Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tiểu luận cơ sở văn hóa đặc điểm làng việt truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp. Nền văn minh lúa nước gắn liền
với văn hố xóm làng trong lịch sử phát triển của đất nước ta. Trải qua hàng
nghìn năm, làng quê yên bình với nhiều nét đặc trưng truyền thống đã in sâu
vào tâm trí bao thế hệ con cháu đất Việt và trở thành những giá trị thiêng
liêng của văn hố xóm làng.
Qua nhiều thời kỳ lịch sử; ngày nay, Việt Nam đang bước vào thời đại
tồn cầu hố và hội nhập quốc tế. Khơng nằm ngồi sự phát triển ấy, xóm
làng Việt Nam cũng chuyển mình, có nhiều sự thay đổi để bắt kịp với đất
nước. Tuy nhiên; trên con đường đổi mới nền văn hố xóm làng trong thời đại
mới, chúng ta cũng cần chú trọng lưu giữ và bảo tồn những nét văn hố xóm
làng đã hình thành lâu đời, để nét đặc trưng của làng Việt truyền thống không
bao giờ bị lãng quên.
Do vậy, em lựa chọn nghiên cứu đề tài “Đặc điểm làng Việt truyền thống”
nhằm tìm hiểu về đặc điểm của một đơn vị xã hội cơ sở trong hệ thống xã hội
Việt Nam: làng. Có nghiên cứu về văn hố làng xã truyền thống, người ta mới
nhận thức đầy đủ xã hội và văn hoá Việt Nam trong lịch sử cũng như trân
trọng, bảo tồn những giá trị truyền thống ấy ở thời đại ngày nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Tiểu luận được thực hiện với mục đích làm rõ những đặc điểm của làng
Việt truyền thống, từ đó thấy được tầm quan trọng của đặc điểm truyền thống
ấy trong đời sống xã hội Việt Nam xưa.
Muốn đạt được mục đích nghiên cứu trên, cần thực hiện những nhiệm vụ
sau:
 Khái quát những nhận thức chung về làng, lịch sử hình thành và phát
triển cũng như chức năng của làng;
5


 Làm rõ đặc điểm của làng Việt truyền thống.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu bao gồm những làng truyền thống với những đặc
điểm đặc trưng của làng xã Việt Nam xưa.
Phạm vi nghiên cứu giới hạn ở các làng xã trong phạm vi lãnh thổ Việt
Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, em chủ yếu sử dụng những phương pháp:
 Phương pháp thu thâp thông tin: nghiên cứu đối tượng để thu được
những thông tin đa dạng, cụ thể nhất;
 Phương pháp nghiên cứu tài liệu: phân tích tư liệu tham khảo, những
cơng trình nghiên cứu đã có trước đó;
Các nguồn tư liệu được sử dụng nhằm mục đích tham khảo bao gồm
những tư liệu thành văn được xuất bản trong nước và tài liệu internet.
5. Cơ sở lý luận:
 Lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin đối với vấn đề nghiên cứu văn hố học;
 Tư tưởng Hồ Chí Minh đặt ra cái nhìn gắn lý luận với thực tiễn văn hố
Việt Nam.
6. Bố cục:
Tiểu luận bao gồm các phần chính:
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương I: Nhận thức chung về làng
Chương II: Đặc điểm làng Việt truyền thống
KẾT LUẬN

6


NỘI DUNG
Chương I

NHẬN THỨC CHUNG VỀ LÀNG
1. Khái niệm về làng:
Theo “Giáo trình cơ sở văn hố Việt Nam” (PGS.TS Phạm Ngọc Trung,
Nhà xuất bản Hà Nội, 2013), làng được định nghĩa là “một tổ chức xã hội của
cư dân nơng nghiệp, được hình thành trong một giai đoạn lịch sử nhất định
trên cơ sở cộng cư của các gia đình, các dịng họ có cùng huyết thống hoặc
khơng cùng huyết thống, có sở hữu chung về một số tư liệu sản xuất cơ bản
như: ruộng đất, sông hồ, đồng cỏ, núi đồi... đồng thời cư dân cùng làng có
phong tục, tập quán chung và vị thần thánh chung để tơn thờ. Các thành viên
trong làng có quan hệ gắn bó với nhau về vật chất cũng như tinh thần”.

Làng lụa Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội).
2. Nguồn gốc của làng:
Làng là đơn vị cơ bản hình thành nên quốc gia, dân tộc. Sự liên kết giữa
các làng, xã tạo nên nước. Làng gắn kết cá nhân, gia đình với làng xã, Tổ
quốc; giữ vai trò quyết định trong quá trình dựng nước về giữ nước của dân

7


tộc. Mỗi làng là tập hợp các khuôn viên bao quanh bởi rặng tre. Làng Việt
xưa thường xuất hiện hình ảnh đặc trưng là đình, chùa, miếu mạo.
Ở Việt Nam, làng được hình thành từ 3 yếu tố của thực thể không thể tách
rời là nông nghiệp – nông thôn – nông dân mà bây giờ được gọi là “tam
nông”. Trong cuộc sống đời thường, từ “làng” được sử dụng phổ biến hơn cả
với nhiều hàm nghĩa tình cảm, phi hành chính như: “làng ta”, “làng mình”,
“người làng”, “sống ở làng, sang ở nước”,… Vì có nguồn gốc bản địa sâu xa
và bền vững, nên trong lịch sử, làng là đơn vị khá ổn định không dễ thay đổi.
Làng Việt đã trở thành một thực thể xã hội dựa trên quan hệ láng giềng kết
hợp với quan hệ huyết thống, là môi trường sinh hoạt gắn liền với đời sống

của người dân Việt Nam từ bao đời nay.
3. Chức năng của làng:
Làng có chức năng giữ gìn trật tự, an ninh thuộc địa bàn quản lý, hướng
dẫn và buộc mọi thành viên làng xã hoặc những người từ nơi khác đến phải
tn thủ những quy định của làng.
Làng cịn có chức năng hành chính: thực hiện thu thuế, thu tơ, bắt phu, bắt
đi lính theo lệnh của triều đình. Làng cũng có chức năng kinh tế nhằm bảo vệ
nguồn tài nguyên chung của dân làng, hoặc phân chia lại ruộng đất công của
làng xã theo quy định trong Hương ước và giữ gìn mơi trường sản xuất, mơi
trường sống của người dân trong sạch, trật tự.
Bên cạnh đó, chức năng thực hiện nghi lễ tâm linh của làng cũng được thể
hiện qua các kiến trúc tôn giáo tâm linh để thờ các vị Thành Hoàng làng, thờ
Phật, thờ các vị thần thánh, tổ nghề,…

8


Chương II
ĐẶC ĐIỂM LÀNG VIỆT TRUYỀN THỐNG
1. Cơ cấu hành chính và diện mạo văn hố:
1.1. Cơ cấu hành chính:
Làng là không gian cộng cảm, cộng cư, cộng mệnh, cộng tồn của một cộng
đồng dân cư nhất định. Có ba biểu tượng để xác định khơng gian văn hố của
làng: cây đa, bến nước, sân đình.

Cây đa, bến nước, sân đình trong tranh vẽ làng q Việt Nam.
Dựa theo tính chất của q trình lao động sản xuất, có thể xác định ba loại
hình làng Việt truyền thống cơ bản sau đây:
 Làng thuần nơng: loại hình chiếm ưu thế lớn nhất, là những làng quê
hoàn toàn dựa vào hoạt động nơng nghiệp, trong đó lấy trồng trọt là

ngành nghề chủ yếu, phổ biến của dân làng. Họ có thể trồng các loại
cây lương thực, cây công nghiệp hay các cây ăn quả tùy theo từng
vùng miền.
 Làng nghề: về cơ bản vẫn không tách rời sản xuất nông nghiệp, nhưng
đại đa số cư dân trong làng có thêm một nghệ sản xuất ra một loại sản
phẩm nào đó như làng gốm Bát Tràng, làng đồ gỗ Đồng Kỵ, làng đúc
đồng Ngũ Xã,... Sản phẩm họ sản xuất ra không để sử dụng mà là để

9


bán ra thị trường cho người sử dụng, quy mô sản xuất mở rộng, khơng
cịn mang tính chất tự cấp, tự túc như ở làng thuần nông.
 Làng chài (vạn chài): là làng được hình thành ở một số vùng ngã ba
sông hoặc ở cửa sông, cửa biển. Cư dân vạn chài phần lớn lấy thuyền
làm nhà và phương tiện đi lại trên sông, biển để đánh bắt cá tôm. Cư
dân vạn chài có chung tín ngưỡng thờ cúng thủy thần, thờ cúng Quan
Thế Âm Bồ Tát và thờ cúng tổ tiên.
Về cơ cấu hành chính, làng được xác định là đơn vị xã hội tổ chức bởi ba
vòng tròn đồng tâm: tầng lớp kỳ dịch, tầng lớp kỳ mục và dân cư. Tầng lớp kỳ
dịch là diện mạo hành chính của làng, thường là lý trưởng và các chức sắc
được lựa chọn theo nguyên tắc dân chủ, cũng có thể là được tiến cử hoặc mua
bán bằng tiền. Trong trường hợp thứ hai, chức dịch sẽ trở thành cường hào ác
bá ở nông thôn, gây sâu sắc thêm mối hận thù giữa tầng lớp nông dân và địa
chủ phong kiến. Khi trong làng cần có một lý trưởng, quan phủ quan huyện sẽ
lệnh cho dân tổ chức bầu lý trưởng tại đình làng. Tờ trình bầu cử phải được
tầng lớp kỳ mục ký duyệt, sau đó trình lên quan phủ quan huyện, lý trưởng
mới được lĩnh triện.
Tầng lớp kỳ mục được cơ cấu từ các già làng, quan viên và bậc cha chú.
“Kỳ” là già cả, “mục” là chủ yếu – họ là những người già giữ vai trò chủ chốt

trong làng, là hiện thân của truyền thống và kinh nghiệm. Họ có nhiệm vụ bàn
bạc tập thể và quyết định các công việc của làng, xã. Đôi lúc, kỳ dịch chỉ là
chức danh “bù nhìn”, kỳ mục mới là hữu thực vô danh.
Tầng lớp thứ ba – dân cư là lực lượng quan trọng nhất, quyết định việc tạo
dựng nền văn hoá làng. Dân cư trong làng thường có hai loại: dân chính cư
(nội tịch) và dân nhập cư (ngoại tịch). Dân chính cư là dân gốc ở làng ấy, còn
dân ngụ cư là dân từ nơi khác đến. Dân chính cư được chia thành 5 hạng:
 Chức sắc: gồm những người đỗ đạt hoặc có phẩm hàm;
 Chức dịch: gồm những người đỗ đạt hoặc có phẩm hàm;
10


 Lão: những người thuộc hạng lão trong các giáp;
 Đinh: trai đinh trong các giáp;
 Ti ấu: hạng trẻ con của các giáp.
Sự phân biệt giữa dân ngụ cư và dân ngụ cư hết sức gắt gao: dân chính cư
được hưởng đầy đủ quyền lợi; còn dân ngụ cư khơng có bất cứ một quyền lợi
gì: khơng được tham gia và các giáp (hình thức tổ chức nơng thơn theo truyền
thống nam giới), chỉ được dựng nhà ở rìa làng, phải làm những cơng việc mà
dân chính cư khơng muốn làm như làm thuê, làm mõ,.. Trong khi đó, dân ngụ
cư vẫn phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ như dân chính cư: nộp sư thuế, bị điều
đi phu đi lính,… Dân ngụ cư muốn trở thành dân chính cư phải có ruộng đất ở
làng, phải cư trú ở làng từ ba đời trở lên. Điều kiện thứ nhất đảm bảo sự gắn
bó với đất đai, bởi đất đai không dễ mang theo như tiền; điều kiện thứ hai
đảm bảo con cháu của dân ngụ cư đã yên tâm sinh sống ở đây. Hơn nữa, dân
ngụ cư phải làm lễ khao cả làng khi được công nhận là dân chính cư.
Nhiều ý kiến cho rằng sự đối lập giữa dân chính cư và dân ngụ cư là một
kiểu phân biệt đối xử, coi khinh coi rẻ thân phận con người. Trên thực tế, việc
đối xử khắt khe với dân ngụ cư là con đẻ của chế độ văn hoá nơng nghiệp, là
phương tiện duy trì sự ổn định của làng xã. Nó hạn chế việc người dân bỏ

làng ra ngồi và hạn chế việc có người ngồi vào sống ở làng. Nếu bỏ làng
mình ra đi, bất kì ai cũng sẽ chịu cảnh không nơi dung nạp, rơi vào thân phận
đáng sợ của dân ngụ cư. Ngược lại trong làng xã Việt Nam xưa, người nơng
dân cũng gắn bó với làng xóm q hương, với nơi chơn rau cắt rốn bằng tình
u đất, tình u làng. Đó là tình cảm máu thịt với nơi quê cha đất tổ, thậm
chí có người thà li nơng chứ khơng thể li hương. Thực chất, đó chính là hệ
quả của nhu cầu ổn định làng xã, người ta sợ rơi vào cảnh khốn khổ của dân
ngụ cư nên không dám đi đâu. Nhưng chính người nơng dân cũng mang sẵn
trong mình một định kiến nghiệt ngã, khi dân chính cư ln nhìn dân ngụ cư
bằng con mắt nghi ngờ, soi mói. Định kiến đó tạo nên nét tâm lý hai mặt của
11


người nông dân trong làng xã Việt Nam, thể hiện trong hai đặc điểm cơ bản
mà làng quê nào cũng có, đó là tính cộng đồng và tính tự trị với cả mặt tích
cực lẫn hạn chế trong đời sống.
Cách thức tổ chức bộ máy hành chính xã thơn Việt Nam như vậy đã được
hình thành dần dần như một sản phẩm lịch sử của quá trình phát triển văn hoá
dân tộc.
1.2. Diện mạo văn hoá:
1.2.1. Hương ước:
Hương ước là thứ luật làng đã được đúc kết từ lệ tục, được phát triển và
xây dựng thành văn bản luật có tính pháp lý, thành chuẩn mực điều tiết hành
vi ứng xử của mọi thành viên trong cộng đồng làng. Hương ước còn được gọi
bằng những cái tên: hương biên, hương khoán,...
Sự ra đời của các Hương ước là do thực tế phát triển của các làng: dân số
đông lên, sinh hoạt đa dạng, các tầng lớp hình thành và phân hố rõ rệt, sự
khác nhau trong đóng góp với cộng đồng, sự hưởng thụ quyền lợi của các loại
thành viên,... Có những vấn đề của làng quê, tự người dân phải quy ước với
nhau để điều khiển trật tự xã hội của làng mình.

Hương ước thường có ba phần: lý do soạn thảo Hương ước, nội dung
Hương ước thông qua các chương và điều khoản, quy định về cách thức tổ
chức thực hiện. Các bản Hương ước thường dài ngắn khác nhau, có bản có
đến hàng trăm điều khoản.
1.2.2. Văn hoá làng thể hiện qua Hương ước:
Văn hoá làng thể hiện rõ nhất qua Hương ước. Hương ước phải được nhân
dân đóng góp ý kiến thảo luận và đạt được tính thống nhất nhằm phát huy
truyền thống văn hố, gìn giữ tình làng nghĩa xóm. Trong nội dung của hương
ước có những điều khoản quy định về việc cưới, việc tang, quy định về tổ
chức lễ hội, quy định về việc khuyến học, quy định về việc tổ chức các hoạt
động văn hố, văn nghệ nhằm xây dựng mơi trường văn hoá lành mạnh, xoá
12


bỏ các nghi lễ, tục lệ phiền hà. Mọi sinh hoạt tinh thần phải được tổ chức sao
cho phù hợp với thuần phong mỹ tục, vui tươi lành mạnh và có tính giáo dục
cao. Quy định về quản lý và xây dựng đời sống và trật tự an ninh trong thôn
cũng được triển khai với những điều khoản cụ thể để mọi thành viên trong
thơn cùng có ý thức thực hiện. Nếu vi phạm Hương ước sẽ bị kỷ luật, cịn
hồn thành tốt sẽ được tun dương, khen thưởng.
Lấy ví dụ, quy ước của bản Hùng Nhĩ, xã Cự Thắng, huyện Thanh Sơn
quy định rõ việc không được bán nhà sàn đã có 50 tuổi ra khỏi làng, quy định
ngày lễ Tết người dân trong bản mặc trang phục truyền thống của dân tộc
mình. Hương ước của bản Lạng, xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn lại cấm chặt
cây, hái củi trong rừng nguyên sinh Xuân Sơn, không chặt phá, khai thác
thạch nhũ trong các động, các hang, bảo vệ con nước, thác nước trong các khu
rừng của địa phương.
Khi toàn dân đã cam kết thực hiện theo những quy định mà Hương ước đề
ra là lúc bản Hương ước đã có hiệu lực thi hành. Được xây dựng dựa trên lệ
tục nhưng chính Hương ước là luật pháp của làng để xây dựng diện mạo văn

hố làng, có thể được nhìn nhận ở những phương diện cơ bản như văn hoá vật
chất, văn hoá tinh thần, các thiết chế văn hố, các phong tục tập qn, mơi
trường cảnh quan làng xã, sự ổn định và phát triển của đời sống kinh tế...
Hương ước thể hiện chức năng hành chính của làng, từ đó một đặc điểm nổi
bật của văn hố làng được xác định, đó là tính tự trị.
2. Hoạt động kinh tế của làng:
Trái với hoạt động kinh tế mang tính chất tự cung, tự cấp của gia đình,
hoạt động kinh tế của làng thể hiện tính cộng đồng trong văn hoá lối sống.
Biểu hiện đầu tiên của hoạt động kinh tế trong làng Việt nằm ở sự lựa chọn
phương thức sản xuất: nếu cả làng đều lựa chọn sản xuất nơng nghiệp thì diện
mạo của làng sẽ là làng thuần nông. Nếu dân cư tập hợp thành cộng đồng nhỏ
với mỗi gia đình dùng thuyền để vừa làm nhà ở, vừa là phương tiện giúp họ
13


đánh bắt thuỷ hải sản trên sơng nước thì làng đó là làng chài. Như vậy;
phương thức sản xuất, tư liệu sản xuất, đối tượng lao động và lực lượng sản
xuất đều là chun, phương thức quản lý và phân phối sản phẩm sẽ dựa vào
nguyên tắc bình quân chủ nghĩa. Điều hành hoạt động kinh tế của làng là ban
chủ nhiệm hợp tác xã; sức lao động của mỗi người được định lượng bằng
cách ghi cơng, tính điểm, tài sản được dùng chung như công điền, công thổ,
công quỹ; trâu bò, đất đai cũng của chung hợp tác xã, lực lượng sản xuất và tư
liệu sản xuất cũng là xã viên của hợp tác xã. Có thể nói trong hoạt động kinh
tế của làng Việt truyền thống, người Việt Nam không tách rời cá nhân ra khỏi
cộng đồng mà ngược lại. Cách thức tổ chức hoạt động kinh tế này làm nảy
sinh một nguyên tắc, một lối sống, một đặc điểm mang tính tổng quát của mọi
làng Việt truyền thống, đó là tính cộng đồng.

Chợ q – một trong những đặc điểm của làng Việt truyền thống.
Hoạt động kinh tế làng còn mang sắc thái của hoạt động kinh tế trao đổi

hàng hố. Những lúc nơng nhàn, mỗi gia đình Việt Nam sẽ tổ chức hoạt động
sản xuất trong phạm vi gia đình và mang những sản phẩm ấy trao đổi trong
cộng đồng làng xã. Dần dần, một hoạt động vừa mang yếu tố kinh tế, vừa
mang yếu tố văn hố xuất hiện, đó là chợ q. Chợ q thường nhỏ, được họp
một lúc vào buổi sáng sớm ở bãi đất trống đầu làng.
14


Chợ quê truyền thống mang tính chất tự cấp, tự túc, hạn chế trong khuôn
viên làng hoặc liên làng (huyện), khơng hình thành thị trường lớn quy mơ
vùng hoặc quy mô quốc gia. Thông thường, người ta sẽ trao đổi các mặt hàng
nông sản, lâm sản, thực phẩm và hàng thủ công mỹ nghệ ở chợ. Đây là nét
sinh hoạt văn hóa và kinh tế cần thiết của cư dân các làng xã. Trong chợ,
những hàng cố định như lò rèn, hàng may, hàng cắt tóc, hàng nhuộm,… hoạt
động gần như chuyên nghiệp, bởi nhu cầu về họ cũng thường xuyên hơn. Cái
chợ cũng là chỗ giao dịch và làm quen tốt.
Chợ q Việt Nam khơng chỉ có chức năng kinh tế, mà cịn mang chức
năng văn hố. Người dân trao đổi hàng hố khơng chú trọng nhiều đến lợi
nhuận, họ cần một khơng gian để giao tiếp hơn. Có những người đi chợ với
tinh thần của người đi hội, họ chủ yếu đến chợ để nhìn, ngắm và giao lưu. Với
những nét đặc trưng trên, chợ quê đã trở thành hình thức sinh hoạt phổ biến
của nền văn hố nông nghiệp làng xã.
Trong một thời kỳ phong kiến, thương mại khơng được chú trọng, cịn
chịu chính sách trọng nơng ức thương. Con cái của người buôn bán – hay cịn
được gọi là “con bn” – khơng được đi thi và phải đóng nhiều thuế tạp vụ
hơn. Dưới góc độ kinh tế, thương mại như vậy vẫn ở mức thô sơ, khơng đem
lại sự tích luỹ vốn tư bản. Dân số khi thốt khỏi tình trạng lệ thuộc tự nhiên,
tự sẽ có nhu cầu trao đổi, mua bán; một số vùng sản xuất có tính chun canh,
chun nghề như làng gốm Bát Tràng, làng lụa Hà Đông,… cần bán đi những
sản phẩm của mình. Dần dà, trong nước hình thành 3 khu chợ lớn: Thăng

Long, Phố Hiến và Hội An. Dần dần, các chợ bắt đầu mở rộng buôn bán với
nước ngồi. Chợ khi đó trở thành phương tiện giúp văn hoá nội sinh vươn ra
giao lưu và hội nhập với văn hoá thế giới, tự làm giàu thêm bản sắc văn hố
của dân tộc Việt Nam.
Chợ cịn thúc đẩy sự phát triển về mặt kinh tế. Chợ quê phát triển thành
chợ huyện, rồi chợ tỉnh; văn hoá làng phát triển thành văn hố đơ thị. Đó lại là
15


sự chuyển biến từ chức năng kinh tế sang chức năng văn hoá, để các làng quê
tạo nên mối liên kết. Hơn nữa, người Việt còn biến chợ thành một biểu tượng
mang tính tâm linh, ví dụ như những phiên chợ tình nổi tiếng (chợ tình Sa Pa,
chợ tình Khau Vai,…) là nơi nam nữ hẹn hò. Những phiên chợ miền núi bên
cạnh chức năng kinh tế còn thường mang thêm màu sắc du hí.
Những phiên chợ miền núi có vai trị quan trọng trong giao lưu hàng hố
và văn hoá giữa các vùng miền. Việc trao đổi những nhu yếu phẩm khơng có
ở miền xi là cần thiết, qua đó những quan tâm đến văn hố hình thành theo
cách đơi bên cùng giữ gìn bản sắc văn hố của mình và học hỏi ít nhiều từ các
sắc tộc khác. Bên cạnh đó, cịn một hình thức chợ là chợ âm dương, thường
chỉ họp với mục đích siêu thốt cho linh hồn người đã khuất.
3. Tính cộng đồng và tính tự trị:
Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng gốc rễ của làng Việt truyền
thống, tạo nên những đặc điểm mang tính phổ quát. Hai đặc trưng trên cũng là
nguồn gốc sản sinh nhiều ưu điểm, nhược điểm trong tính cách của người
Việt Nam.
3.1. Tính cộng đồng:
Tính cộng đồng là một trong những nguyên tắc, lối sống, đặc điểm chung
mang tính phổ quát của làng Việt truyền thống. Đó là sự liên kết các thành
viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng tới người khác. Tính cộng
đồng biểu hiện trong trong tính cộng cảm, cộng cư, cộng mệnh, cộng sản –

cùng chung lối sống duy tình, chung số phận, chung khơng gian sinh tồn,
chung một nguồn tư liệu, chung một phương thức sản xuất.
Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình – bến nước – cây
đa. Đình là địa điểm người làng thực hiện nhiều công việc quan trọng. Các
hội hè trong làng cũng đều diễn ra ở đình. Bến nước là nơi người dân hàng
ngày gặp gỡ và cùng nhau chuyện trò. Cây đa cổ thụ to lớn, sừng sững thường
mọc ngay đầu làng, vừa là chốn nghỉ chân của người đi làm đồn về, vừa là nơi
16


gặp gỡ khách qua đường, mở cánh cửa sổ liên thơng với thế giới bên ngồi.
Có thể thấy hình ảnh sân đình – bến nước – cây đa gắn bó với tính tập thể
đồn tụ, một đặc trưng của tính cộng đồng.
Tính cộng đồng góp phần tăng cường tinh thần đồn kết, tương trợ và tính
tập thể. Nó nhấn mạnh vào sự đồng nhất trên nhiều phương diện: đồng tộc,
đồng hương, đồng nghiệp,… Do sự đồng nhất ấy, người Việt Nam có tính tập
thể rất cao, gắn bó cuộc sống của bản thân với cuộc sống chung của làng.
Tính cộng đồng tạo nên lối sống đoàn kết, tương thân tương ái, “thương
người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”. Người Việt Nam luôn sẵn
sàng giúp đỡ nhau trong mọi mặt đời sống. Người nông dân trong làng quê
Việt Nam xưa coi trọng tình làng nghĩa xóm, sẵn sàng “bán anh em xa, mua
láng giềng gần”. Họ cùng nhau làm việc để tạo ra của cải vật chất duy trì sự
sống; song chính phương thức hoạt động kinh tế mang tính cộng đồng khiến
người nơng dân sẵn sàng nhường cơm sẻ áo, chia sẻ cho nhau những giá trị
vật chất do hoạt động kinh tế mang lại. Tính cộng đồng cũng là ngọn nguồn
của nếp sống dân chủ - bình đẳng trong các làng xã, thể hiện qua các ngun
tắc tổ chức nơng thơn. Ví dụ, Hương ước muốn có hiệu lực thi hành thì trước
đó phải được người dân đóng góp ý kiến thảo luận và đạt được tính thống
nhất.
Bên cạnh mặt tích cực là chủ yếu, tính cộng đồng cũng thể hiện một số

khía cạnh tiêu cực. Do sự đồng nhất và tính tập thể được đề cao, cái tôi cá
nhân bị hạ thấp, coi thường; ý thức cá nhân về cái tôi không được cao. Do lối
sống bao bọc, che chở cho nhau mà người dân trong làng cịn sinh ra thói dựa
dẫm, ỷ lại vào tập thể: “nước chảy bèo trôi”, tệ hơn là “cha chung khơng ai
khóc”. Đi cùng thói dựa dẫm cịn là tư tưởng “an phận thủ thường” và cả nể,
do sống q tình cảm mà đơi lúc khơng dám đứng lên đấu tranh, phê phán
những hiện tượng tiêu cực trong làng. Một hệ quả nữa là thói cào bằng, đố kỵ,
khơng muốn cho ai hơn mình: “xấu đều hơn tốt lỏi”. Chính tư tưởng này sẽ
17


dẫn tới việc người dân mất đi tinh thần lao động, tinh thần hăng say cống
hiến.
3.2. Tính tự trị:
Trái ngược với tính cộng đồng là tính tự trị: các làng tồn tại độc lập với
nhau và độc lập với triều đình phong kiến. Tính tự trị đề cao tính độc lập của
làng xã và của từng cá nhân trong làng: mỗi làng có đời sống độc lập, mỗi
người dân tự lập xây dựng đời sống riêng về ăn ở, mặc, đi lại,…
Biểu tượng của tính tự trị là hình ảnh luỹ tre làng. Rặng tre cao vút, bao
kín quanh thơn xóm, làng xã; trở thành thành luỹ bảo vệ làng trước mọi sự
xâm phạm từ bên ngoài. Luỹ tre đốt khơng cháy, trèo khơng được, đào hầm
thì vướng rễ khơng thể chui qua. Mỗi người nông dân sống độc lập trong luỹ
tre bao quanh làng mình như vậy.
Tính tự trị tạo động lực cho lối sống tự lập. Bởi lẽ tính tự trị, tự quản nhấn
mạnh vào sự khác biệt, tạo nên cơ sở cho tính tự lập của mỗi cộng đồng khác
nhau: mỗi làng, mỗi tập thể hoạt động độc lập với các làng, các tập thể khác.
Nó tạo nên tính độc lập tương đối của mỗi làng xã, khiến cho “phép vua thua
lệ làng”. Điều này góp phần hình thành bản sắc, diện mạo độc đáo cho mỗi
làng, củng cố thêm sức mạnh cộng đồng, khiến mỗi làng có thêm sức mạnh tự
tin, tự quyết để điều hành cuộc sống của dân làng. Như vậy, tinh thần tự trị đã

biến mỗi làng xã Việt Nam thành một đơn vị xã hội độc lập. Tính tự trị cịn là
nguồn gốc cho lối sống cần cù và tinh thần tự cung tự cấp của người Việt
Nam. Vì mỗi làng hoạt động độc lập với các làng khác, người dân phải tự lo
liệu cho cuộc sống của mình nên họ có lối sống “bán mặt cho đất, bán lưng
cho trời” để tạo ra của cải vật chất phục vụ cuộc sống của mình. Mặt khác,
người Việt với nếp sống tự cung tự cấp cũng tự đáp ứng nhu cầu cho cuộc
sống của làng mình: mỗi nhà có vườn rau, chuồng gà, ao cá đảm bảo nhu cầu
về ăn; có rặng tre, bụi xoan, gốc mít đảm bảo nhu cầu về ở.

18


Đương nhiên, tính tự trị cũng có mặt tiêu cực. Nó vơ tình tạo ra sự cơ lập
giữa các làng cũng như giữa các làng với nước. Vì mỗi làng được coi như một
đơn vị xã hội độc lập với phong tục, tập quán khác nhau; quá trình hội nhập
văn hoá sẽ bị cản trở - từ hội nhập vùng miền tới văn hố thốn nhất của các
dân tộc. Tính tự trị, tự quản cũng là tác nhân khiến một bộ phận dân làng sinh
ra thói tư hữu, ích kỷ. Óc tư hữu ích kỷ này sinh ra từ tính tự trị và thói sống
độc lập của làng xã Việt, đã bị chính người Việt phê phán. Mặt khác, điều này
còn dẫn tới tư tưởng địa phương cục bộ: làng nào biết làng ấy, chỉ biết vun
vén cho địa phương mình, “trống làng nào làng ấy đánh”. Khi đứng trước
những nguy cơ đe doạ sự sống còn của cả cộng đồng, tinh thần đồn kết và
tính cộng đồng sẽ nổi lên; nhưng khi nguy cơ ấy qua đi rồi thì có thể thói tư
hữu, óc bè phái lại nổi lên. Một hệ quả tiêu cực nữa là tính gia trưởng, tính tơn
ti. Tự thân tính tơn ti khơng phải là xấu, nhưng khi gắn với tư tưởng gia
trưởng, nó khiến người ta có tâm lí áp đặt ý kiến của bản thân lên người khác,
tạo nên tư tưởng thứ bậc vô lý. Đây là một trong những tác nhân đáng sợ cản
trở sự phát triển trong xã hội.
4. Đôi nét về tín ngưỡng thờ Thành Hồng làng:
“Đại Việt sử ký toàn thư” (1968), tập 4, bản dịch Viện Sử học, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 97 ghi: “thần Thành Hoàng là biểu tượng
thiêng liêng nhất của cả làng, ở mỗi làng, khắp các làng xưa kia”. Thờ
Thành Hoàng có thể hiểu là thờ vị thần che chở, bảo bọc đời sống của
dân làng, bảo vệ sự bình yên và phát triển bền vững cho văn hoá làng.
Về nguồn gốc, tín ngưỡng thờ Thành Hồng làng du nhập vào Việt Nam
từ Trung Quốc nhưng gần như đã bị Việt hố. Nguồn gốc các vị thần được tơn
vinh làm thần Thành Hoàng làng của Việt Nam cũng khác với văn hố Trung
Quốc. Thành Hồng của các làng Việt cổ khơng phải lúc nào cũng thờ vị
thần bảo vệ làng mà chủ yếu thờ những người có cơng với dân với nước,
người lập ra làng, người truyền dạy một nghề nào đó cho dân làng, hoặc
19


là một ơng quan tốt, ví như: thờ Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Hồn, Dương
Đình Nghệ,... Nói chung, dù có sự tích, chức tước thế nào thì Thành
Hồng làng vẫn được coi là vị thần bản mệnh, là phúc thần che chở cho
làng.
Nơi thờ Thành Hồng làng là đình làng, vốn có nguồn gốc từ đình
dịch, đình trạm, đình qn. Về sau, đình làng được linh thiêng hố thành
nơi thờ vị thần quyết định phúc hoạ cho cả làng. Việc thờ cúng Thành
hồng được diễn ra thường xun thơng qua việc thắp đèn, hương hàng ngày.
Trong nghi lễ tế Thành Hoàng làng, phần lễ và phần hội là một tổng thể.
Phần lễ gồm một hệ thống hành vi biểu hiện sự tơn kính, biết ơn, sự mong cầu
của người dân đối với Thành Hoàng làng; được thể hiện trong văn tế nhắc đến
công trạng của các vị thần được thờ cúng tại đình. Đồng thời với tế và lễ,
người dân cịn tổ chức rước Thành Hồng, với ý muốn đưa thần đi thăm thú
làng quê, khoe với thần những công việc tốt đã làm được. Đó chính là hành
động thể hiện sự biết ơn sâu sắc, lịng tơn kính với người có cơng với làng,
với nước.
Thờ Thành Hồng làng là một trong những nét đặc trưng nhiều ý

nghĩa của người nông dân Việt Nam xưa. Thứ nhất, đây là nét văn hoá
thể hiện ý thức biết ơn đối với những người có cơng với làng xã. Thờ
cúng Thành Hồng của người Việt vừa là tín ngưỡng, vừa là đạo lý sống đối
với những người có cơng với làng xóm, đất nước; cũng là sự tôn vinh các bậc
tiền bối ở cấp độ làng xã.
Thứ hai, đây là truyền thống để người dân giữ gìn luật lệ, lề lối gia phong
của làng xã. Tín ngưỡng trên nhắc nhở con người phải yêu quý cộng đồng dân
tộc, đặc biệt là cộng đồng làng xã. Thờ Thành Hoàng làng thực chất là nét văn
hoá đặc trưng trong sinh hoạt văn hoá làng, sự giao lưu văn hố giữa các làng
xóm với nhau; là nơi để lưu giữ những phong tục, luật lệ của mỗi làng...

20


Thứ ba, tín ngưỡng thờ Thành Hồng làng giúp củng cố tinh thần đoàn
kết trong cộng đồng làng xã; khiến mỗi người cảm thấy rõ nhu cầu ngưỡng
vọng tâm linh, nhu cầu khơng thể sống một mình mà cần có thêm những
người khác nữa. Phải sống giữa cộng đồng, gắn kết với cộng đồng làng. Nếu
như sự thờ cúng tổ tiên là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong gia đình thì
sự thờ cúng thần Thành Hồng là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong cộng
đồng làng, xã.

21


KẾT LUẬN
Qua các cơ sở lý luận và thực tế ở trên, có thể đi đến kết luận như sau:
Việc nghiên cứu đặc điểm làng Việt truyền thống là việc làm cần thiết.
Tổ tiên người Việt đã lưu giữ những nét đặc trưng ấy qua hàng nghìn
năm dựng nước, giữ nước đầy gian khổ và mất mát. Không chỉ đối phó

với thiên tai tự nhiên, ơng cha ta cịn trải qua hàng nghìn năm chiến đấu
với giặc ngoại xâm để gìn giữ lãnh thổ, bảo vệ văn hố Việt Nam. Những
giá trị văn hố ấy chính là thước đo chiều dài lịch sử dân tộc. Đặc điểm
của làng Việt truyền thống giúp người Việt bảo tồn, giữ gìn bản sắc dân
tộc, ni dưỡng sức sống trường tồn của văn hố dân tộc.
Những đặc điểm của làng Việt truyền thống thể hiện trên rất nhiều
phương diện: kinh tế, văn hoá, con người,… Bề dày lịch sử của làng xã
Việt Nam thể hiện qua cách tổ chức cơ cấu hành chính, qua diện mạo văn
hoá và hoạt động kinh tế. Những đặc điểm của môi trường sống trong làng
xã Việt Nam xưa cũng ảnh hưởng tới con người Việt Nam xưa: cuộc sống
nơng nghiệp lúa nước và lối sống trọng tình dẫn đến sự hình thành nguyên lý
âm dương và lối ứng xử nước đơi. Người Việt vừa có tính đồn kết, tương trợ
lại vừa có óc tư hữu, ích kỷ, cào bằng. Vừa có tính tập thể hịa đồng lại vừa có
óc bè phái địa phương. Vừa có nếp sống dân chủ bình đẳng, vừa có tính gia
trưởng, tơn ty. Vừa có tính cần cù, tự cung tự cấp, vừa có thói dựa dẫm, ỉ lại.
Tùy nơi, tùy lúc mà điều kiện tốt xấu được bộc lộ.
Những đặc điểm đã trình bày ở trên, dù tích cực hay tiêu cực, đều có
thể nói là mẫu số chung cho văn hố làng Việt xưa, góp phần tạo nên văn
hố Việt Nam vừa đậm đà bản sắc dân tộc chung, vừa có những nét độc
đáo riêng theo từng vùng miền. Có thể coi văn hoá Việt Nam là bức tranh
tổng thể được tạo nên từ việc kết hợp văn hoá truyền thống của các làng.

22


Có thể trong tương lai xa, làng Việt sẽ khơng cịn nữa. Nhưng cho dù
làng Việt có biến mất, văn hố truyền thống của làng cũng vẫn cịn
trường tồn. Thế hệ người Việt ngày nay chính là những người có nhiệm vụ
bảo tồn, gìn giữ những nét đặc trưng của làng xã Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập: phát huy những đặc tính nhân văn, nhân bản, bản sắc của văn hóa Việt,

con người Việt, khắc phục những nhược điểm của tư tưởng sản xuất nhỏ, sẵn
sàng hội nhập, tiếp thu tinh hoa văn hóa thời đại. Văn hóa làng xã một lần nữa
trở thành thành trì, pháo đài bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Trên cơ sở tiếp
thu một cách có chọn lọc, đào thải những yếu tố văn hóa trái với thuần phong
mỹ tục của dân tộc để đưa đất nước hội nhập sâu trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Phạm Ngọc Trung (2013), Giáo trình cơ sở văn hố Việt
Nam;
2. PGS.TS Phạm Ngọc Trung (2018), Bản sắc văn hóa Việt Nam - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn;
3. TS. Nguyễn Thị Hồng (2016), Cơ sở văn hoá Việt Nam;
4. PGS. Vũ Ngọc Khánh (2007), Nghiên cứu văn hoá cổ truyền Việt
Nam;
5. PGS.TS Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hố Việt
Nam;
6. PGS.TS Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hoá Việt Nam;
7. />8. />9. />
24



×