Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghiên cứu khoa học " Nghịch lý cây bản địa " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.27 KB, 8 trang )

Nghịch lý cây bản địa
Nguyễn Hoàng Nghĩa
Viện Khoa học Lâm nghiệp VN
Mở đầu
Rừng tự nhiên của các nước nhiệt đới có mức độ đa dạng cao về các loài thực vật.
Theo nhà khoa học van Steenis (1971) thì vùng Đông Nam á bao gồm cả Việt
Nam, có tới 25 000 loài thực vật có hoa, chiếm 10% tổng số loài thực vật có hoa
của thế giới, trong đó có tới 40% số loài là loài đặc hữu, nghĩa là chỉ gặp ở riêng
vùng này mà thôi.Hệ thực vật rừng Việt Nam cũng có tiếng là phong phú và đa
dạng. Theo Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật (1993), chỉ riêng ngành Khuyết
thực vật (Ptesidophyta), ngành Hạt trần (Gymnospermae) và ngành Hạt kín
(Angiospermae) đã có khoảng 11000 loài của trên 2500 chi, trong đó có khoảng 7
000 loài thực vật bậc cao có mạch.Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà trong giai
đoạn vừa qua, diện tích rừng của nước ta đã giảm đáng kể, với tốc độ khoảng trên
dưới 100 000 ha/năm. Tỷ lệ che phủ của rừng giảm từ 40,7% (13,5 triệu ha rừng)
vào năm 1943 (Maurand, 1943) xuống còn 27,1% vào năm 1980 và 26,2% vào
năm 1985 (Bộ Lâm nghiệp, 1991). Nhiều tỉnh quan trọng ở miền núi phía Bắc như
Sơn La, Lai Châu, Cao Bằng v.v. có tỷ lệ che phủ của rừng rất thấp, chỉ còn trên
dưới 10%. Việc phục hồi, tái sinh rừng đang là một nhu cầu bức bách, nhất là cho
những khu vực phòng hộ đầu nguồn, ven biển và để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của xã hội, kể cả cho xuất khẩu. Vai trò của các loài cây bản địa trong công tác
trồng rừng là rất rõ ràng, song hiện tồn tại vô số nghịch lý ở tầm quốc tế và ở mỗi
quốc gia, đòi hỏi các nhà nghiên cứu và quản lý sớm quan tâm, giải quyết. các
nghịch lý cơ bản.

1. Nghịch lý thứ nhất : Thế giới ưa của ngoại.
Nghịch lý này có tầm quốc tế và điều dễ nhận biết nhất đó là việc sử dụng rộng
rãi các loài cây nông nghiệp trên phạm vi toàn cầu. Thông thương quốc tế và khu
vực từ hàng trăm, hàng nghìn năm qua đã góp phần trao đổi các giống cây trồng
quan trọng giữa các vùng và các lục địa khác nhau. Không có nước nào có thể tự
cung cấp nổi nguồn tài nguyên di truyền cho riêng mình cho dù nước đó có giàu


có đến mức nào đi nữa về mặt tài nguyên. Các loài cây có nguồn gốc từ châu á
như lúa nước (Oryza sativa), các loài chuối (Musa spp.), dừa (Cocos nucifera)
không chỉ quan trọng ở vùng châu á, mà còn có vai trò kinh tế và dinh dưỡng lớn
lao ở châu Phi và châu Mỹ. Hoa kỳ ở châu Mỹ là một trong ba nước xuất khẩu gạo
lớn nhất thế giới cùng với Thái Lan và Việt Nam ở châu á. Đậu tương (Glycine
soja) có nguồn gốc từ phía bắc Trung Quốc nay được trồng rộng rãi ở châu Mỹ và
vùng này đã từng đạt tới 74% mức sản xuất của thế giới. Theo Thời báo Kinh tế
Việt Nam(1997), năm nước châu Mỹ là Hoa Kỳ, Braxin, áchentina, Canađa và
Paragoay đã đạt 80,6% sản lượng đậu tương thế giới vụ đậu tương năm 1995/1996
và ước đạt khoảng 82,3% vào vụ 96/97. Ngược lại khoai lang (Ipomoea batatas)
có nguồn gốc ở Nam Mỹ thì nay có tới 90% tổng sản lượng khoai lang trên thế
giới lại bắt nguồn từ châu á bao gồm Trung Quốc, Việt Nam và Papua New
Guinea. Cũng như vậy, ngô (Zea mays) có nguồn gốc từ Trung và Nam Mỹ nay
được gây trồng trên phạm vi toàn thế giới. Điều đáng được nhấn mạnh ở đây là
trên phạm vi toàn cầu, ba loài cây trồng quan trọng nhất là ngô, lúa nước và lúa mì
cung cấp khoảng 60% lượng calori và protein mà con người lấy được từ thực vật.
Còn vô số các loài cây trồng khác có nguồn gốc ngoại lai mà hiện nay nhân loại
vẫn đang sử dụng rất thành công và mang lại hiệu quả kinh tế lớn như cây điều
(Anacardium occidentale), cao su (Hevea brasiliensis), cà phê v.v.

2. Nghịch lý thứ hai : Lâm nghiệp thế giới thích trồng cây nhập nội. Bạch đàn
(Eucalyptus L’Herit) là chi thực vật thuộc họ Sim (Myrtaceae) với trên 500 loài
chỉ có phân bố duy nhất ở Ôxtrâylia (trừ hai loài là E.urophylla gặp ở Inđônêxia và
E.deglupta gặp ở Philipin). Theo ước tính của Tổ chức Lương nông (FAO) thì cho
tới năm 1985, đã có gần trăm nước gây trồng bạch đàn trong đó diện tích rừng
trồng ở 13 nước trồng nhiều nhất đã đạt trên 5 triệu ha và 60 nước còn lại trồng
được nửa triệu ha. Các nước trồng nhiều nhất lúc đó là :  Braxin , châu
Mỹ : 2.500.000 ha ấn Độ , châu á : 550.000 Nam
Phi , châu Phi : 470.000 Bồ Đào Nha, châu
Âu : 430.000 Ăngôla , châu Phi : 390.000 Tây Ban

Nha, châu Âu : 390.000 Trung Quốc, châu
á : 300.000 Êtiôpi , châu Phi : 250.000 áchentina,
châu Mỹ : 240.000 Ma-rốc , châu Phi : 180.000 Điều nghịch lý là
cho tới năm 1989, cả đất nước Ôxtrâylia rộng lớn, xứ sở của bạch đàn lại mới chỉ
trồng được 55.000 ha, nghĩa là bằng gần 1% của toàn thế giới và chỉ bằng 1/5 của
Braxin năm 1985. Ước tính cho tới năm 2000, toàn thế giới trồng được khoảng 10
triệu ha bạch đàn. Điều nghịch lý này cũng lại đúng cho các loài keo Acacia. Keo
Acacia là chi thực vật thuộc họ Đậu (Leguminosae) gồm khoảng 1200 loài, trong
đó riêng Ôxtrâylia cũng đã có tới 850 loài. Lại một lần nữa các nước châu á là nơi
gây trồng nhiều nhất các loài Keo Ôxtrâylia. Đến năm 1991, Trung quốc đã trồng
60.000 ha, riêng đảo Xumatơra của Inđônêxia đã trồng 38.000 ha tới năm 1990.
Malaixia đã có 61.000 ha keo tai tượng (A.mangium) vào năm 1991 và dự kiến đạt
nửa triệu ha tới năm 2000. Trong khi thờ ơ với việc trồng bạch đàn và keo Acacia
bản địa, Ôxtrâylia lại hăng hái trồng các loài cây nhập nội cho năng suất cao đó là
thông caribê (Pinus caribaea), thông elliottii (P.elliottii) có nguồn gốc từ châu Mỹ
và cây lai của hai loài trên. Riêng bang Queensland, trong tổng số 176.000 ha rừng
trồng, có 40% là thông elliottii, 35% là thông caribê và chỉ có 25% là của cây bản
địa. New Zealand là đất nước nổi tiếng thế giới về trồng rừng thông radiata (Pinus
radiata) có năng suất cao và đây là cây trồng rừng chủ yếu của đất nước này. Song
khó ai tin được rằng, thông radiata là cây nhập nội có nguồn gốc từ bắc Mỹ lại có
tầm quan trọng khó lường ở ngoài vùng phân bố của nó.

3. Nghịch lý thứ ba : Việt Nam trồng thành công nhiều cây nhập nội. Việt
Nam có nhiều loài cây nhập nội đã được gây trồng thành công trên diện rộng. Nếu
chỉ kể đến các loài cây gỗ, cây đặc sản thì đó là cây điều, cây cao su, cà phê, long
não, xà cừ, sa mu, phi lao, thông đuôi ngựa, thông caribê, tếch, bạch đàn, keo v.v.
Nhiều loài cây trong số đó đã trở thành quen thuộc và không thể thiếu trong đời
sống của nhân dân ta. Đối với vùng cát ven biển, phi lao đã trở nên không thể thay
thế; thông đuôi ngựa và sa mu đã được coi như cây bản địa của vùng núi phía
Bắc. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã đề xuất 92 loài cây cho trồng rừng

ở các vùng sinh thái khác nhau trong cả nước, trong đó có 20 loài nhập nội và trên
70 loài bản địa, song cây nhập nội vẫn chiếm tỷ trọng gây trồng lớn. Theo Nguyễn
Ngọc Lung (1994), trong tổng số 23 loài cây phục vụ trồng rừng ở miền Bắc Việt
nam, chỉ riêng 5 loài hoặc nhóm loài cây nhập nội là nhóm loài bạch đàn, keo tai
tượng, keo lá tràm, phi lao và thông đuôi ngựa đã chiếm tới 54% tổng số diện tích
rừng trồng. Vụ Khoa học Công nghệ, Bộ Lâm nghiệp (1994) cho biết trong giai
đoạn 1986-1992, diện tích rừng trồng 10 loài cây nhập nội là thông đuôi ngựa,
thông caribê, bạch đàn caman, bạch đàn têrê, bạch đàn urô và bạch đàn liễu, keo
tai tượng , keo lá tràm, điều, tếch đã chiếm tới 61% tổng diện tích rừng trồng, còn
11 loài cây bản địa chính chỉ chiếm 39%. Điều có nguồn gốc từ Nam Mỹ (Braxin)
song đã được nhập vào ấn Độ từ hơn 400 năm và vào Việt Nam từ hơn 200 năm.
Nước ta hiện nay là một trong 4 nước có diện tích trồng và sản lượng hạt điều cao
nhất đó là ấn Độ, Inđônêxia, Braxin và Việt Nam. Cà phê Việt Nam cũng đang là
một mặt hàng xuất khẩu có giá trị, ngoài ra cao su, tếch và một số loài cây nhập
nội khác cũng đang được ưu tiên phát triển mở rộng diện tích gây trồng.

4. Nghịch lý thứ tư : Khó gây trồng phát triển cây bản địa ? Điều rất đáng
được quan tâm là vốn cây bản địa hiện đang bị suy giảm nghiêm trọng cả về chủng
loại và số lượng do các hoạt động phá rừng. Rừng lá rộng thường xanh đang ngày
một thu hẹp và dần biến thành đồi trọc. Môi trường sống bị phá huỷ, các hệ sinh
thái rừng bị đe doạ, các loài động thực vật rừng quý hiếm đang đứng trước nguy
cơ bị tuyệt chủng. Việc phục hồi rừng bằng các loài cây bản địa đang trở thành
một vấn đề cấp bách. Song có một nghịch lý khó giải quyết : gây trồng phát triển
cây bản địa là một công việc rất khó khăn. Điều gì đã làm cho vấn đề trở nên phức
tạp và khó giải quyết đến như thế ?
* Các lý do về hiểu biết : Chúng ta còn thiếu nhiều hiểu biết sâu sắc về các hệ
sinh thái rừng, các loài bản địa nói chung và đặc điểm riêng cho từng loài cụ thể
như nhu cầu về đất đai, khí hậu, ánh sáng ở các giai đoạn khác nhau, mối liên hệ
giữa các loài trong quần thể đa loài, khả năng tái sinh tự nhiên, khả năng gây trồng,
vật hậu v.v. Với những lỗ hổng lớn về hiểu biết như vậy chắc chắn khó có thể phát

triển cây bản địa trên diện rộng.
* Các lý do về nhận thức : Các nhà quản lý mong muốn nhanh chóng đưa nhanh
các loài cây bản địa vào gây trồng đại trà, song đối với các nhà sản xuất kinh
doanh, khai thác là dễ hơn cả, còn trồng rừng với luân kỳ 50 năm (hoặc hơn nữa)
là quá dài đối với họ, trong khi lãi suất ngân hàng cao, hiểm hoạ đối với loại rừng
này lại lớn, vì vậy họ chỉ đầu tư vào các loài cây có luân kỳ ngắn (5-7 năm) nhanh
chóng thu sản phẩm cho công nghiệp và xuất khẩu để sớm thu hồi vốn và có lãi.
Ai sẽ là người đầu tư cho cây bản địa ? Rõ ràng Chính phủ phải là nhân tố chủ đạo.
* Các lý do về kỹ thuật : Cây bản địa quen sống trong một môi trường sống hoàn
chỉnh, ít biến động nên có nhu cầu cao về đất và các yếu tố khác. Không thể đưa
trồng ngay cây bản địa trên đất trống, đồi núi trọc khô cằn, trồng thuần loại tràn
lan trên diện rộng. Do tuổi thọ dài, hiểu biết thiếu, kỹ thuật chưa đồng bộ nên khả
năng thành rừng khi trồng cây bản địa thuần loại trên diện rộng là khó như trường
hợp rừng mỡ (Manglietia glauca) và lát hoa (Chukrasia tabularis) cho gỗ lớn
trong những năm vừa qua. Rừng trồng bồ đề (Styrax tonkinensis) rất thành công ở
luân kỳ đầu song năng suất giảm dần ở các luân kỳ sau mà chưa có các biện pháp
giải quyết thoả đáng. Ai cũng biết nghiên cứu cần phải đi trước một bước song đầu
tư cho nghiên cứu các vấn đề này còn quá thấp.
* Các lý do về xã hội : Vùng có nhu cầu lớn về trồng cây bản địa thường là vùng
sâu vùng xa, đời sống của dân còn gặp nhiều khó khăn, giao thông yếu, điều kiện
để tiếp thu kỹ thuật mới còn nhiều hạn chế. Quy hoạch đất rừng, bảo vệ rừng, đất
cho trồng rừng, trồng rừng gì v.v. ở các địa phương còn chưa cụ thể. Người dân
vẫn phá rừng lấy đất trồng cây công nghiệp và cây lương thực. Vốn cho trồng rừng
thiếu, dân chưa muốn trồng rừng luân kỳ dài và rừng hiện còn khó bảo vệ. Một số
nơi đã có đầu tư của Nhà nước cho trồng rừng cây bản địa song mức đầu tư còn
thấp, trồng quảng canh, chưa tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật.

NGHịCH Lý CủA NGHịCH Lý : ĐịNH HƯớNG GIảI QUYếT. Với kinh
nghiệm quý thu được từ hàng trăm năm và 35 năm xây dựng ngành Lâm nghiệp,
hàng chục loài cây bản địa đã được đưa vào trồng rừng thành công ở các mức độ

và phạm vi khác nhau. Hàng chục loài cây đã có được quy trình, quy phạm hoặc
hướng dẫn kỹ thuật gây trồng. Hồi ở Lạng Sơn và quế ở Yên Bái đã từng được
người dân địa phương gây trồng thành công từ hàng trăm năm qua và còn được
mở rộng sang các địa phương lân cận. Lim xanh đã được trồng từ hàng chục năm
nay tại nhiều địa phương như Thanh hóa, Hoà Bình, Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Cầu
Hai (Phú Thọ), kể cả một số nơi ngoài vùng phân bố của loài như Lang Hanh
(Lâm Đồng), Trảng Bom (Đồng Nai). Bồ đề và mỡ đã từng là các loài cây trồng
rừng chính của vùng trung tâm và Đông Bắc Bộ. Thông nhựa thành loài cây phủ
xanh quen thuộc của vùng trung du miền Bắc và Trung bộ mà chỉ có nó mới chịu
nổi những đồi đá ong khô cằn. Trẩu, sở đã từng được trồng ở nhiều nơi của vùng
núi miền Bắc và Bắc Trung Bộ; cũng như thông ba lá ở Tây Nguyên; sao, dầu ở
Nam Bộ; các cây chủ cánh kiến đỏ (cọ phèn, cọ khiết, đậu thiều) ở Tây
Bắc. Những năm gần đây, nhiều loài cây khác cũng đã được thử nghiệm trên nhiều
dạng lập địa và khí hậu như cẩm lai ở Đông Nam Bộ; gõ đỏ và bời lời đỏ ở Tây
Nguyên, trầm hương ở miền Trung; mạy sao, hông, kháo vàng, dẻ đỏ, dẻ ăn quả ở
vùng Đông Bắc, táo mèo ở Tây Bắc; lát hoa ở Sơn La, Hoà Bình và Nghệ An;
huỷnh ở Quảng Bình và các loài tre luồng, song mây ở rải rác nhiều nơi. Rừng lim
xanh 35 tuổi trồng tại Cầu Hai (Đoan Hùng, Phú Thọ) năm 1961 nay có chiều cao
bình quân 15 m và đường kính bình quân 39,5 cm (mật độ ban đầu 1100 cây/ha
qua nhiều lần chặt tỉa nay còn 100 cây/ha). Nguyễn Bá Chất (1996) thông báo rằng
lát hoa trồng trong băng rộng 20 m sau 4 năm cho chiều cao vút ngọn 5,5 m và
đường kính ngang ngực 5,4 cm. Bảng 1 giới thiệu một số số liệu tăng trưởng chiều
cao và đường kính ngang ngực của một số loài cây bản địa được trồng trong vườn
sưu tập cây gỗ ở Cầu Hai, Phú Thọ và rừng trồng ở một số nơi khác. Bảng 1 :
Tăng trưởng của một số loài cây bản địa trồng ở một số nơi.
loài tuổi
(năm)
tăng trưởng D
1,3(cm/năm)
tăng trưởng H

(m/năm)
địa phương
Lim xanh 35 1,09 0,35 Tam Đảo,Vĩnh
Phúc
Lim xanh 35 1,13 0,43 Cầu Hai, Phú Thọ
Lim xanh 5 1,46 1,08 Cầu Hai, Phú Thọ
Lim xẹt 5 1,73 1,29 Cầu Hai, Phú Thọ
Ràng ràng mít

5 1,20 1,25 Cầu Hai, Phú Thọ
Vạng trứng 5 2,16 1,59 Cầu Hai, Phú Thọ
Sồi phảng 5 2,54 1,51 Cầu Hai, Phú Thọ
Re gừng 5 1,86 1,27 Cầu Hai, Phú Thọ
Lát hoa * 4 1,35 1,37 Nghĩa Đàn, Nghệ
An
Như vậy có thể thấy rất rõ rằng việc gây trồng cây bản địa đã có tiềm năng lớn và
có thể thực hiện được song không phải loài cây nào và nơi nào cũng thành công.
Xác định loài cây thích hợp, chọn hoàn cảnh gây trồng phù hợp (đất đai và khí
hậu), tạo hoàn cảnh trồng và chọn phương thức trồng cũng như xác định rõ nguồn
giống phù hợp sẽ là những điều kiện cơ bản của thành công.

×