Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Đề tài : "Con người - mục tiêu động lực của quá trình đổi mới" potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.42 KB, 14 trang )

1
Người thực hiện: Đỗ Huy Hoàng
Lớp: Điều khiển và Tự động hoá
Cao học khoá 2006-2008
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài : Con người - mục tiêu động lực của quá trình đổi mới
HÀ NỘI 2006
Đặc điểm lớn nhất của nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ là một
nước nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Mà đổi mới là
qui luật khách quan trong tiến trình phát triển của tất cả các nước chưa thoát
khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu muốn tạo ra một cơ sở vật chất – kỹ
thuật hiện đại, bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh, đồng bộ và bền
vững nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân
dân, Là mục tiêu của quá trình đổi mới. Chính vì vậy, Đảng ta xác định:
“Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, thực hiện công nghiệp hoá
XHCN là nhiệm vụ trung tâm trong một thời kỳ quá độ đi lên CNXH ”.
Do vậy, để đổi mới thành công chúng ta cần tranh thủ thành tựu khoa
học của thời đại, song chủ yếu vẫn phải đi lên bằng nội lực, bằng sức mạnh
trí tuệ, tài nguyên con người của chính mình. Chúng ta đang nói nhiều đến
con đường phát triển rút ngắn, đến “đi tắt”, “đón đầu”, đến việc lựa chọn,
đột phá vào các ngành công nghiệp mũi nhọn để nhanh chóng đuổi kịp các
nước trong khu vực ở thế kỷ XXI. Đó là mục tiêu, mơ ước, nhưng đi đến đó
bằng con đường nào, giải phóng bằng con đường nào, giải pháp nào, có thực
hiện được hay không, vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nhân tố con người.
Công cuộc đổi mới của nước ta trong tầm nhìn 2020, đề cập đến vấn đề
con người, Đảng khẳng định :
Quan điểm phát triển bền vững nhằm loại bỏ nguy cơ hy sinh nền tảng
tự nhiên cơ bản của đời sống xã hội (môi trường thiên nhiên) để đổi lấy tốc
độ tăng trưởng kinh tế, và chạy theo những giá trị vật chất mang tính kinh tế


thuần tuý mà đánh mất những giá trị nhân văn cao cả dẫn tới suy thoái đạo
đức và giá trị văn hoá;
2
Quan điểm đầu tư cho con người, phát triển con người và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực là hai nội dung chính của quan điểm đầu tư cho
con người trong cách đặt vấn đề chung về hình ảnh xã hội Việt Nam năm
2020.
Có thể nói : Đổi mới là thực hiện tiến bước lên CNXH, về mặt sản xuất đó là
quá trình CNH – HDH. Con người là yếu tố trung tâm của quá trình đổi mới.
Đại hội VIII của Đảng cũng đề ra mục tiêu quá trình đổi mới từ nay
đến năm 2020 là “Ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp. Lực lượng sản xuất lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại,
phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc,
điện khí hoá cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng suất lao động XH và
hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay. Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) tăng từ 8 đến 10 lần so với 1990” và “Về đời sống vật
chất và văn hoá, nhân dân có cuộc sống no đủ …có quan hệ XH lành mạnh,
lối sống văn minh…”
Như vậy, CNH-HĐH đất nước trước hết là quá trình thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội. Chiến lược này không thể tách rời với chiến
lược phát triển con người. Hay nói cách khác, để thực hiện thắng lợi chiến
lược KT -XH thì phải thực hiện chiến lược phát triển con người. Hai chiến
lược này không thể tách rời nhau mà chúng là một nội dung thống nhất của
cùng một quá trình phát triển đất nước.
Mặt khác, nước ta đi lên CNXH từ một XH nông nghiệp lạc hậu. Điều
đó có nghĩa là điểm xuất phát của CNH -HĐH nước ta rất thấp. Thể hiện ở
lực lượng sản xuất và năng suất lao động thấp, kết cấu hạ tầng yếu kém;
trình độ khoa học công nghệ lạc hậu; khả năng về vốn lại hạn chế…Do vậy,
3
quá trình CNH -HĐH phải biết huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn

lực trong và ngoài nước, mà trước hết là nguồn lực con người.
Sở dĩ như vậy vì trong một quốc gia, một dân tộc, bên cạnh nguồn lực
con người còn có nhiều nguồn lực khác làm cơ sở cho việc tiến hành CNH,
HĐH đất nước: tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, vốn, công nghệ…
Nhưng những nguồn lực này có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có con người,
đặc biệt là nguồn tri thức của họ, là nguồn lực có khả năng tái sinh và tự sinh
sản là không bao giờ cạn kiệt. Rõ ràng, con người là một nguồn lực chủ yếu,
lâu bền nhất của sự phát triển nói chung và của CNH -HĐH. Các nguồn lực
khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả nếu không có những con người có
đủ khả năng sử dụng và khai thác chúng.
Hiện tượng Nhật bản và các nước nhóm NIC là những dẫn chứng sinh
động và xác thực cho việc nhận thức về vai trò quyết định của nguồn lực con
người trong quá trình CNH -HĐH đất nước. Hay nói một cách khác, những
nước này đã biết coi trọng yếu tố con người theo đúng nghĩa của nó, coi nó
là nguồn lực lớn nhất của mọi nguồn lực. Nếu không sẽ không có con người
Nhật bản với những giá trị văn hoá và truyền thống tốt đẹp, nếu không có
chính sách sử dụng tốt nhất nguồn lực con người của Chính phủ Nhật thì dù
có viện trợ 6 tỷ USD hay nhiều hơn nữa thì Nhật cũng không thể từ một
nước tàn lụi sau chiến tranh thế giới lần thứ II đã vươn lên thành một vương
quốc kinh tế như hiện nay. Còn sự thành công của CNH -HĐH ở các nước
nhóm NIC là do có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng một trong những
nguyên nhân giống nhau của các nước đó là trong các chiến lược phát triển,
họ đặc biệt chú trọng chiến lược con người, văn hóa, kỹ thuật, coi đó là chìa
khoá của sự cất cánh.
Tóm lại, xuất phát từ mục tiêu của CNH -HĐH, từ đặc điểm thực tiễn
của nước ta cũng như những bài học kinh nghiệm của các nước trong khu
4
vực đã tiến hành CNH -HĐH thành công thì yếu tố con người cần được đặt
ở ví trí hàng đầu hay con người là yếu tố trung tâm của quá trình CNH
-HĐH đất nước.

Như chúng ta đều biết con người luôn đóng vai trò chủ thể của sự vận
động phát triển lịch sử. Vì vậy mà Đảng ta luôn xác định con người Việt
Nam vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Ngay từ Đại hội lần thứ III năm 1960 Đảng ta đã khẳng định “con
người là vốn quý nhất” Đại hội IV năm 1976 Đảng ta đưa ra luận đIểm về
“con người mới con người làm chủ tập thể”. Đến kỳ Đại hội VI, VII, VIII
trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta luôn khẳng định: “Lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững”.
Điều đó cho thấy, tư tưởng quan điểm của Đảng ta về vai trò của nhân
tố con người là nhất quán. Tuy nhiên trong thực tế không phải thời kỳ nào
chúng ta cũng thực hiện tốt tư tưởng ấy. Trước đổi mới, chúng ta xem xét
đánh giá con người, xây dựng chủ trương chính sách để phát huy nhân tố
con người trước thềm thế kỷ XXI cho thấy không thể ngẫu nhiên cho rằng
phương Đông hay phương Tây nhận thức về con người sâu sắc hơn, dù rằng
trong lịch sử nhận thức có mọt số tác giả cũng như có một và trào lưu như
KhổngTử và Lão Tử ở Trung Quốc cổ đại, Xôcrat và arixtot ở Hy Lạp cổ
đại… hay Frơt và các tác giả hiện sinh chủ nghĩa thời đại …hay luận nhiều
hơn, chuyên biệt hơn về con người và đi vào những khía cạnh tinh tế hơn
trong đời sống con người. Chính vì vậy mà vấn đề nhận thức về con người
cần được lưu tâm một cách hoàn chỉnh.
Cần khẳng định Việt Nam là nước có nguồn lực dồi dào. Đó là điều
kiện hết sức cần thiết cho quá trình CNH và HĐH. Có thể nói nguồn lực lao
động của Việt nam dồi dào được thể hiện ở nội dung cơ cấu dân số nước ta
5
là cơ cấu dân số trẻ, số lượng người trong độ tuổi lao động đông đảo. Nhưng
nguồn lực con người dồi dào đó được sử dụng chưa hết công suất và chưa có
hiệu quả. Điều đó phụ thuộc vào cơ cấu của nền KT và số lượng việc làm
cho người lao động. Theo kết quả điều tra dân số gần đây, nước ta vẫn là
nước nông nghiệp với 77% dân số trong nông nghiệp, nông thôn và 23%

sống ở thành thị. Với một nước nông nghiệp như vậy, nhu cầu việc làm trở
nên hết sức cấp bách.
Trên thực tế, bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới khi bước vào quá
trình CNH đều phải đặt ra nhiệm vụ giải quyết việc làm cho người lao động.
Việt Nam cũng hoàn toàn không nằm ngoài quỹ đạo đó. Bởi vì để sử dụng
và khai thác được nguồn lực tự nhiên, nguồn lực con người và các nguồn lực
khác thì trước hết cần phải thu hút một cách tối đa nguồn lực con người vào
quá trình lao động, sản xuất. Mặt khác, tất cả các nguồn lực khác đều bị hao
mòn và hầu như không có khả năng tái sinh trong quá trình sử dụng, nhưng
riêng nguồn lực con người, xét ở khía cạnh nào đó, càng được sử dụng, càng
được tái sinh, bồi bổ nâng cao về mặt chất lượng. Điều đó có nghĩa rằng, khi
con người được tham gia vào quá trình sản xuất thì những tri thức, kinh
nghiệm của họ ngày càng được tích luỹ và hoàn thiện thêm.
Tuy nhiên, ở đây cần phải nhìn thẳng vào sự thật. Bên cạnh bản chất
tốt đẹp và những tiến bộ lớn về nhiều mặt, con người Việt Nam hiện nay vẫn
còn có những hạn chế và thói quen do nền sản xuất nhỏ lâu đời để lại, những
ảnh hưởng của cách làm ăn tản mạn, bảo thủ trì trệ, thiếu đầu óc tổ chức.
Trong những năm gần đây, các nhân tố tiêu cực trong xã hội đang làm xói
mòn phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam mà Đảng đã dầy công vun
đắp. Trong một bộ phận thế hệ thanh niên ngày nay, đang xuất hiện những
hiện tượng thoái hoá về tinh thần và thể lực rất đáng lo ngại.
Con người Việt nam là những cá thể sống trong điều kiện môi trường
nhiệt đới, trải qua một thời gian dài sống và làm việc theo hình thức sản xuất
6
nông nghiệp trồng lúa nước theo kiểu làng xã nên cũng có những đặc điểm
riêng :
• Truyền thống dân chủ làng xã dẫn đến tư tưởng cục bộ dòng họ, bình
quân chủ nghĩa thiếu tinh thần tự giác khi dư luận cộng đồng không
còn được coi trọng nên dễ hành động tự do, tuỳ tiện coi thường luật
pháp.

• Tập quá sản xuất tiểu nông dẫn đến khả năng hạch toán kinh tế kém
cỏi, nặng về lợi ích trước mắt, thiếu chuẩn xác về thời gian thích bình
quân, chấp nhận sự phân hoá trong cuộc sống.
• Đề cao thái quá tính kinh nghiệm
Muốn xây dựng thành công XHCN nhất thiết phải có những con
người có học vấn ngày càng cao. Người lao động là bộ phận quyết định của
lực lượng sản xuất ở nước ta, là người chủ của XH mới, muốn đảm đương
được sứ mệnh đó, họ phải có tri thức về mọi mặt. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Muốn xây dựng CNXH nhất định phải có học thức. Cần phải học tập văn
hoá, chính trị, kỹ thuật”. Người nhấn mạnh: “Trình độ văn hoá của nhân dân
nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục KT, phát triển dân
chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để
xây dựng nước ta thành một nước hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh ’’.
Hồ Chí Minh nêu lên mối quan hệ biện chứng khăng khít giữa trình
độ văn hoá với khả năng tiếp cận và khả năng sử dụng có hiệu quả máy móc,
kỹ thuật của người lao động. Thành tố văn hoá là cơ sở quan trọng để người
lao động nắm được tiến bộ khoa học, công nghệ, cho nên họ phải không
ngừng nâng cao trình độ học vấn, tiếp thu ngày càng nhiều hơn tri thức văn
hoá nhân loại. Là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất trong lực lượng sản
xuất, trong dây truyền công nghệ, người lao động nhất thiết phải có tri thức
văn hóa, khoa học và tay nghề cao để làm chủ quá trình sản xuất. Máy móc
thiết bị ngày càng tinh xảo, hàm lượng chất xám trong sản phẩm ngày càng
cao thì trình độ văn hóa KH, kỹ thuật và cũng như tay nghề của người lao
7
động phải được nâng lên tương ứng, hơn nữa phải đi trước một bước. Xây
dựng con người Việt nam đáp ứng của giai đoạn cách mạng hiện nay là
nhiệm vụ tối quan trọng, mỗi cá nhân cần có những phẩm chất chính trị và
phẩm chất cá nhân :
• Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn và lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu
tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
• Có ý thức tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung.
• Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa tôn trọng kỷ cương .
• Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo
năng suất cao vì lợi ích bản thân gia đình và tập thể.
• Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết , trình độ chuyên môn,
trình độ thẩm mĩ và thể lực
Về nguồn lực con người, nhân tố đầu tiên có ý nghĩa quyết định thành
công của CNH -HĐH là cần hình thành một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý giỏi, có trình độ khoa học lao động cao, tầm tư duy chiến lược vững vàng,
có trí tuệ sáng suốt để hoạch định đường lối, chính sách đúng đắn, biết lựa
chọn giải pháp, bước đi phù hợp; có tính năng động sáng tạo trong tổ chức
thực hiện, biết kịp thời điều chỉnh và giải quyết mâu thuẫn trong quá trình
triển khai thực hiện, nhất là biết ứng phó thành công trước mọi biến động,
rủi ro từ bên ngoài tác động vào.
Bên cạnh đó nhân tố không kém phần quyết định là đội ngũ các cán
bộ khoa học, công nghệ có trình độ cao (cả về khoa học cơ bản và khoa học
ứng dụng) những người tiếp cận và làm chủ được thành tựu khoa học công
nghệ hiện đại của TG, từ đó có thể tạo ra những thành tựu mới tiên tiến, góp
phần tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu KT, đẩy mạnh sản xuất vật
8
chất và sản xuất tinh thần của XH. Phải tạo ra được một đội ngũ cán bộ khoa
học đầu ngành có trình độ cao mới thúc đẩy được sự phát triển của nền khoa
học còn non trẻ của nước nhà, mới ĐT bồi dưỡng được một thế hệ cán bộ
khoa học mới, và chính đội ngũ này sẽ đảm bảo về cơ sở khoa học cho việc
hoạch định đường lối, chính sách và khả năng dự báo xu hướng triển vọng
cũng như nguy cơ, hậu quả có thể xảy ra.

Đội ngũ đông đảo những người lao động đã qua đào tạo, có văn hoá
lao động công nghiệp, phẩm chất đạo đức tay nghề cao, năng lực sử dụng
hiệu quả thông tin, thích ứng nhanh với sự phát triển của XH thông tin và
XH quốc tế hoá, có lương tâm trách nhiệm đối với sản phẩm làm ra, tinh
thần yêu nước và tự hào dân tộc, ý chí vươn lên không cam chịu lạc hậu, đói
nghèo; có sức khoẻ dẻo dai về thể chất và tinh thần để lao động trong đIều
kiện cạnh tranh dữ dội với các nền KT trong khu vực là không thể thiếu.
Những nhân tố trên cho thấy, tất yếu phải đầu tư cho phát triển GD và
ĐT nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yêu cầu cơ bản trong sự
nghiệp nước ta hiện nay. Để khai thác và phát huy có hiệu quả tiềm năng
con người, cần có nguồn nhân lực có chất lượng cao trên các mặt văn hoá,
XH, chuyên môn, nghiệp vụ và tri thức khoa học …Trong tất cả các chính
sách biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì GD -ĐT có ý
nghĩa hơn cả. Bởi lẽ, một mặt GD -ĐT góp phần nâng cao trình độ nhận
thức chung cho con người trên mọi lĩnh vực; mặt khác, sau khi được ĐT,
quan niệm về giá trị nguồn lao động sẽ được đổi mới, tính kỷ luật, ý thức
của họ được nâng cao.
Với ý nghĩa đó, GD-ĐT được coi là tiền đề và là cơ sở chủ yếu để
nâng cao hiệu quả sử dụng và phát triển nguồn nhân lực. Thực tế cũng cho
thấy những nước phát triển được đều do biết áp dụng chính sách giáo dục
một cách hợp lý. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ quan điểm về
9
tiến hành CNH -HĐH thì đầu tư GD chính là đầu tư cho phát triển, vì đó là
động lực để tăng trưởng KT. Phát triển tốt giáo dục sẽ cung cấp cho nền KT
một đội ngũ lao động có tay nghề giỏi, có trí tuệ cao, thông minh, có tài
năng thực sự. Để cho giáo dục trở thành một động lực của tăng trưởng KT
thì từng bước đổi mới, hoàn thiện mô hình GD. Sự đổi mới đó phải được
tiến hành đồng bộ ở các mặt: quy mô giáo dục, hình thức giáo dục, nội dung,
cách tổ chức và quản lý giáo dục. Khi giáo dục trở thành một động lực tăng
trưởng kinh tế thì ngân sách GD không còn là một gánh nặng cho XH nữa

mà trái lại là điều kiện thúc đẩy XH phát triển cao.
GD-ĐT phải được mang tính chất xã hội hoá cao, luôn luôn được coi
là sự nghiệp của toàn dân. Giáo dục mang tính chất XHCN là cộng đồng
(nhất là các tổ chức XH, các doanh nghiệp cá nhân, gia đình…) đều phải có
trách nhiệm quan tâm đóng góp sức lực, trí tuệ, tiền của…để phát triển GD.
Cần gấp rút tạo nhân tài nhằm phát huy trí tuệ đáp ứng cho CNH -HĐH. Để
tạo được nhân tài, trước hết phải tập trung ưu tiên đầu tư cho xây dựng và
phát triển các cơ sở ĐT có chất lượng cao.
Quán triệt những quan đIểm có tính chất triết lược, trước yêu cầu của
CNH, HĐH đất nước, với sức ép về nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa so với các
nước trong khu vực, trước yêu cầu phát triển đổi mới KT–XH vai trò nhân tố
con người ở Việt Nam đang đứng trước những thử thách lớn. Điều này đặt ra
trước mắt là nâng cao mặt bằng dân trí. Muốn làm được điều này trước hết
phải tăng tỷ lệ người biết chữ đồng thời xoá mù chữ ở vùng sâu, vùng xa.
Tập trung đào tạo hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên một cách thiết thực.
Chú trọng bồi dưỡng nhân tài. Nhân tài là hạt giống, là động lực của
sự phát triển và có tác dụng thúc đẩy sản xuất, kinh doanh quản lý. Vì vậy,
nó là động lực tạo nên các thế mạnh trong hợp tác và cạnh tranh quốc tế. Sẽ
rất thiệt thòi, lãng phí khi nhân tài không được sử dụng đó, không phát huy
được khả năng để phục vụ cho đất nước.
10
Muốn đạt được những mục tiêu trên không chỉ định hướng một cách
chung chung mà phải có các biện pháp, các giải pháp cụ thể. Trước mắt,
phải tăng ngân sách cho GD -ĐT và sử dụng nguồn ngân sách cho GD một
cách có hiệu quả. Song song với việc tăng ngân sách cho giáo dục và huy
động nguồn vốn trong dân là mở rộng qui mô và các hình thức GD - ĐT để
đáp ứng nhu cầu của ngươì học. Tuy nhiên, phải chú trọng hiệu quả và chất
lượng, không nên quá quan tâm đến hình thức. Nhà nước, các cấp, các ngành
phải có chính sách điều tiết một cách hữu hiệu để đảm bảo sự phát triển
đồng đều giữa các khu vực, các ngành học.

Nước ta trong thời kỳ CNH -HĐH có nhiều thuận lợi: Chúng ta có lực
lượng lao động đông đảo, cần cù chịu khó, nhưng nếu chỉ có nhiều và trẻ mà
không đủ trình độ văn minh nhất định thì không thể tiến hành thành công sự
nghiệp CNH, càng khó khăn khi tiến hành HĐH. Vì thế, đồng thời với việc
nâng cao trình độ văn minh khoa học kỹ thuật cho toàn dânV, vấn đề đặt ra
là: không ngừng nâng cao trình độ văn minh tinh thần. Văn minh tinh thần
chính là đạo đức, văn hoá truyền thống của nhân loại và dân tộc. Sự kết hợp
hài hoà văn minh nhân loại và văn hoá truyền thống dân tộc sẽ tạo nên nét
đẹp mới vừa phù hợp với tiến bộ văn minh của thời đại khoa học kỹ thuật,
vừa giữ gìn truyền thống quí báu của dân tộc ta.
Không chỉ giáo dục chính thống, để nâng cao trình độ lao động kỹ
thuật cho toàn người lao động thì việc dạy nghề cho công dân thất nghiệp và
cư dân nhàn rỗi cũng trở thành phương hướng quan trọng của chính sách
việc làm tích cực. Sự tác động ngày càng mạnh của tiến bộ kỹ thuật đến tình
trạng thất nghiệp và thiếu việc làm đã tạo ra áp lực đối với Nhà nước và
buộc Nhà nước buộc phải đứng ra điều tiết quan hệ cung - cầu lao động.
Việc áp dụng chế độ làm việc “mềm”như việc làm từng phần, chia nhau chỗ
làm việc, việc làm tạm thời …đã tác động gián tiếp đến sự tăng của tổng cầu
về sức lao động. Để điều tiết lượng cung cấp lao động trên thị trường, các
biện pháp thường được sử dụng là hạ thấp tỷ lệ sinh đẻ, giảm số sinh viên
11
tìm việc làm bằng cách mở rộng chương trình mở rộng giáo dục phổ thông,
dạy nghề …
Bên cạnh đó là thực hành dân chủ rộng rãi, phát huy quyền làm chủ và
ý thức làm chủ của người lao động - theo Hồ Chí Minh - là một phương tiện
hàng đầu để tích cực hoá nhân tố con người. Người nói: “Nhà nước ta phải
phát quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân để phát huy tính tích
cực và sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực
sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng CNXH ”.
Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng

thời là vốn quý để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho XH. Từ xưa đã có câu
châm ngôn: “Một tâm hồn lành mạnh chứa đựng trong một cơ thể cường
tráng”. Chính vì vậy, chăm lo cho con người về thể chất là toàn bộ trách
nhiệm của toàn XH, của tất cả các cấp các ngành, các đoàn thể. Trong báo
cáo chính trị Đại hội Đảng VIII, có viết: “song song với phát triển KT, chăm
lo cho việc ăn, ở của dân ngày càng tốt hơn, các ngành y tế, thể dục thể thao,
dân số và kế hoạch hoá gia đình phải làm tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ
nhân dân ”
Như vậy, mọi người đều phải được chăm sóc sức khoẻ. Đầu tư cho
sức khoẻ chính là đầu tư cho sự phát triển KT -XH của đất nước, đầu tư để
nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân và gia đình. Việc chăm sóc
sức khoẻ, giải quyết vấn đề bệnh tật theo quan điểm dự phòng tích cực và
trên tất cả các mặt ăn uống, môi trường, vệ sinh…Vậy để có một lực lượng
lao động cường tráng về thể chất, rõ ràng phải tăng cường công tác chăm sóc
và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân. Như vậy, chăm lo sức khoẻ cho người lao
động chính là nhằm bồi dưỡng về mặt thể lực cho người lao động. Ngoài ra,
khi con người lao động trở thành một bộ phận của sản xuất thì nó còn đòi
12
hỏi không chỉ ở thể lực mà còn về mặt trí lực, về tâm hồn và nhân cách con
người lao động.
Từ một nền sản xuất nhỏ lạc hậu, lao động phần lớn mang tính chất thủ
công, tiến thẳng lên CNXH, chúng ta không chỉ thiếu một cơ sở vật chất kỹ
thuật của CNXH - một nền công nghiệp sản xuất lớn hiện đại, mà còn thiếu
cả phong cách làm việc, tác phong công tác của con người lao động trong
nền sản xuất lớn. Bởi vậy, cần phải xây dựng cho được phong cách làm việc
khoa học, tác phong công tác của giai cấp công nhân - tác phong công
nghiệp. Ra quyết định thì phải có cơ sở khoa học, dựa vào kết quả của điều
tra nghiên cứu, tránh lề thói tùy tiện. Thực hiện quyết định thì phải có tổ
chức, có kế hoạch, có kỷ luật, có kiểm tra. Phong cách công tác mới phải coi
"kỷ luật lao động là then chốt của toàn bộ công cuộc xây dựng kinh tế của

CNXH".
Chúng ta đã chuyển từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế
tập trung, kế hoạch hóa tuyệt đối, với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư
duy quản lý mới thích ứng với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Theo đó, con người với tư cách vừa là chủ thể sản xuất – kinh
doanh, vừa là chủ thể tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa được đặt vào những
cơ hội như nhau để phát triển, được bộc lộ tài năng, được thử thách về trình
độ, năng lực, tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động kinh tế. Cơ chế thị
trường đòi hỏi sự thừa nhận cạnh tranh, dẫn tới sự chênh lệch thu nhập, sự
phân hóa giàu - nghèo. Đây là mặt trái của cơ chế thị trường. Vấn đề đặt ra
là phải có chính sách đúng đắn để cho cơ chế thị trường không dẫn tới sự
phân hóa giàu – nghèo vượt quá giới hạn cho phép, vi phạm mục tiêu công
13
bằng xã hội là mục tiêu mà chúng ta phấn đấu trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Con người là yếu tố quyết định mọi quá trình phát triển của lịch sử xã
hội loài người. Trong lịch sử, vai trò của con người đối với sự phát triển văn
hoá, văn minh nhân loại đã được C.Mác và F.Engen khẳng định: "Chính con
người, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình,
đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư
duy của mình. Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống
quyết định ý thức". Như vậy, con người là chủ thể của hoạt động lịch sử,
hoạt động lao động sản xuất, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người. Thông qua thực tiễn, con người trở thành nhân cách, thành chủ
thể lịch sử, chủ thể sáng tạo. Trong quá trình sáng tạo ra lịch sử xã hội, con
người đồng thời cũng sáng tạo ra chính bản thân mình. Như vậy, hoạt động
thực tiễn là cách mà con người khẳng định vị trí bản thân, khẳng định trí tuệ,
tính chủ thể của yếu tố người trong toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử.
Vì vậy, con người được coi là giá trị cao nhất của mọi giá trị, là thước đo

của mọi giá trị. Cho nên, trong thời đại cách mạng khoa học - kỹ thuật phát
triển mạnh mẽ, cùng với cuộc cách mạng công nghệ, cách mạng tin học,
cách mạng sinh học con người lại càng không thể quên rằng giá trị nhân
văn là giá trị có ý nghĩa nhân bản cao nhất trong thời đại văn minh hiện nay.
Từ tinh thần nhân văn đó, chúng ta càng khẳng định: con người Việt Nam là
mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Vấn để này có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì nó thể hiện điều kiện, nhu cầu và xu thế tất
yếu của vai trò con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam hiện
nay.
14

×