MỘT SỐ CÂU HỎI KINH TẾ CHÍNH TRỊ - THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
Câu 1: Trình bày và phân tích vai trò của thành phần kinh tế tư nhân trong nền
kinh tế nước ta. Hãy cho biết chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân
hiện nay có dẫn đến nguy cơ phục hồi chủ nghĩa tư bản không ? Tại sao?
Trả lời:
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất và lao động của chính người sản xuất hoặc sử dụng lao động làm thuê.
Theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
đã được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Việt Nam có
các thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh kinh tế tư nhân là một trong
những động lực của nền kinh tế. Như vậy, có thể khẳng định thành phần kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế Việt Nam có vai trò rất quan trọng, sự đóng góp của nó đối với
nền kinh tế là không nhỏ. Cụ thể:
Thứ nhất, kinh tế tư nhân tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn, đóng
góp ngày càng lớn vào ngân sách Nhà nước. Giai đoạn 2001-2009, khu vực kinh tế tư
nhân đóng góp chính vào sản lượng GDP và ngày càng có xu hướng tăng (từ 61%
năm 2001 lên 67% năm 2009). Tỷ trọng đóng góp vốn đầu tư của khu vực KTTN tăng
mạnh, chiếm hơn 2/3 tổng vốn đầu tư xã hội.
Thứ hai, kinh tế tư nhân tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ, tham gia tích cực
và hiệu quả trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Kinh tế tư nhân là lực lượng
kinh tế quan trọng trong thu hút vốn và lao động, tạo nhiều công ăn việc làm, phát
triển ngành nghề, ứng dụng công nghệ mới; kinh tế tư nhân trực tiếp đóng vai trò giải
quyết thất nghiệp, góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần
cho nhân dân, huy động ngày càng nhiều nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội đất
nước. Số lượng việc làm tạo ra rất ấn tượng và chi phí tạo việc làm của doanh nghiệp
tư nhân thấp nhất trong các khu vực kinh tế. Năm 2008, để tạo ra 1 việc làm mới,
doanh nghiệp tư nhân chỉ cần 224,1 triệu VNĐ, DNNN cần 436,5 triệu VND và DN
ĐTNN cần 249,4 triệu VNĐ.
- Kinh tế tư nhân thúc đẩy cạnh tranh và hội nhập của nền kinh tế. KVKTTN vượt trội
về tỷ trọng sử dụng lao động, chiếm gần 90% tổng lao động xã hội hàng năm giai
đoạn 2001-2009, thể hiện vai trò đặc biệt quan trọng trên giác độ an sinh xã hội và tạo
việc làm. Kinh tế tư nhân còn là nguồn lực chủ yếu phát triển các mặt hàng mới, mở
rộng thị trường xuất khẩu. Tính đến thời điểm 01/4/2012, cả nước có gần 342 nghìn
DN thu hút 10,9 triệu lao động.
- Khu vực kinh tế tư nhân thu hút vốn đầu tư khá lớn, chiếm 42,3% tổng vốn của khu
vực doanh nghiệp, trong đó, tài sản cố định chiếm 36,4% và tạo ra tới 57,5% tổng
doanh thu năm 2008 của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Quy mô vốn chủ sở hữu của
các doanh nghiệp trong khu vực KTTN trong nước đã tăng đáng kể. Tổng vốn chủ sở
hữu của các doanh nghiệp khu vực KTTN trong nước tăng gấp 17 lần, từ 38,7 ngàn tỷ
1
đồng năm 2000 lên 657,9 ngàn tỷ đồng năm 2008. Tính trung bình giai đoạn này, một
doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân trong nước có mức tài sản bình quân tăng hơn 4
lần (14,6 tỷ đồng năm 2008 so với 3,3 tỷ đồng năm 2000).
Thứ ba, kinh tế tư nhân đã thực sự trở thành một bộ phận của nền kinh tế, góp
phần vào quá trình thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao cạnh tranh của nền
kinh tế; có cơ hội phát triển mạnh cả về bề rộng lẫn chiều sâu, cả về quy mô số lượng
lẫn chất lượng với quy mô hợp lý, thích nghi, nhạy bén với tình hình thị trường, có
nhiều kinh nghiệm tổ chức quản lý; có khả năng kinh doanh, khai thác thông tin và
các nguồn lực khác cho phát triển kinh tế. Nghiên cứu của UNDP-CIEM (2011) cho
thấy khu vực kinh tế tư nhân tăng trưởng mạnh mẽ cả về số lượng lẫn quy mô; là khu
vực sử dụng vốn hiệu quả nhất trong 3 khu vực kinh tế. Năm 2007, chỉ số ICOR của
khu vực tư nhân là 3,74, thấp hơn so với các khu vực khác, cụ thể DNNN là 8,28,
DTNN là 4,99. Xét về hiệu quả kinh doanh, doanh thu thuần bình quân tăng gần 3 lần
(17,2 tỷ đồng năm 2008 so với 6 tỷ đồng năm 2000), lợi nhuận trung bình tăng gấp 5
lần (258 triệu đồng năm 2008 so với 54 triệu đồng năm 2000). Khu vực này có tỷ lệ
doanh thu/tổng tài sản cao hơn các khu vực khác, năm 2008 là 118%, DNNN là 80%
và ĐTNN là 89%.
Những con số thống kê trên khẳng định kinh tế tư nhân ở nước ta là một nguồn
nội lực trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Do đó, cần khuyến khích, tạo điều kiện và hướng dẫn thành phần kinh tế tư
nhân phát triển nhằm huy động vốn, tạo việc làm, tăng tổng sản phẩm xã hội; tăng thu
cho ngân sách nhà nước.
Chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân hiện nay không dẫn đến
nguy cơ phục hồi chủ nghĩa tư bản. Bởi vì:
Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong
đó có thành phần kinh tế tư nhân là một tất yếu khách quan (Do lực lượng sản xuất
phát triển không đồng đều giữa các vùng, các ngành và trong nội bộ từng vùng, từng
ngành nên tương ứng với những trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất ấy, tất yếu
còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau, dẫn đến tồn tại nhiều thành phần kinh tế
khác nhau, trong đó có thành phần kinh tế tư nhân. Đồng thời, xã hội cũ để lại nhiều
thành phần kinh tế như kinh tế tư nhân dưới nhiều hình thức tổ chức sản xuất – kinh
doanh khác nhau, kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và người làm thương nghiệp,
dịch vụ nhỏ… mà chưa cần và chưa thể cải tạo ngay được, Nhà nước cần phải sử dụng
chúng để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, không những chỉ thừa
nhận sự tồn tại khách quan của thành phần kinh tế tư nhân, mà còn phải thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong đó có thành phần kinh tế tư nhân.)
Hơn nữa, theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng,
mặc dù Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế nhưng kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Như vậy, mặc dù thành phần kinh
2
tế tư nhân được khuyến khích nhưng thành phần kinh tế nhà nước mới là thành phần
kinh tế chiếm địa vị thống trị và chi phối nền kinh tế.
Từ những phân tích về vai trò của thành phần kinh tế tư nhân đối với sự phát
triển kinh tế xã hội đất nước ở trên, ta thấy sự lớn mạnh của thành phần kinh tế này
không có hại mà chỉ có lợi cho nền kinh tế quốc dân.
Do vậy, mục tiêu khuyến khích phát triển thành phần kinh tế tư nhân là giải
phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng nội lực, ngoại lực đáp ứng yêu cầu của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chính sách này không dẫn đến nguy cơ phục
hồi chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên bên cạnh việc khuyến khích và tạo điều kiện để kinh
tế tư nhân phát triển Nhà nước cần tăng cường quản lý, không để kinh tế tư nhân phát
triển một cách tự phát. Có như vậy mới phát huy được vai trò, hiệu quả của thành
phần kinh tế này, đồng thời giữ vững được định hướng XHCN trên lĩnh vực kinh tế.
Câu 2: Phân tích quan điểm: “Đa phương hóa, đa dạng hóa” của Đảng ta trong
lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Liên hệ với thực tiễn của ngành (địa phương) đang
công tác ?
Trả lời:
Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 đã đề ra đường lối đối ngoại
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, hóa giải thế bị bao vây cô lập.
Việc thực hiện nhất quán và không ngừng mở rộng, hoàn chỉnh nội hàm của đường lối
sáng suốt ấy đã góp phần quan trọng vào công cuộc bảo vệ Tổ quốc và tạo dựng môi
trường quốc tế thuận lợi để đất nước đạt được kỳ tích phát triển trong thời kỳ Đổi mới.
Từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau hàng chục năm chiến
tranh, Việt Nam đã vươn lên nhóm nước có thu nhập trung bình và đang hội nhập
quốc tế sâu rộng với vị thế ngày một được nâng cao.
Quan điểm “Đa phương hóa, đa dạng hóa” của Đảng ta là phương hướng chủ
yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại hiện nay.
Đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại là thực hiện các quan hệ kinh tế với
nhiều nước, nhiều tổ chức kinh tế quốc tế trên cơ sở những nguyên tắc của quan hệ
quốc tế. Đa dạng hóa các hình thức kinh tế đối ngoại là sử dụng nhiều hình thức kinh
tế đối ngoại trên nhiều lĩnh vực như: đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa vô hình và hữu
hình, thu hút đầu tư nước ngoài và đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài, thực hiện hoạt
động hợp tác quốc tế trong KHCN, phát triển du lịch quốc tế và mở rộng các dịch vụ
ngoại tệ, tranh thủ viện trợ quốc tế dưới nhiều hình thức và từ nhiều nguồn khác nhau.
Đa dạng hóa gắn chặt với đa phương hóa, hai nội dung này bổ sung, tạo điều
kiện cho nhau phát triển.
Đại hội XI đã nêu rõ định hướng nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại,
tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu. Quan điểm “Đa phương hóa, đa
dạng hóa” được thể hiện:
Thứ nhất, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, song
phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ. Cho đến nay, Việt Nam đã có
quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước và có quan hệ về kinh tế, thương mại, đầu tư với
3
hơn 200 nước và vùng lãnh thổ. Trong các mối quan hệ này, Việt Nam tiếp tục ưu tiên
tạo dựng khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng
giềng, các nước trong khu vực. Đồng thời, Việt Nam cũng luôn coi trọng củng cố và
tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt Nam với các nước bạn bè truyền
thống, các nước khác ở châu Á, Đông Âu, Trung Đông, châu Phi và Mỹ La-tinh.
Nhiều Hiệp định, thoả thuận quan trọng đã được ký kết như Hiệp định Thương mại
song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định về biên giới trên bộ, Hiệp định về phân
định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định nghề cá với Trung Quốc, Hiệp định về phân định
thềm lục địa với In-đô-nê-xia
Thứ hai, Việt Nam đã tham gia sâu rộng và ngày càng hiệu quả ở các tổ chức
khu vực như ASEAN (tháng 7,1995), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á -Thái Bình
Dương (APEC) (tháng 11,1998), Diễn đàn á - Âu (ASEM) (12,1995) và Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) (tháng 1/2006) sau 11 năm đàm phán.
Các mối quan hệ song phương và đa phương đó đã góp phần không nhỏ vào
việc không ngừng củng cố môi trường hoà bình, ổn định và tạo mọi điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hơn nữa, những đóng góp của
Việt Nam vào các hoạt động của các tổ chức, diễn đàn quốc tế đã góp phần từng bước
nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ ba, Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế nhưng chúng ta luôn
nhận thức rõ rằng, các quốc gia tuy chia sẻ một số lợi ích chung song luôn có những
lợi ích riêng, đôi khi trái chiều nhau, nên trong quan hệ quốc tế luôn diễn ra quá trình
vừa hợp tác vừa đấu tranh. Thành công sẽ đến khi chúng ta chủ động, tích cực phát
huy các điểm tương đồng, có giải pháp phù hợp khắc phục những bất đồng nhằm thúc
đẩy hợp tác để vừa bảo vệ được các lợi ích cơ bản của đất nước, vừa bảo đảm lợi ích
chính đáng của các đối tác và lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Việt
Nam đã, đang và sẽ còn xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với nhiều nước. Song,
nội hàm của mỗi mối quan hệ đối tác chiến lược này không hoàn toàn giống nhau. Có
mối quan hệ hợp tác toàn diện, có mối quan hệ đặt trọng tâm vào hợp tác kinh tế, giáo
dục…
Thứ tư, quan điểm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại gắn
liền đường lối độc lập, tự chủ với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối
tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập
và phát triển". Quan điểm này là sợi chỉ xuyên suốt tạo nên những thành tựu đối ngoại
của Việt Nam trong thời gian qua. Với sự kế thừa và phát triển của Đại hội XI, việc
thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại này là điều kiện tiên quyết để hoàn thành
nhiệm vụ giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;
nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Thứ năm, với nhận thức sâu sắc rằng thế giới hiện nay đang phải đối phó với
những vấn đề toàn cầu mà không một nước nào có thể tự đứng ra giải quyết được,
Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực để
cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói nghèo,
4
tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy, Đặc biệt từ sau sự
kiện 11/9/2001, Việt Nam đã tích cực tham gia vào nỗ lực chung của các nước tăng
cường hợp tác chống khủng bố trên cơ sở song phương và đa phương nhằm loại trừ
tận gốc nguy cơ của khủng bố đối với an ninh và ổn định của các quốc gia.
Quan điểm “Đa phương hóa, đa dạng hóa” của Đảng ta tạo ra những cơ hội lớn
đối với nền kinh tế đất nước. Cụ thể:
Một là, nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế;
nối liền thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới.
Hai là, thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp và vốn viện trợ chính thức từ các
chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc tế; thu hút khoa học công nghệ hiện đại, khai thác và
ứng dụng những kinh nghiệm quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta.
Ba là, góp phần tích lũy vốn phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH đất nước, đưa nước
ta từ 1 nước nông nghiệp lạc hậu lên nước công nghiệp tiên tiến, hiện đại.
Bốn là, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu
nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những tích cực và cơ hội, “ đa phương hóa, đa dạng hóa”
quan hệ kinh tế đối ngoại cũng tạo ra những tiêu cực như sau:
Thứ nhất, “ đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ kinh tế đối ngoại có thể dẫn
đến khả năng phụ thuộc lớn vào bên ngoài. Mức độ phụ thuộc chủ yếu thể hiện trên tỷ
lệ vốn FDI, ODA. Ví dụ như nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào
thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ hay có những ưu đãi đối với các nhà
đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, khả
năng sinh lợi cao.
Thứ hai, chúng ta có nguy cơ phải tiếp nhận công nghệ lạc hậu của các nước
phát triển, biến Việt Nam thành bãi rác công nghiệp hay nơi tái chế của họ và trở
thành vùng ô nhiễm khổng lồ.
Thứ ba, “ đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho
mọi hoạt động của con người kém an toàn từ an toàn kinh tế, tài chính, văn hóa, xã
hội đến an toàn chính trị.
Để “đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ kinh tế đối ngoại thuận lợi, ngày
càng phát triển, chúng ta cần thực hiện những giải pháp chủ yếu như sau:
- Đảm bảo ổn định môi trường chính trị kinh tế xã hội. Đấu tranh kiên quyết và
nghiêm khắc với những hành vi quan liêu, tham nhũng, lãng phí nhằm tạo lập một môi
trường tích cực thu hút đầu tư nước ngoài. Tiếp tục đổi mới thể chế chính trị, rà soát,
điều chỉnh các luật, văn bản pháp quy, các chính sách đề ngày càng hoàn thiện hệ
thống pháp luật phù hợp với các hoạt động kinh tế đối ngoại và luật pháp thông lệ
quốc tế.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của NN đối với hoạt động KTĐN. Có
chính sách hợp lý đối với từng hình thức kinh tế đối ngoại.
- Chủ động và tích cực hội nhập theo lộ trình phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế đất nước 2011-2020.
5
- Cải thiện môi trường đầu tư để thu hút các nhà đầu tư và cơ cấu lại các
ngành, lĩnh vực đầu tư để phát triển các ngành nghề có giá trị gia tăng.
- Xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại.
- Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật đặc biệt là hệ
thống thông tin liên lạc, giao thông vận tải.
-Xây dựng chiến lược kinh tế đối ngoại gắn liền với chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Thành lập các cơ quan nghiên cứu, hoạch định kế hoạch, chính sách
để nắm bắt thông tin đầy đủ, kịp thời về tình hình kinh tế-xã hội thế giới, khu vực,
không để xảy ra bị động, bất ngờ trong quá trình hội nhập.
Như vậy, chúng ta “đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ kinh tế đối ngoại trên
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập,
tự chủ; bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia; giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Đường lối Kinh tế đối ngoại này của Đảng ta đã
và đang tạo thế và lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế- xã hội đưa đất nước tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trong thế kỷ XXI này./.
Quan điểm đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng trong lĩnh vực kinh tế dối
ngoại không chỉ thể hiện sự sáng suốt của Đảng ta trong lãnh đạo phát triển kinh tế đất
nước thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng mà còn giúp chúng ta tranh thủ ngoại lực, tận dụng thời cơ vận hội để
phát triển kinh tế, đưa nền kinh tế nước ta từng bước thoát khỏi tụt hậu so với các
nước trên thế giới. Quan điểm đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng trong lĩnh vực
kinh tế đối ngoại cũng đặt tiền đề vững chắc để nước ta thực hiện đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ trên các lĩnh vực khác đồng thời mở ra môi trường, điều kiện thuận
lợi để các cấp, các ngành, các đơn vị thực hiện mở rộng quan hệ hợp tác, liên kết làm
ăn với các đối tác nước ngoài trên tinh thần “hợp tác bình đẳng cùng có lợi”, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Câu 3: Phân tích vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Hãy cho biết hiện nay kinh tế nhà nước đã thực
hiện vai trò chủ đạo đó hay chưa ? Tại sao ?
Trả lời:
Quá trình đổi mới KT ở nước ta bắt đầu từ ĐH VI của Đảng năm 1986. Gần 30
năm phát triển KTTT theo định hướng XHCN, Đảng ta chỉ rõ tồn tại nhiều thành phần
KT nhưng luôn xác định vai trò chủ đạo của TP KTNN.
Mục tiêu phát triển KT nhiều thành phần theo định hướng XHCN, các thành
phần kinh tế phải được cải biến. Không thể “Xóa bỏ” hay “chuyển đổi” các thành
phần KT một cách chủ quan duy ý chỉ mà phải căn cứ vào trình độ phát triển của
LLSX, từng bước hình thành quan hệ SX mới. Trên cơ sở Cương lĩnh và HP, đồng
thời trải qua tổng kết thực tiễn đổi mới của các kỳ ĐH, ĐH XI của Đảng ta khẳng định
rõ các thành phần KT là: KTNN; KT tập thể; KT tư nhân; KT có vốn đầu tư nước
ngoài. Trong đó:
6
KTNN là thành phần KT dựa trên cơ sở sở hữu Nhà nước về TLSX, bao gồm
các DNNN và tài sản nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển KT như: ngân sách
nhà nước, các quỹ bảo hiểm nhà nước, quỹ dự trữ quốc gia, cơ sở vật chất của quốc
phòng, an ninh, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, đất đai, tài nguyên…
KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền KTQD, là nhân tố mở đường cho sự phát
triển KT, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để nhà nước định hướng và điều
tiết vĩ mô nền KT.
Để làm được điều đó, KTNN cần tập trung nguồn lực phát triển những ngành,
lĩnh vực trọng yếu như: kết cấu hạ tầng KT, ngân sách, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm,
những cơ sở SX và thương mại dịch vụ then chốt, một số doanh nghiệp nhà nước,
những cơ sở có nhiệm vụ quan hệ đặc biệt đến quốc phòng an ninh… có quy mô nói
chung lớn và vừa, công nghệ hiện đại, kinh doanh có hiệu quả.
Cần giải quyết đúng mối quan hệ giữa quyền SH nhà nước và quyền quản lý
kinh doanh của các chủ thể doanh nghiệp NN nhằm thực hiện hạch toán kinh doanh
như những doanh nghiệp thuộc các thành phần KT khác, cạnh tranh để phát triển, bảo
toàn và tăng thêm vốn NN giao, làm ăn có lãi, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với
NN.
Với các chủ thể KT thuộc KTNN không vì mục đích lợi nhuận là chính như trường
học, bệnh viện, giao thông công cộng… cần có chính sách, cơ chế riêng sao cho đảm
bảo mục tiêu XH vừa sử dụng có hiệu quả cao trong các nguồn lực XH.
Sắp xếp, bố trí lại các doanh nghiệp NN theo hướng khuyến khích tạo điều kiện
phát triển hơn nữa các doanh nghiệp đang hoạt động tốt, có hiệu quả cao, chấn chỉnh
những doanh nghiệp còn yếu kém, xây dựng mới những doanh nghiệp cần thiết.
Những doanh nghiệp không còn khả năng phục hồi thì xử lý theo đúng luật phá sản
doanh nghiệp quy định hoặc tìm kiếm những hình thức thích hợp.
Tích cực thực hiện CPH một bộ phận DNNN. Nhà nước chỉ cẩn nắm tỷ lệ cổ
phần cần thiết, phần còn lại được bán rộng rãi cho người LĐ tại doanh nghiệp hay cho
các tổ chức KT, XH và cá nhân ngoài doanh nghiệp để vừa tạo động lực nhằm huy
động thêm vốn, vừa mở rộng quy mô KD có hiệu quả.
Về mặt QLKT, NN phải phân biệt quyền của chủ SH và quyền KD của các DN.
Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với các doanh nghiệp kinh doanh dưới dạng
công ty TNHH một chủ SH là NN và công ty CP có vốn NN; Giao cho HĐQT doanh
nghiệp quyền đại diện trực tiếp chủ SH gắn với quyền tự chủ KD; Quy định rõ quyền
hạn trách nhiệm của cơ quan QLNN đối với doanh nghiệp.
Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp NN để tạo động lực
phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng xóa bao cấp; Doanh nghiệp cạnh tranh
bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về SX, KD; nộp đủ thuế có lãi. Thực
hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Có cơ chế phù hợp về kiểm tra kiểm
soát, thanh tra NN đối với doanh nghiệp.
Có như vậy, KTNN mới thực sự là đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng KT và giải
quyết các vấn đề XH, mở đường hướng dẫn các thành phần KT khác phát triển theo
định hướng XHCN, là nền tảng cho chế độ KTXH mới.
7
Thực trạng của KTNN hiện nay là hiệu quả đạt được chưa tương xứng với thế
và lực vượt trội mà doanh nghiệp nhà nước có; 12% số doanh nghiệp NN thua lỗ, 30
tập đoàn, DN tổng Công ty NN có tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu vượt mức quy định 3
lần, có 7 tổng công ty vượt trên 10 lần. Từ khi NĐ 108/2006 phân cấp đầu tư, số dự án
đầu tư công tăng vọt (năm 2012 có 38420 dự án); Nhiều dự án dở dang chất lượng
thấp, lãng phí.
Để khắc phục tình trạng trên, Đảng ta chủ trương phát triển và nâng cao hiệu
quả của các thành phần KT trong nền KTTT định hướng XHCN, trong đó KTNN
đóng vai trò chủ đạo.
Tại ĐH XI Đảng ta khẳng định “KTNN giữ vai trò chủ đạo, KT tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. KTNN cũng KT tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền KT quôc dân”
Để KTNN phát huy được vai trò chủ đạo phải sắp xếp lại các doanh nghiệp theo
hướng sau:
- Xây dựng một sô tập doàn KT mạnh trên cơ sở các tổng công ty NN, có sự
tham gia của các TPKT. Khẩn trương cải thiện tình hình tài chính và lao động của các
doanh nghiệp NN, củng cố và hiện đại hóa một bước các tổng công ty NN.
- Thực hiện tốt chủ trương CPH và đa dạng hóa SH đối với những doanh nghiệp
NN không nắm 100% vốn;
- Giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp loại nhỏ mà NN không cần nắm
giữ;
- Sáp nhập, giải thể, phá sản, những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và
không thực hiện các biện pháp trên.
Thời gian qua, việc tái cơ cấu DNNN đã được thực hiện theo hướng tập trung
vào những ngành, lĩnh vực then chốt và cung ứng dịch vụ công thiết yếu. Vì vậy hiệu
quả hoạt động của DNNN có bước cải thiện, với khoảng 80% doanh nghiệp hoạt động
có lãi tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ SH của các tập đoàn, tổng công ty NN năm 2010
và 2011 đều đạt trên 18%, năm 2012 đạt 17,4%. Doanh nghiệp NN đã đóng góp trên
33% GDP.
Với định hướng và giải pháp trên, có thể khẳng định rằng đến nay KTNN đã
thực hiên được vai trò chủ đạo của mình trong thực tiễn.
Câu 4: Trình bày và phân tích những quan điểm cơ bản của Đảng ta trong
lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Hãy cho biết vì sao đến nay nhiều nước vẫn chưa công
nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường ?
Mở rộng và phát triển KT đối ngoại là một tất yếu khách quan. Đảng ta đã chỉ
đạo chủ động và tích cực hội nhập KTQT.
8
KTĐN là toàn bộ quan hệ KT giữa một quốc gia này với một quốc gia khác
hoặc giữa một quốc gia này với một tổ chức quốc tế khác nhằm mục tiêu trao đổi, hợp
tác, và hướng tới sự phát triển KTXH của từng quốc gia.
KTĐN có vai trò hết sức to lớn: thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, tranh
thủ nguồn lực bên ngoài, tạo khả năng rút ngắn trình độ phát triển, thúc đẩy các dân
tộc xích lại gần nhau hơn.
Việc mở rộng quan hệ KTĐN có tính tất yếu khách quan vì:
Sự khác nhau giữa các quốc gia về trình độ phát triển, về vị trí địa lý, điều kiện
tự nhiên. Vì vậy, các quốc gia có những lợi thế khác nhau, để khai thác lợi thế đó tấtt
yếu phải mở rộng KTĐN.
Sự phát triển của cách mạng KHCN và những tác động của nó vào đời sống
KT.
Toàn cầu hóa KTQT là một xu thế khách quan ngày càng có nhiều nước tham
gia vì:
Quá trình toàn cầu hóa KT đã mang lại cơ hội cho các quốc gia khai thác được
lợi thế của mình đem lại lợi ích cho quốc gia; Toàn cầu hóa là một quá trình vừa đấu
tranh vừa hợp tác nên nó là động lực thúc đẩy sự phát triển; Toàn cầu hóa là sự mở
cửa KT, mở cửa thị trường.
Đảng ta chủ trương chủ động và tích cực hội nhập KTQT. Quan điểm đó được
thể hiện nhất quán trong các văn kiện ĐH Đảng toàn quốc từ ĐH VI, VII, VIII, IX, X
và XI:
ĐH VI chỉ rõ: Tham gia phân công lao động quốc tế, tranh thủ mở mang quan
hệ KT và KHKT với các quốc gia, các tổ chức quốc tế, trên nguyên tắc bình đẳng
cùng có lợi.
ĐH VII, VIII, hội nghị TW4 khóa 8 nhấn mạnh: chủ động chuẩn bị các điều
kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là những sản phẩm mà chúng ta có khẳ
năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và quốc tế…
ĐH IX chủ trương: “Chủ động hội nhập KTQT và khu vực”; NQ 07 của BCT,
NQTW 9 nhấn mạnh: “…chuẩn bị tốt điều kiện để sớm gia nhập tổ chức thương mại
thế giới (WTO)”…
ĐH X Đảng ta bổ sung thêm: “Chủ động và tích cực hội nhập KTQT, đồng thời
mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”…
ĐH Đảng XI trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng KHCN bùng nổ, Đảng
ta phát triển quan điểm trên thành: “Chủ động và tích cực hội nhập QT”. Quan điểm
này thể hiện rõ ở bước đi và lộ trình hội nhập của VN với khu vực và thế giới. VN
tham gia vào tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ, và định hướng
XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững ANQG, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo
vệ môi trường.
Trong tiến trình đó, VN ưu tiên cao và trước tiên cho việc hội nhập KTQT
thông qua các hoạt động mở rộng KT đối ngoại, mở rộng và đa dạng hóa thị trường,
tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và KHCN tiên tiến cho sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước.
9
Đảng ta chỉ rõ:
- Hội nhập KTQT là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa cạnh tranh, vừa có
cơ hội, vừa có thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt để đạt hiệu quả.
- Nhận thức đầy đủ về đặc điểm nền KT nước ta va xu thế thế giới để xây dựng
kế hoạch và lộ trình hội nhập hợp lý, hiệu quả.
- Kết hợp chặt chẽ hội nhập KT với giữ vững ANQP. Thông qua hội nhập để
tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc phòng, củng cổ chủ quyền và an ninh đất
nước.
- Hội nhập KTQT là sự nghiệp của toàn dân.
Về giải pháp để mở rộng và nâng cao hiệu quả KTĐN:
- Đảm bảo ổn định môi trường chính trị kinh tế xã hội.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của NN đối với hoạt động KTĐN.
- Chủ động và tích cực hội nhập theo lộ trình phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế đất nước 2011, 2020.
- Tiếp tục đổi mới thể chế chính trị, rà soát, điều chỉnh các luật, văn bản pháp
quy, các chính sách đề ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với các hoạt
động kinh tế đối ngoại và luật pháp thông lệ quốc tế.
- Cải thiện môi trường đầu tư để thu hút các nhà đầu tư và cơ cấu lại các ngành,
lĩnh vực đầu tư để phát triển các ngành nghề có giá trị gia tăng.
- Xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại.
Trên cơ sở đường lối đội ngoại của ĐH XI, kể từ năm 2011 đến nay, đặc biệt là trong
năm 2013, chỉ tính từ năm 2001 đến nay chúng ta xây dựng quan hệ đối tác chiến lược
với 14 nước, thì chỉ riêng năm 2013 chúng ta đã nâng cấp, xác lập khuôn khổ quan hệ
đối tác chiến lược với 5 nước và xây dựng quan hệ đối tác toàn diện với 1 số nước,
trong đó có Hoa Kỳ. Sự phát triển KTĐN của nước ta trong thời gian vừa qua có
ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự tăng trưởng KT của nước ta.
Việt Nam ta thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN.
Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn một số nước chưa công nhận VN có nền KTTT.
Điều đó có nhiều lý do, nhưng có thể chỉ ra 2 lý do chính:
Về lý luận: Chính sách phát triển KTTT theo định hướng XHCN bị các thế lực
thù địch xuyên tạc: đã là KTTT thì không có định hướng XHCN được.
Về thực tiễn: Thực trạng nền KTTT ở nước ta:
- KTTT phát triển ở trình độ thấp: Trình độ KH-CN, trình độ quản lý tổ chức
thấp, lạc hậu; Lực lượng lao động đông nhưng không mạnh; Vốn đầu tư trong nền
kinh tế nhỏ; hạ tầng KTXH phát triển chưa đồng đều, hiệu quả chưa cao.
- Phát triển nền KTTT từ KT tập trung bao cấp: Còn những tư tưởng, tư duy, lề
thói của nền KT cũ. Các yếu tố của nền KTTT chưa hoàn thiện: Hệ thống pháp luật,
cơ chế quản lý…
Quan điểm của Đảng ta về kinh tế đối ngoại thể hiện tư duy mới của Đảng ta
trong lĩnh vực kinh tế. Nói cách khác đó là sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta.
Quan điểm đó hoàn toàn phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế nước ta và xu thế
10
thời đại. Thực tiễn là thước đo, tiêu chuẩn của chân lý. sau gần 30 năm đổi mới, kinh
tế nước ta đã có bước phát triển quan trọng, từng bước ra khỏi khủng hoảng, đời sống
nhân dân được cải thiện đáng kể, nền KT thị trường định hướng XHCN đã được xác
lập và khẳng định rõ tính ưu việt của nó; quan hệ của nước ta với các nước trên thế
giới ngày càng mở rộng, đặc biệt là quan hệ, hợp tác trên lĩnh vực kinh tế…Điều đó
càng chứng tỏ tính đúng đắn, sáng tạo trong quan điểm kinh tế đối ngoại của Đảng ta.
Đây cũng là cơ sở, nguyên tắc chỉ đạo cho các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị vận
dụng để mở rộng quan hệ hợp tác, làm ăn với đối tác nước ngoài góp phần nâng cao
hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Câu 5: Trình bày hình thức phân phối theo lao động ? Cho biết vì sao C.Mác lại
cho rằng dù có ưu việt hơn các hình thức phân phối khác, phân phối theo lao
động xét đến cùng vẫn còn mang tính chất pháp quyền tư sản ?
Trả lời:
Đảng ta khẳng định: nền KT nước ta trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều
thành phần có sự quản lý của NN, tương ứng với nó là nhiều hình thức phân phối
nhưng lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời
phân phối dựa trên mức đóng góp nguồn lực khác vào kết quả sản xuất, kinh doanh và
phân phối thông ta phúc lợi xã hội.
Trong nền KT này xuất hiện nhiều chủ thể KT khác nhau với các hình thức sở
hữu khác nhau và cũng vì lẽ đó mà xuất hiện nhiều phương thức phân phối khác nhau.
Hình thức sản xuất, kinh doanh khác nhau thì kết quả kinh doanh khác nhau, do đó
cần có các hình thức phân phối khác nhau.
Vì vậy ở nước ta hiện nay tồn tại nhiều hình thức phân phối, trong đó có phân
phối theo lao động. Đây là hình thức căn bản và chủ yếu, thích hợp nhất với các thành
phần KT.
Phân phối theo lao động là hình thức phân phối thu nhập căn cứ vào số lượng
và chất lượng lao động của từng người đã đóng góp cho XH. Theo quy luật này, người
làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không
hưởng; Lao động có kỹ thuật cao, lao động làm việc ở những ngành nghệ độc hại,
trong những điều kiện khó khăn đều được hưởng phần thu nhập tương ứng.
Căn cứ cụ thể để phân phối theo lao động là: Số lượng lao động được đo bằng
thời gian lao động hoăc số lượng sản phẩm phẩm làm ra: Trình độ thành thạo của
người lao động và chất lượng sản phẩm làm ra; điều kiện, và môi trường lao động
( lao động nặng nhọc, lao động trong hầm mỏ, lao động ở những vùng có điều kiện
khó khăn, xa xôi hẻo lánh…) Tính chất của động; các ngành nghề cần được khuyến
khích.
Phân phối theo lao động được thực hiện qua các hình thức cụ thể như: Tiền
công trong các đơn vị sxkd; tiền thưởng, tiền phụ cấp, tiền lương trong các cơ quan
hành chính sự nghiệp.
11
Phân phối theo lao động như đã nói ở trên không có nghĩa là mỗi người lao
động sẽ được phân phối trực tiếp tất cả những gì mà họ đã cống hiến cho XH, mà chỉ
là một phần thu nhập quốc dân mà họ góp phần tạo ra.
Phân phối theo lao động là phương thức phân phối hợp lý, nó có tác dụng thúc
đẩy mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm thúc đẩy nâng cao năng suất lao động,
tinh thần và thái độ lao động, khắc phục những tàn dư tư tưởng cũ, củng cố kỷ luật lao
động.Nó còn có tác dụng thúc đẩy mọi người nâng cao trình độ nghề nghiệp, trình độ
văn hóa,btạo điều kiện thuận lợi cho nền tổ chức lao động xã hội; tác động mạnh đến
đời sống vật chất và văn hóa của người lao động, nó đảm bảo tái sx sức lao động
nhằm tạo mọi điều kiện cho người lao động phát triển toàn diện.
Phân phối theo lao động là phương thức phân phối hợp lý nhất so với các hình
thức phân phối đã có trong lịch sử. Cơ sở của sự phân phối đó là sự bình đẳng trong
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Song, thực hiện tốt phân phối theo lao động sẽ có nhiều tác dụng to lớn đối với
xã hội và bản thân người lao động. Bỏi lẽ nó đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách
của sự cân bằng xã hội đang đặt ra ở nước ta, nó kết hợp chặt chẽ lợi ích của sản xuất
xã hội với lợi ích của từng cá nhân lao động. Nó khuyến khích người lao động đi sâu
vào nghề nghiệp chuyên môn, thu hút lao động, đưa KHKT tiên tiến vào sản xuất kinh
doanh thay lao động chân tay. Tạo điều kiện cho việc phân bổ và sử dụng lao động ổn
định, đảm bảo sản xuất xã hội cân bằng và có kế hoạch. Nó góp phần giáo dục về
quan điểm, thái độ, kỷ luật lao động. Nó làm cho bản thân người lao động vì lợi ích
vật chất của mình mà quan tâm đến kết quả lao động của mình từ đó ra sức đẩy mạnh
sản xuất.
Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu “làm theo năng lực, hưởng theo nhu
cầu” thì còn nhiều việc phải làm. Bởi theo Mác, phân phối theo lao động vẫn là một
thứ pháp quyền tư sản, quyền bình đẳng vẫn nằm trong khuôn khổ tư sản, tức là trong
xã hội sản xuất hàng hóa được thực hiện theo nguyên tắc trao đổi ngang giá và quyền
của người lao động tỷ lệ với lao động người ấy cung cấp thì điều đó vẫn còn thiếu sót.
Bởi vì một công việc ngang nhau, một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng xã
hội nhưng trên thực tế người này vẫn được hưởng nhiều hơn người kia.
Chế độ phân phôi theo lao động vẫn còn thiếu sót nhưng đó là những thiếu sót
không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa Công sản nếu như trong xã hội
tư bản phân phối dựa trên cơ sở “người có của, kẻ có công” thì trong xã hội XHCN
được dựa trên nguyên tắc “người làm nhiều hưởng nhiều, người làm ít hưởng ít,
không làm không hưởng” đó là bình đẳng. Mặc dù còn nhiều thiếu sót nhưng với tác
dụng của mình thì phân phối theo lao động vẫn là hình thức phân phối phù hợp nhất
trong điều kiện vừa thực hiện CNH, HĐH vừa đảm bảo công bằng cho các thành viên
trong nền kinh tế hoạt động hiệu quả.
Câu 6: Trình bày và phân tích các loại hình và hình thức sở hữu trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở nước ta. Hãy cho biết trong điều kiện đã có nhà nước “của
dân, do dân và vì dân” thì có thể sáp nhập hai hình thức sở hữu toàn dân và sở
hữu nhà nước thành một hay không? Tại sao?
12
Quá độ lên CNXH là quá trình tiến tới một chế độ xã hội mới với nền KT phát
triển có LLSX hiện đại dựa trên nền tảng của chế độ công hữu về những tư liệu sản
xuất chủ yếu: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân.
Mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng có một loại hình sở hữu đặc trưng, giữ
vai trò chủ đạo, đồng thời còn có các loại hình sở hữu khác cùng tồn tại. Thực tiễn của
thế giới đương đại cho thấy, ở bất cứ nước nào, dù nước đó phát triển và chế độ chính
trị có khác nhau vẫn tồn tại khách quan nhiều loại hình sở hữu, trong đó có một loại
hình sở hữu giữ vai trò thông trị và là tên gọi chung của chế độ sở hữu đó. Ví dụ, chế
độ sở hữu nô lệ, phong kiến, TBCN…
Mỗi loại hình sở hữu có nhiều hình thức sở hữu nhất định, có một loại hình sở
hữu đặc trưng, hoặc đan xen các hình thức sở hữu khác nhau. Trong đó bao giờ cũng
có một loại hình sở hữu thống trị chi phối căn bản hệ thống KTXH.
Trước đây, quá độ lên CNXH được quan niệm là quá trình làm đơn giản hóa
các loại hình, hình thức sở hữu, nóng vội muốn có ngay chế độ công hữu (sở hữu toàn
dân, sở hữu nhà nước và sỏ hữu tập thể). Mỗi loại hình sở hữu lại có nhiều hình thức
sở hữu cụ thể khác nhau. Ví dụ: Loại hình công hữu có thể tồn tại dưới hình thức sở
hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể…Loại hình sở hữu tư nhân bao gồm tư
hữu nhỏ, tư hữu lớn, tư hữu của một nhóm (Công ty TNHH…). Loại hình sở hữu hỗn
hợp bao gồm: Sở hữu trong doanh nghiệp TBNN, tư nhân và tập thể…Những hình
thức sở hữu cụ thể luôn biến động, linh hoạt và ngày càng xuất hiện thêm những hình
thức sở hữu mới toàn diện hơn.
Nhận thức mới cần phải xác lập một chế độ đa dạng các loại hình và hình thức
sở hữu. Ngày này, theo nhận thức mới, quá độ lên CNXH là quá trình vận dụng đa
dạng các loại hình, hình thức sở hữu làm cho các hình thức sở hữu phù hợp với sự
phát triển của LLSX. Nhờ đó mà khai thác mọi tiềm năng của LLSX hiện thực của
nền kinh tế.
Trên thực tế của hơn 15 năm đổi mới, ở nước ta đã diên ra quá trình khắc phục
chế độ công hữu hình thức, có tính áp đặt, đã xuất hiện nhiều loại hình, hình thức sở
hữu ngày càng phong phú. Nhờ đó mà khai thác mọi tiềm năng của các thành phần
KT, làm cho quan hệ sở hữu phù hợp, kích thích sự phát triển lực lượng sản xuất. Giải
quyết đúng QHSX chính là giữ được nguồn nuôi dưỡng động lực KT cho sự ổn định
KTXH.
Từ góc độ giải phóng sức sản xuất, khai thác mọi tiềm năng để phát triển KT thì
có thể coi việc sử dụng các loại hình sở hữu như là phương tiện để phát triển KT.
Song, xét bản chất, định hướng lâu dài thì phải coi việc củng cố, hoàn thiện chế độ
công hữu XHCN như là mục đích để xây dựng nền tảng KT cho sự phát triển theo
định hướng XHCN ở nước ta.
Trong điệu kiện đã có nhà nước “của dân do dân và vì dân” thì không thể sáp
nhập hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước thành một.
Ngoài tính thống nhất giữa các thành phần KT trong thời ký quá độ lên CNXH
ở nước ta, có thể nói nền KT nhiều thành phần là cơ sở cho sự tồn tại giai cấp hoặc
tầng lớp XH khác nhau. Trong cơ cấu XH- giai cấp ấy, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp XH,
13
các chủ thể sản xuất KD thuộc các thành phần KT đều có những lợi ích KT riêng vừa
thống nhất, vừa mâu thuẫn.
Mỗi thành phần KT có đặc điểm riêng về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất.
Trên cơ sở đó, ở mỗi thành phần KT, ngoài các quy luật KT chung còn có các
quy luật KT đặc thù, hoạt động, chi phối mỗi thành phần.
Như vậy mỗi thành phần KT mang bản chất KT khác nhau, lợi ích khác nhau,
thậm chí đối lập. Mâu thuẫn giữa các TPKT làm cho cạnh tranh trở thành tất yếu, nhà
nước cần tạo môi trường thuận lợi. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa một bên là KTNN, KT
tập thể, và KTTB nhà nước với một bên là tính tự phát của KT tư nhân là mâu thuẫn
nổi bật.
Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác, từng thành phần KT tồn tại với tư cách là
đơn vị sản xuất hàng hóa đều đóng góp vào sự phát triển chung của nền KT và cần có
sự quản lý của NN nhằm đảm bảo nền KT phát triển nhanh, đem lại thắng lợi cho
CNXH. Các thành phần KT cần được thừa nhận và tạo điều kiện để chúng tồn tại,
phát triển, đồng thời bình đẳng trên mọi phương diện./.
Câu (tham khảo thêm): Trình bày các hình thức sở hữu trong mỗi loại hình. Không
thể đồng nhất “ sở hữu toàn dân” và “sở hữu nhà nước” được vì không thể có nhà
nước toàn dân. Toàn dân và nhà nước là 2 chủ thể sở hữu khác nhau và chúng phù hợp
với các đối tượng sở hữu khác nhau.
Trả lời:
1. Các loại hình và các hình thức sở hữu (SH) ở nước ta hiện nay
Trước đây chúng ta chỉ thừa nhận chủ yếu loại hình công hữu với hình thức sở
hữu toàn dân, nhà nước, tập thể. Ngày nay đã thừa nhận có các loại hình sở hữu như
công hữu với các hình thức sở hữu: Sở hữu toàn dân, Nhà nước, tập thể; Sở hữu tư
nhân với hình thức tư nhân, cá thể, tư bản tư nhân; Sở hữu hỗn hợp gồm các hình thức
tư bản nhà nước, liên doanh liên kết.
Nhận thức này tạo cơ sở cho nền kinh tế nhiều thành phần phát triển.
Nhưng để hiểu rõ hơn thì trước tiên phải hiểu sở hữu là sở hữu tư liệu sản xuất
và quan hệ giữa người với người về việc chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải làm ra,
việc sử dụng tư liệu sản xuất đó. Sở hữu là một mặt của quan hệ sản xuất xã hội, chế
độ sở hữu (CĐSH) là sự thừa nhận về mặt pháp lý, các hình thức sở hữu trong các
hình thái kinh tế xã hội nhất định, là ý chí của giai cấp thống trị, được thể chế thành
pháp luật. Nó là vấn đề căn bản của một chế độ KTXH, bao gồm tổng thể những quy
định của nhà nước để thể hiện và thực hiện quyền sở hữu. Nó xác định loại hình và
hình thức SH đóng vai trò nền tảng của một chế độ KTXH. Vì thế, chế độ SH trở
thành một trong những tiêu chí cơ bản để phân định các hình thái KTXH trong lịch sử
nhân loại. Chế độ SH quy định các quyền của chủ thể dưới hình thức pháp lý đối với
14
đối tượng SH, đối với các quyền SH,chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, thừa kế, thế chấp.
Trong đó, hai nhóm quyền SH và sử dụng là quan trọng nhất.
Các loại hình SH và hình thức SH: Mỗi phương thức sản xuất tùy theo sự phát
triển của lực lượng sản xuất mà có một vài quan hệ SH tương ứng đối với TLSX gọi là
hình thức sở hữu. Các hình thức sở hữu khi phân định theo tính chất XHH thì được
gọi là hình thức SH.
Trong lịch sử nhân loại đã tồn tại hình thức SH đặc trưng công xã nguyên thủy,
tư hữu nô lệ, tư hữu phong kiến, tư hữu TBCN và công hữu XHCN. Quy lại có 3 loại
hình: Công hữu, tư hữu, sở hữu hỗn hợp. Trong mỗi loại hình sở hữu, tùy thuộc vào
trình độ phát triển khác nhau của LLSX mà có các hình thức SH khác nhau. Trên cơ
sở đó, các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh được xác lập và vận
hành. Việc nhận thức và xử lý những vấn đề SH không phải đơn giản mà phức tạp, đòi
hỏi phải có quan điểm tiếp cận đúng đắn. Cần nắm vững nguyên lý lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin và TTHCM khi nghiên cứu và tiếp cận giải quyết vấn đề.
SH là phạm trù kinh tế khách quan và là một mặt của QHSX. Do vậy, nghiên
cứu SH không thể tách rời khỏi LLSX, quan hệ SH vừa là kết quả, vừa là điều kiện
phát triển của LLSX. Các hình thức SH và loại hình SH xuất hiện, tồn tại, chuyển hóa
thay thế lẫn nhau là một quá trình lịch sử tự nhiên.
2. Không thể đồng nhất “Sở hữu toàn dân” với “Sở hữu Nhà nước” vì SH toàn
dân do dân có quyền định đoạt và sử dụng. Còn sở hữu Nhà nước thì nhà nước có
quyền sử dụng nhưng dân không có quyền sử dụng tài sản của Nhà nước quản lý./.
15