2.
- Học sinh khối 2.
3. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu:

3/22


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của skkn.
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính
thức của cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Bởi thế, dạy Tiếng
Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và trong đời sống
của mỗi con người. Mục tiêu của chương trình Tiếng Việt tiểu học ngoài việc
cung cấp kiến thức Tiếng Việt và thái độ, tình yêu Tiếng Việt còn phải giúp học
sinh giao tiếp tốt trong môi trường hoạt động lứa tuổi. Vì thế việc sử dụng từ
ngữ đúng, nắm rõ vào hoạt động giao tiếp qua đó bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt
và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt.
Ngày xưa, ông bà ta rất coi trọng việc giao tiếp, ngôn ngữ, lời nói là trao
đổi thông tin, đóng vai trò biểu hiện tình cảm, qua lời nói thể hiện văn hoá, tính

nết của con người. Do vậy cần phải giáo dục, rèn luyện lời nói của các em ngay
từ nhỏ, từ các lớp đầu cấp Tiểu học để sau này các em có thói quen cư xử đúng
mực, lịch sự trong khi giao tiếp. Ông cha ta thường răn dạy con cháu qua các
câu ca dao, tục ngữ như: “ Học ăn, học nói, học gói, học mở”; “ Lời nói khơng
mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lịng nhau”. Hay câu: “ Chim khơn kêu
tiếng rảnh rang, Người khơn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”. Ngoài ra, việc giao
tiếp ứng xử khéo léo cũng giúp ta thành công trong nhiều lĩnh vực và trong
công việc.
2.2. Thực trạng.
2.2.1. Về giáo viên:

Trong nhiều năm qua tôi thấy đa số giáo viên đã nắm bắt được tầm quan
trọng của việc dạy Tiếng Việt cho học sinh và có sự đầu tư nghiên cứu đổi mới
phương pháp giảng dạy bước đầu có hiệu quả. Tuy nhiên, giáo viên còn gặp
nhiều khó khăn trong khi dạy. Qũy thời gian dành cho các phân môn của Tiếng
Việt còn hạn chế. Qua thực tế tôi thấy việc rèn cho học sinh thực hiện đúng về
nghi thức lời nói cũng như viết đoạn văn tốt chưa được giáo viên chú tâm nhiều.
Một số giáo viên chưa nắm rõ ý đồ, nội dung các bài tập đưa ra, phương pháp
4/22


dạy học còn đơn điệu, rập khuôn máy móc theo sách giáo viên, hầu như ít sáng
tạo, chưa linh hoạt, chưa cuốn hút được học sinh. Giáo viên chưa quan tâm đến
sửa câu, cách dùng từ đặt câu. Từ đó dẫn đến học sinh tiếp thu bài một cách thụ
động, ít sáng tạo. Bên cạnh đó giáo viên chưa tập chung tìm hiểu về đặc điểm
tâm sinh lí, môi trường sống của học sinh, chưa thật sự thông cảm với những
khó khăn mà học sinh gặp phải nên khi tiến hành hỏi đáp chỉ yêu cầu những học
sinh nói hay hoặc hay trả lời. Không mấy quan tâm đến những học sinh ít nói,
nghèo nàn về ngôn ngữ, vì sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời
gian. Vấn đề này vô tình giáo viên đã làm cho những học sinh rụt rè ngày càng

trở nên nhút nhát hơn.
2.2.2. Về học sinh:
`

Những năm gần đây tôi luôn được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp

2. Trong quá trình dạy Tiếng Việt, tôi nhận thấy đa số học sinh có hứng thú
trong giờ học, song chủ yếu tập chung vào các bài tập đọc, bài làm miệng với
các yêu cầu học sinh cần diễn đạt bằng lời nói tôi thấy học sinh còn lúng túng.
Mặc dù học sinh đã có vốn từ vựng nhất định và nắm được một số quy tắc giao
tiếp trước khi đến trường Tiểu học nhưng các em còn mắc nhiều lỗi phát âm
(thanh điệu, phụ âm đầu, phần vần, âm cuối). Lỗi dùng từ, cách thể hiện nét
mặt, cử chỉ, điệu bộ khi thể hiện lời nói. Ngôn ngữ của học sinh mang bản sắc
địa phương, nhiều em còn bỡ ngỡ, lúng túng khi thực hiện hoạt động nói. Đặc
biệt là khi nói theo chủ đề, nói về một nội dung nhất định. Các em gặp khó khăn
khi lựa chọn từ ngữ, sắp xếp từ ngữ đó thành câu và sắp xếp các ý cần nói. Vì
vậy, các em chưa chủ động nói mà chỉ nói khi được hỏi (trả lời câu hỏi). Học
sinh lớp 2 chưa có vốn từ phong phú, chưa sử dụng từ linh hoạt, việc nắm nghĩa
của từ còn hạn chế. Việc vận dụng từ ngữ để đặt câu, tạo đoạn còn chưa linh
hoạt, các ý cần nói chưa có sự chọn lọc và sắp xếp theo một trật tự từ lô gíc hợp
lí. Vì vậy, các em thường nói tự do, nói không đủ câu, đủ ý, diễn đạt chưa mạch
lạc, thường ngắc ngứ, lúng túng, bế tắc khi trình bày một vấn đề khó, cần huy

5/22


động vốn từ lớn. Các em nói tự do theo suy nghĩ của mình, không chú ý tới cách
thức nói, nghi thức nói và nội dung, mục đích của mình.
Hơn nữa tâm lý của các em học sinh lớp 2 thường nhút nhát, không tự tin,
sợ sệt khi giao tiếp với bạn bè, thầy cô, trước những nơi đông người. Điều đó

dẫn đến hiệu quả giao tiếp bị hạn chế. Trước tình hình đó vào đầu tháng 9 năm
học ………tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng để tìm biện pháp khắc phục
những tồn tại trên.

* Kết quả khảo sát phần luyện nói trong mơn Tiếng Việt:

Sĩ
Lớp Sớ

HS nói đúng, Học sinh nói

HS hiểu nợi Học

nói hay (nói có trơi trảy, rõ

dung câu hỏi không đủ

kèm theo ngữ ràng, diễn đạt

nhưng trả lời đủ ý, diễn đạt

điệu, có cử chỉ, được nợi dung còn
điệu bộ)

2B

ngượng cịn

ngùng


sinh

nói
câu,

ngắc ngứ,

lúng túng.

SL

TL(%)

SL

TL(%)

SL

TL(%)

SL

5

16,6

8

26.7


9

30

8

TL(%)

30
26,7

Qua khảo sát cho thấy số học sinh nói đúng, nói hay, nói trôi chảy chưa
nhiều mà số học sinh diễn đạt câu còn ngắc ngứ, lúng túng còn cao. Từ thực tế
giảng dạy, để khắc phục tình trạng trên tôi xin trình bày một số biện pháp cụ thể
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học Tiếng Việt.
2.3 Các biện pháp thực hiện.
Biện pháp 1: Phân nhóm học sinh.
Ở biện pháp này tôi sử dụng phương pháp quan sát, thu thập thông tin, tôi
đã xử lí những thông tin ấy bằng cách phân tích, tổng hợp với những biện pháp
thực hiện sau:
Tôi tiến hành phân chia học sinh theo các nhóm:

6/22


Nhóm 1: Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, mạch lạc, khi giao tiếp biết thể hiện
lời nói biểu cảm, lịch sự. Những học sinh này tôi phân làm nhóm trưởng của các
nhóm trong lớp, những nhân vật nòng cốt trong các tiểu phẩm của các tiết Tiếng
Việt mà học sinh rèn luyện kĩ năng nói trên lớp. Những em này là người dẫn

chương trình trong các giờ luyện nói.
Nhóm 2: Nhóm học sinh có lời nói tương đới rõ ràng, trôi chảy, lịch sự nhưng
chưa thể hiện được lời nói tình cảm trong giao tiếp.
Nhóm 3: Nhóm học sinh nhút nhát, ngại giao tiếp, khả năng giao tiếp còn lúng
túng, ít khi sử dụng lời nói lịch sự, tình cảm trong giao tiếp, nói năng cộc lốc,
chưa diễn đạt trọn ý, trọn câu.
Ví dụ: Trong tiết kể chuyện: Chuyện bốn mùa (Tiếng Việt, tập 2 - Trang 6)
- Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh:
+ Phân vai theo từng nhân vật.
- Người dẫn chuyện: Chọn học sinh nhóm 1.
- Các nhân vật: Xuân, Hạ, Thu, Đông chọn học sinh ở nhóm 2 hoặc
nhóm 3.
- Giáo viên gọi từng nhóm lên thực hiện nhiệm vụ của mình.
Biện pháp 2: Giúp học sinh luyện nói thơng qua hệ thống bài tập.
Với biện pháp này, học sinh thường xuyên được thực hành luyện
tập “nói” trong tất cả các tiết học Tiếng Việt. Chính vì vậy khả năng giao tiếp
của các em ngày càng được hoàn thiện. Việc “nói” sao cho trôi chảy, mạch lạc,
lời văn thể hiện biểu cảm rõ ràng, từ đó giáo viên đánh giá một cách chính xác
khả năng học tập của học sinh. Chính vì vậy tôi đã xây dựng hệ thống bài tập
rèn kĩ năng nói cho học sinh dựa trên hệ thống nguyên tắc.
Khi xây dưng hệ thống bài tập cần phải đảm bảo tính hệ thống. Bài tập
được xây dựng theo hướng chú ý khai thác phát huy vốn ngôn ngữ và kinh
nghiệm giao tiếp đã có của học sinh. Nội dung bài tập được xây dựng thể hiện
yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học, tức là hệ thống bài tập được xây dựng

7/22


và sử dụng dựa trên lí luận dạy học hiện đại - dạy học hướng vào hoạt động của
người học.

Để tham gia vào hoạt động giao tiếp tốt thì học sinh cần phải nghe, nói
tốt. Trong giao tiếp cần rèn luyện kĩ năng nói phát âm chuẩn, nói trong các tình
huống giao tiếp cụ thể, nói dựa theo câu hỏi định hướng hoặc trả lời câu hỏi, nói
theo nội dung bài học.
Trường hợp 1: Loại bài tập luyện phát âm theo chuẩn.
Ở phần này, giáo viên chú ý đối tượng học sinh phát âm chưa chuẩn các
từ tiếng khó cần rèn đọc trong phần luyện đọc ở tiết1. Lập danh sách những học
sinh phát âm chưa chuẩn để rèn cho các em trước hết phải phát âm đúng, chính
xác, từ đó các em mới bình tĩnh, tự tin phát biểu hay đưa ra những ý kiến riêng
của bản thân, lời nói trong giờ luyện nói mới có thể tự nhiên, trong sáng.
Cụ thể tôi lựa chọn các loại âm, vần địa phương thường phát âm sai
chuẩn trong từng bài tập đọc để học sinh luyện phát âm thật đúng và chính xác.
Điều quan trọng ở đây chính là bản thân giáo viên phải là người phát âm chuẩn
và chính xác. Đa số học sinh trong lớp 2B do tôi làm chủ nhiệm các em thường
phát âm sai ch/ tr, x/s, r/d, các nguyên âm đôi, phát âm sai thanh hỏi, thanh ngã.
Do đó trong phần yêu cầu luyện đọc từ khó ở tất cả các bài tập đọc tôi luôn
quan tâm lựa chọn những từ ngữ có âm đầu ch/tr, x/s, r/ d, các nguyên âm đôi
và từ ngữ có chứa thanh hỏi, thanh ngã để học sinh luyện đọc nhiều. Bên cạnh
đó, tùy theo nội dung của bài học giáo viên đưa ra những trò chơi giúp hoạt
động vừa học vừa vui chơi thoải mái.
Ví dụ: Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi Thi đọc nhanh và đúng câu có
âm đầu, vần, thanh dễ lẫn. Giáo viên tự nghĩ ra hoặc sưu tầm một số câu thơ,
câu văn có những âm đầu, vần, thanh dễ đọc, viết lẫn lộn (do cách phát âm của
địa phương) rồi ghi vào mảnh giấy “ làm đề bài” thi đọc trong nhóm. Lần lượt
từng học sinh lên bốc thăm và đứng lên đọc to bài trước lớp, cả lớp nghe và đại
diện một số học sinh đánh giá kết quả đọc của bạn theo tiêu chuẩn: đọc nhanh,
phát âm đúng. Giáo viên nhận xét, tuyên dương bạn đọc tốt.
8/22



Ví dụ minh họa:
1. Đọc phân biệt các âm đầu dễ lẫn:
a. Phân biệt ch/ tr.
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm.
b. Phân biệt x/s.
Nhìn lên bầu trời đầy sao sáng, anh bộ đội biên phòng lại xôn xao nhớ
đến những người thân ở quê.
c. Đọc phân biệt các tiếng có thanh dễ lẫn( thanh hỏi, thanh ngã).
Kẽo cà kẽo kẹt
Bé Giang ngủ rời
Tóc bay phơ phất
Vương vương nụ cười.
Trường hợp 2: Loại bài tập tình huống
Đây là loại bài tập để luyện tập các nghi thức lời nói và phát triển ngôn
ngữ nói. Trong chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 2 đã tạo điều kiện cho
học sinh được thực hành rất nhiều loại bài tập này. Trong các phần luyện nói ở
các bài học Tập đọc-kể chuyện và Tập làm văn, Luyện từ và câu học sinh được
chơi đóng vai, đóng kịch kể lại theo từng chủ điểm của bài học, học sinh được
tham gia chơi đóng vai ông bà, cha mẹ và các cháu nhỏ, người bán hàng, người
mua hàng... để luyện tập các nghi thức của lời nói (chào hỏi khi gặp mặt, chia
tay, nói lời cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu đề nghị một việc gì đó...) Hoạt động này là
một cách luyện tập phát triển ngôn ngữ qua hình thức vừa chơi vừa học, vừa
phát triển ngôn ngữ nói, vừa giáo dục tác phong văn minh, lịch sự. Để giờ luyện
nói đạt kết quả tốt, giáo viên cần dành thời gian nghiên cứu nội dung bài luyện
nói để đưa ra những câu hỏi dẫn dắt sao cho phù hợp với nội dung bài cũng như
phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. Ngoài ra, giáo viên nên lưu ý
9/22



thái độ của học sinh khi nói với từng đối tượng là lớn hơn mình, bằng mình
hay nhỏ hơn mình thì có những đại từ xưng hô khác nhau và những cử chỉ
thể hiện khác, tùy tình huống vui hay buồn.
Khi nói lưu ý học sinh nên thể hiện cử chỉ tình cảm để câu nói thể
hiện sự lễ phép, lịch sự.
Mặt khác giáo viên không chỉ dạy cho học sinh thực hành giao tiếp
trong tiết học mà còn phải giáo dục các em mọi lúc, mọi nơi trong cuộc
sống hàng ngày với một thời gian dài.
Điều quan trọng hơn nữa là giáo viên cần cho các em nắm rõ tình
huống vì khi nói các em hay lầm lẫn giữa lời đáp và lời nói.
Ví dụ: Em nói thế nào khi bạn xin lỗi em vì bạn đã làm bẩn áo em. Các
em có thể bị lầm và nói là: - Xin lỗi bạn vì tớ lỡ làm bẩn áo bạn. Nguyên
nhân là do các em chưa đọc kĩ đề, sự suy xét của các em còn non nớt. Bởi
vậy, giáo viên cần tập cho các em đọc kĩ đề bài. Đặt mình vào tình huống
của đề bài, cùng sắm vai theo tình huống đó. Có vậy các em mới không bị
lầm lẫn. Và em có thể đáp lại lời xin lỗi của bạn là: "Không sao đâu, tớ sẽ
nhờ mẹ tớ giặt là sạch ngay thôi mà."
Với dạng bài nói và đáp lời khẳng định, phủ định có lẽ tương đới dễ
với các em, các em chỉ cần nói có hoặc khơng. Tuy nhiên, giáo viên cần
giải thích cho các em thuật ngữ khẳng định, phủ định. Vì nếu không giải
thích, các em chỉ làm theo mẫu trong sách giáo khoa thì không thể phát huy
được tính tích cực, chủ động của học sinh. Còn nếu ta giải thích thì khi vừa
gặp dạng bài tập này các em sẽ nói, đáp tốt hơn. Bởi vậy giáo viên cần cho
các em thực hành sắm vai và cần lưu ý tình cảm thể hiện qua thái độ.
Ví dụ: Khi đáp lời khẳng định thì thể hiện sự vui mừng, đáp lời phủ định
thể hiện sự tiếc nuối. Có thế thì người nghe mới hiểu được tình cảm của
mình.


10/22


Khi hướng dẫn học sinh thực hành về các nghi thức lời nói phải kết hợp cả cử chỉ, thái
đợ,
tình
cảm.
Chính
vì
vậy
trong
quá
trình
giảng
dạy
tơi

THƠNG TIN HỎI ĐÁP:
-------------------------Bạn cịn nhiều thắc mắc hoặc ḿn tìm kiếm thêm nhiều tài liệu sáng kiến kinh
nghiệm mới mẻ khác của Trung tâm Best4Team
Liên hệ dịch vụ viết thuê sáng kiến kinh nghiệm
Hoặc
qua
SĐT
Zalo:
091.552.1220
hoặc
email:



để hỗ trợ ngay nhé!

11/22



×