Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Báo cáo biện pháp thi giáo viên giỏi môn ngữ văn 6, “tạo hứng thú học tập môn ngữ văn 6 thông qua hoạt động khởi động”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.75 KB, 17 trang )

BÁO CÁO
BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
Tên biện pháp:
“Tạo hứng thú học tập môn ngữ văn 6 thông qua hoạt động khởi động”
I. Tính cấp thiết của vấn đề
Chất lượng dạy và học là mối quan tâm hàng đầu trong môi trường giáo
dục hiện nay. Điều quan trọng đặt ra đó là “làm thế nào nâng cao được chất
lượng dạy và học?” Với mong muốn làm sao người dạy truyền đạt được kiến
thức dễ dàng và người học nắm bắt và vận dụng được kiến một cách hiệu quả
do vậy càng lúc càng đặt ra những yêu cầu gay gắt trong việc nâng cao chất
lượng giảng dạy. Đây cũng là mục tiêu mà mỗi người giáo viên đứng lớp ln
quan tâm, trăn trở muốn tìm ra những biện pháp tốt nhất để nâng cao chất
lượng dạy học. Bản thân tôi là một giáo viên dạy môn Ngữ Văn, ngoài việc
vận dụng tốt các phương pháp, phương tiện dạy học thì trong q trình giảng
dạy ln cố gắng tìm ra những biện pháp phù hợp để gây hứng thú, khơi gợi
niềm đam mê môn học với từng đối tượng học sinh.
Quả thực việc truyền cảm hứng (tạo hứng thú) học tập cho người học là
điều vô cùng quan trọng và cần thiết. Đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh là một yêu cầu cấp thiết đang đặt ra
với nền giáo dục nước nhà. Qua thực tế đứng lớp, tôi nhận thấy hoạt động
khởi động có ảnh hưởng khơng nhỏ đến tiến trình tiết dạy, đến việc chủ động
sẵn sàng tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh. Hoạt động
khởi động có thể được coi là “khúc dạo đầu của bản nhạc” “tạo con đường
hoa” cho học sinh bước đầu tiếp xúc tác phẩm, khơi gợi hứng thú đối với bài
học và hơn thế nữa còn khơi dậy niềm đam mê, gây dựng, bồi đắp tình yêu
lâu bền đối với môn học. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là: làm thế nào để tạo hứng
thú cho học sinh, lơi cuốn học sinh vào bài học? Phải làm gì để “thắp lửa đam
mê” đối với các em? Đặc biệt, trong chương trình học mơn Ngữ văn là mơn


2



học đặc thù và có vài trị quan trọng trong nhà trường. Ngồi việc cung cấp
kiến thức như các mơn học khác, mơn Ngữ văn cịn có nhiệm vụ to lớn trong
việc bồi đắp tư tưởng tình cảm, hướng tới những tình cảm cao đẹp, rèn luyện
tâm hồn trong sáng cho các em, chỉ có niềm đam mê mới đưa các em khám
phá đến tận cùng vẻ đẹp của những tác phẩm văn chương.
Xuất phát từ những lý do mang tính thực tiễn đó, tơi đã lựa chọn biện
pháp “Tạo hứng thú học tập môn ngữ văn 6 thông qua hoạt động khởi động”
để chia sẻ với đồng nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả đổi mới trong dạy học
môn Ngữ văn theo hướng phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh.
II. Thực trạng của vấn đề
1. Thuận lợi
Trước những đổi mới chung của ngành giáo dục về dạy học phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, về cơ bản giáo viên trong
trường THCS n Đổ nói chung và giáo viên bộ mơn Ngữ Văn nói riêng đã
có tinh thần đổi mới dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, phát huy
tính tích cực của học sinh. Về phía giáo viên, ln không ngừng phấn đấu
trau dồi kiến thức chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học, nắm vững mục
tiêu bài học để xây dựng, gợi mở những phương pháp tạo hứng thú cho học
sinh. Thường xuyên sử dụng các thiết bị dạy học để có thể sử dụng tốt cơng
nghệ thơng tin ứng dụng vào các khâu trong quá trình dạy học.
2. Khó khăn
-Về phía giáo viên: Hiện nay, việc thực hiện tiết dạy của giáo viên vẫn
cịn theo hình thức cũ: nặng về lý thuyết, thiếu đi tính hấp dẫn, lôi cuốn học
sinh ngay từ hoạt động giới thiệu bài; giáo viên còn xem nhẹ việc dẫn dắt vào
bài mà chủ yếu dành thời gian cho việc tìm hiểu kiến thức mới dẫn đến tiết
học khô khan, học sinh thụ động trong việc tiếp thu kiến thức.Trong phương
pháp dạy học truyền thống, chúng ta thường thấy những lời vào bài mượt mà,
trơn tru với câu từ bay bổng, trau chuốt của giáo viên. Để có được lời vào bài
đầy tính nghệ thuật như vậy địi hỏi giáo viên phải có sự am hiểu sâu sắc tác



3

giả, tác phẩm, nội dung bài học cùng những vấn đề có liên quan rồi chuyển
hóa thành câu từ kết hợp với giọng đọc hay nói diễn cảm, thuyết phục. Tuy
nhiên, lời vào bài có hay đến đâu cũng chỉ là hoạt động dành cho giáo viên là
chủ yếu. Bởi học sinh vẫn đóng vai trị thụ động lắng nghe. Thực tế còn cho
thấy hầu hết giáo viên khi thiết kế kế hoạch dạy học thường chỉ làm theo hình
thức giới thiệu qua một chút để vào bài, tâm lý giáo viên còn nặng về truyền
thụ kiến thức bài học mới, còn sợ dành nhiều thời gian cho khâu giới thiệu
bài có thể bị “cháy giáo án” hoặc khơng đủ thời gian dành cho việc khai thác
kiến thức mới. Một tiết học gây được sự chú ý, kích thích được sự tò mò của
học sinh phải xuất phát ngay từ đầu tiết dạy để tạo nên hứng thú cho học sinh
trong suốt quá trình diễn ra tiết học, tuy nhiên trên thực tế, bản thân các nhân
tôi và hầu hết giáo viên khi thiết kế bài dạy thường chỉ làm theo hình thức
giới thiệu một chút để vào bài. Do đó tiết học tương đối khơ khan, thiên về lý
thuyết, thiếu đi sự hợp tác tích cực của học sinh. Bên cạnh đó, việc ứng dụng
cơng nghệ thơng tin của giáo viên trong một số tình huống chưa tốt nên còn
ngại trong việc đổi mới phương pháp dạy học và thiết kế giáo án theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động giới thiệu bài.
- Về phía học sinh: Mơn Ngữ Văn là mơn học đặc thù, khi học thì phải
khai thác từ hệ thống ngơn từ mới có thể cảm nhận được cái hay, cái đẹp của
tác phẩm văn học. Do vậy, từ tâm lý ít trau dồi, ngại đọc văn bản, muốn lướt
qua cho nhanh, với tâm lý làm cho xong nhiệm vụ giáo viên yêu cầu, hầu hết
các em không hứng thú và ít quan tâm đến môn Ngữ văn, thậm chí không
thích tìm hiểu nghiên cứu và tập trung nhiều hơn ở các môn khoa học tự
nhiên.
III. Các giải pháp cụ thể
1. Giáo viên nắm chắc mục tiêu bài học và các yêu cầu, phương pháp

cơ bản để tổ chức hoạt động khởi động
Trước khi xây dựng các hình thức để tổ chức hoạt động khởi động, giáo
viên cần nắm chắc mục tiêu và nội dung bài học. Tùy vào từng bài dạy, đặc


4

biệt là tùy vào từng mục tiêu riêng của từng bài học mà lựa chọn những hình
thức phù hợp. Tuy nhiên hoạt động khởi động cũng cần phải làm nổi bật được
yêu cầu mũi nhọn của bài, nổi bật mối quan hệ giữa các phần và nội dung bài
học, làm nổi bật tính khái quát, tập trung, tính thú vị, hấp dẫn trong nghệ
thuật dạy học nhưng cần đơn giản, dễ hiểu, giúp học sinh hứng thú khi tìm
hiểu bài.
Thời lượng lên lớp để tổ chức 1 tiết dạy chỉ có 45 phút, do vậy khi soạn
giảng cũng như khi lên lớp không nên đầu tư quá nhiều thời gian vào nội
dung này. Giáo viên chỉ dành 5 phút để khởi động vào bài mới bằng nhiều
cách. Như vậy, hoạt động khởi động không những phải phong phú, hấp dẫn
mà cịn cần ngắn gọn súc tích, khái qt cao, lời gọn ý sâu, cô đọng .
Hoạt động khởi động được tổ chức khi bắt đầu một bài học nhằm giúp
học sinh huy động vốn kiến thức và kĩ năng đã có để chuẩn bị tiếp nhận kiến
thức và kĩ năng mới. Tại sao cần có hoạt động này? Việc tiếp thu kiến thức
mới bao giờ cũng dựa trên những kinh nghiệm đã có trước đó của người học,
giúp giáo viên tìm hiểu xem học sinh có hiểu biết như thế nào về những vấn
đề trong cuộc sống có liên quan đến nội dung của bài học; tạo hứng thú và
một tâm thế tích cực để học sinh bước vào bài học mới. Khi thiết kế nhiệm vụ
của hoạt động khởi động, giáo viên cần lưu ý các vấn đề sau:
- Tình huống, câu hỏi, bài tập nhằm huy động kiến thức, kĩ năng, kinh
nghiệm sẵn có nào của học sinh? Học sinh đã học kiến thức, kĩ năng đó khi
nào? Vận dụng kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm đã có đó thì học sinh có thể
thực hiện nhiệm vụ đã nêu đến mức độ nào?

- Dự kiến các câu trả lời (sản phẩm) mà học sinh có thể hồn thành. Để
hồn thiện câu trả lời (sản phẩm học tập) nói trên, học sinh cần vận dụng kiến
thức, kĩ năng mới nào sẽ học ở phần tiếp theo trong hoạt động khác ? (Có thể
khơng phải là tồn bộ kiến thức, kĩ năng mới trong bài).
- Câu hỏi, bài tập trong mỗi bài học, hoạt động giới thiệu bài thường gồm
1-3 câu hỏi, bài tập với yêu cầu: quan sát tranh, ảnh để trao đổi về một vấn đề


5

liên quan đến bài học; câu hỏi, bài tập vừa ôn lại kiến thức đã học vừa kết nối
với bài mới. Thi đọc, ngâm thơ, kể chuyện, hát…: một số hoạt động yêu cầu
học sinh đọc diễn cảm, ngâm thơ, kể chuyện hoặc hát về chủ đề liên quan đến
bài học. Các hoạt động này trong một số trường hợp được thiết kế thành các
cuộc thi, nhằm tạo ra không khí sơi nổi, hứng thú trước khi tiến hành học bài
mới. Trò chơi: một số trò chơi trong hoạt động khởi động giúp tạo ra hứng
thú trước khi vào bài học mới. Các trị chơi này cũng có nội dung gắn với mỗi
bài học.
- Các câu hỏi (bài tập) ở hoạt động khởi động khơng nên mang nặng tính
lí thuyết mà cần huy động những kinh nghiệm thực tiễn có liên quan đến nội
dung bài học để tạo sự hứng thú và suy nghĩ tích cực cho người học. Nhiệm
vụ đặt ra nên gần gũi với đời sống mà học sinh dễ cảm nhận và đã có ít nhiều
những hiểu biết ban đầu. Tạo điều kiện cho học sinh có thể huy động được
kiến thức đã học để giải quyết, qua đó giúp học sinh phát hiện vấn đề, kết nối
được với nhu cầu học bài mới để giải quyết vấn đề đã phát hiện.
2. Giáo viên cần sử dụng linh hoạt, hiệu quả các hình thức hoạt động
khởi động
Để có được hoạt động khởi động thật hiệu quả ấn tượng, người giáo viên
cần biết đa dạng hóa các hình thức tổ chức và tạo hứng thú ngay từ những
phút học đầu tiên. Sau đây tơi xin trình bày một số hình thức tổ chức hoạt

động khởi động nhằm phát huy năng lực, nền tảng của học sinh:
2.1. Sử dụng tranh ảnh, video có liên quan đến bài học
Để tiết học thêm hứng thú, giáo viên có thể sử dụng những tranh ảnh,
video liên quan đến nội dung bài học để học sinh được trải nghiệm, được phát
huy những tri thức vốn có của mình về vấn đề của tiết học. Sử dụng tranh
ảnh, video… minh họa để dẫn vào bài là phương pháp dạy học khá phổ biến
ở nhiều mơn hoc. Giáo viên có thể vào bài bằng cách: cho học sinh quan sát
tranh ảnh, xem một đoạn phim, tư liệu… có liên quan đến nội dung bài học.


6

Câu hỏi có thể được đặt ra trước hoặc sau khi HS được quan sát. Với các kiểu
câu hỏi như:
- Chú ý lên màn hình, quan sát hình ảnh và cho biết những hình ảnh đó
liên quan đến sự vật, hiện tượng nào mà em biết?
-Từ những bức ảnh đó, gợi cho em những suy nghĩ gì?
- Các em quan sát lên máy chiếu, xem đoạn video sau và nêu cảm nhận
của em về nội dung của đoạn phim?
- Đoạn video sau gợi cho các em suy nghĩ gì về…?
Đây là hình thức khởi động nhẹ nhàng cho học sinh. Nó phù hợp với
những giờ dạy địi hỏi khơng khí sâu lắng. Hoặc cũng có thể vận dụng cho
những giờ dạy học tác phẩm văn học. Việc đưa học sinh du lịch qua màn ảnh
hay để các em chìm lắng vào trong những giai điệu âm nhạc thiết tha, trữ tình
sẽ là một cách thú vị để các em thăng bằng cảm xúc, tạo những rung động
thẩm mỹ và có những liên hệ vào bài mới thật sâu sắc. Điều quan trọng là sau
khi cho học sinh xem tranh ảnh, video, giáo viên phải đưa ra những câu hỏi
gợi mở liên quan đến bài học để dẫn vào bài.
Đối với hình thức này tơi có thể vận dụng vào được nhiều bài, tập trung
hầu hết ở các bài tìm hiểu văn bản.

+ Sử dụng các tranh ảnh để giới thiệu bài: văn bản Thánh Gióng; văn bản
“Sơn Tinh, Thủy Tinh; văn bản “Bắt nạt”; “Bài học đường đời đầu tiên’; “Cơ
bé bán diêm”, “Gió lạnh đầu mùa”; “Con chào mào”, “Cô Tô”….
+ Sử dụng video cho các bài học: bài “ Thực hành tiếng việt: nghĩa của
từ”; “Chùm ca dao về quê hương đất nước”…
2.2. Sử dụng các câu hỏi hay bài tập tình huống
Tạo tình huống nghĩa là giúp các em tưởng tượng ra một tình huống cụ
thể nào đó gần với nội dung bài học để các em trải nghiệm, tưởng tượng. Từ
đó giáo viên dẫn dắt vào bài. Các câu hỏi trong phần vào bài có thể chỉ là một
tình huống để cho học sinh phát hiện hay huy động vốn hiểu biết của mình để
giải quyết tình huống ấy. Các vấn đề hay câu hỏi được đưa ra sẽ giúp học sinh


7

phát triển tư duy, xâu chuỗi vấn đề một cách mạch lạc đồng thời tạo hứng thú
cho học sinh vào tiết học mới để khám phá vấn đề còn đang bỏ ngỏ. Từ các
câu hỏi tình huống, học sinh có thể nêu những ý tưởng và suy nghĩ của bản
thân, giáo viên sẽ dựa vào đó để dẫn dắt vào nội dung bài học. Việc thay đổi
hình thức giới thiệu bài từ việc chỉ dùng một vài câu để dẫn dắt vào bài thay
bằng tổ chức hoạt động để học sinh được tham gia trực tiếp giải quyết vấn đề
là một hoạt động thiết thực . Hoạt động phải xác định được mục tiêu cần đạt,
phương pháp và kĩ thuật tổ chức, phương tiện cần dùng, chuyển giao nhiệm
vụ cho học sinh một cách rõ ràng, tạo hứng thú cho học sinh, tạo ra tình
huống có vấn đề để dẫn dắt học sinh vào phần hình thành kiến thức mới. Mỗi
hoạt động vào bài trong giờ học ngữ văn cũng giống như món ăn khai vị
trong một bữa tiệc, tạo tâm thế chủ động cho học sinh khi vào tiết học.
Một số văn bản sử dụng hình thức tổ chức câu hỏi tình huống: Văn bản
“Sơn Tinh Thủy Tinh”; văn bản “Thạch Sanh”; “Bắt nạt”; “Gió lạnh đầu
mùa”…

2.3. Tổ chức hoạt động dưới dạng trò chơi
Một số trò chơi phổ biến nhất được sử dụng trong hoạt động khởi động đó
là: đuổi hình bắt chữ, giải ơ chữ , ngơi sao may mắn, vịng quay kì diệu…
Việc sử dụng hoạt động trò chơi ngay từ đầu tiết học sẽ tăng sự hứng thú cho
học sinh, giúp cho hoạt động dạy học trở nên sôi nổi, cuốn hút, giúp học sinh
rèn luyện được sự mạnh dạn, tự tin, khả năng phản xạ nhanh, sự sáng tạo,
nâng cao tinh thần đoàn kết và sự tương tác giữa học sinh với học sinh, giữa
học sinh với giáo viên.
Trong tiết học, các trò chơi thường được giáo viên tổ chức liên quan đến
kiến thức của tiết học trước như: học sinh sẽ được tái hiện kiến thức về tác
giả, tác phẩm, hay kiểm tra nhận thức của học sinh về những vấn đề liên quan
đến bài học mới, làm tiền đề để giáo viên dẫn dắt vào bài một cách hấp dẫn.
Một số gợi ý tổ chức trò chơi như:
- Trò chơi: nghe nhanh nhanh, nói nhanh nhanh.


8

Ở trò chơi này, học sinh sẽ được xem một đoạn phim hay cho xem một
hình ảnh. Sau đó giáo viên đưa ra yêu cầu. tùy từng yêu cầu từng bài mà giáo
viên đưa ra yêu cầu khác nhau. Ví dụ tìm những từ chỉ sự vật, con người hoặc
hiện tượng, tìm những từ chỉ hoạt động, tính chất, trạng thái… Trò chơi này
vận dụng cho các bài Danh từ, Cụm danh từ, động từ, cụm động từ, tính từ,
cụm tính từ.
-Trị chơi: nhanh tay, nhanh mắt
Trị chơi này, học sinh sẽ phát huy được năng lực giải quyết vấn đề, năng
lực hợp tác. Để phục vụ trò chơi, giáo viên có thể sưu tầm một số đoạn văn,
đoạn thơ ngắn, hoặc cũng có thể lấy ngay những đoạn văn của học sinh trong
những tiết trả bài viết để các em tự phát hiện và sửa sai. Trò chơi này, yêu cầu
học sinh phát hiện ra lỗi chính tả và lỗi diễn đạt được cố tình viết sai ở một số

đoạn văn, một số đoạn thơ một cách nhanh nhất. Sau khi phát hiện lỗi sai học
sinh sẽ sửa lại cho chính xác. Giáo viên dựa vào kết quả mà cho điểm từng
đội. Trò chơi này rèn cho học sinh sự nhanh nhạy, khả năng phản ứng trước
lỗi chính tả thường gặp để từ đó khơng lặp lại lỗi chính tả nữa. Trò chơi này
vận dụng khi bắt đầu bài “trả bài kiểm tra”.
-Trị chơi đuổi hình bắt chữ tác phẩm:
Đây là trị chơi mang tính chất nhận diện. Nó phù hợp cho những tiết dạy
học ôn tập hoặc những tiết dạy chủ đề. Trị chơi này có những ưu thế nhất
định như: Có khả năng lơi kéo số đơng học sinh tham gia; Phát huy trí tưởng
tượng của học sinh; Rèn luyện khả năng phản ứng nhanh; Trong thời gian
ngắn có thể giúp học sinh nhớ lại những tác phẩm đã học. Giáo viên chuẩn bị
những bức hình khác nhau, mỗi hình có những điểm gợi ý. Học sinh nhìn vào
hình để đốn tên tác phẩm. Ai đốn nhanh và đốn đúng sẽ có điểm.
3. Thực nghiệm sư phạm
Một số tiết học minh họa cụ thể có vận dụng một số hình thức hoạt động
khởi động
3.1.Sử dụng tranh ảnh, video có liên quan đến bài học.


9

Giáo án 1: bài “Bắt nạt” – Nguyễn Thế Hoàng Linh
Giáo viên cần nắm được mục tiêu bài học: phân tích được nội dung, ý
nghĩa của văn bản. Học sinh nhận biết được hiện tượng bắt nạt trong cuộc
sống. Từ việc nắm chắc mục tiêu bài học trên, tôi hướng đến câu hỏi liên
quan đến nội dung chính trong truyện để dẫn dắt vào bài:
Giáo viên chiếu hình ảnh:

Câu hỏi: Quan sát hình ảnh, những hình ảnh ấy phản ánh hiện tượng gì? Em
có chứng kiến hiện tượng ấy trong thực tế khơng? Nếu có em có suy nghĩ gì

về hiện tượng đó?
Sau khi học sinh trả lời câu hỏi và trình bày những suy nghĩ của mình,
từ đó giáo viên dẫn dắt vào bài.
=> Với cách khởi động vào bài như vậy: Học sinh hào hứng giơ tay trả lời
câu hỏi của giáo viên, đa số học sinh thấy hứng thú với bài học.
Giáo án 2: bài “Thánh Gióng”
GV cần nắm chắc mục tiêu bài học: Xác định được đặc điểm của nhân
vật chính trong truyền thuyết Thánh Gióng; nhận biết được cốt truyện; kể lại
được câu chuyện phát hiện ra các yếu tố hoang đường và sự thực lịch sử để
hiểu quan niệm của nhân dân ta về hình tượng Thánh Gióng; nhận biết được
đặc điểm của thể loại truyền thuyết.
Từ việc nắm chắc mục tiêu bài học trên, tôi hướng đến câu hỏi liên
quan đến nhân vật chính trong truyện để dẫn dắt vào bài:


10

Giáo viên chiếu 2 hình ảnh:

Câu hỏi: Hãy miêu tả hành động của Thánh Gióng trong hai bức tranh trên.
Từ đó nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Thánh Gióng.
- Dự kiến câu trả lời: Từ câu hỏi trên, qua việc quan sát học sinh có thể dễ
dàng thấy được hành động của nhân vật Thánh Gióng trong hai bức tranh
(Bức tranh thứ nhất: Thánh Gióng cưỡi trên lưng ngựa, ngựa phi như bay,
Thánh Gióng nhổ bụi tre bên đường để đánh giặc khiến cho giặc chết như ngả
dạ; Bức tranh thứ 2: Sau khi đánh tan giặc, Thánh Gióng cùng ngựa bay về
trời…) Từ đó học sinh nêu cảm nghĩ về nhân vật Thánh Gióng: Thánh Gióng
là người anh hùng, sẵn sàng xả thân giết giặc cứu nước, đem lại bình yên cho
nhân dân, là hình tượng đẹp trong lòng nhân dân…
Sau khi học sinh trả lời câu hỏi và trình bày những suy nghĩ của mình,

từ đó giáo viên dẫn dắt vào bài.
=> Với cách khởi động vào bài như vậy: Học sinh hào hứng giơ tay trả lời
câu hỏi của giáo viên, đa số học sinh thấy hứng thú khi được học qua trực
quan sinh động.
Giáo án 3: Bài “Bài học đường đời đầu tiên”- Tô Hồi.
GV cần nắm chắc mục tiêu bài học: Tóm tắt được nội dung văn bản;
xác định được những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả, kể chuyện của tác giả;
rút ra bài học ứng xử cho bản thân.Từ mục tiêu trên, tơi đưa ra một số hình
ảnh giúp các em huy động vốn hiểu biết đời sống để trả lời:


11

Câu hỏi thứ 1: Quan sát hình ảnh trên và cho biết đó là những con vật gì.
Miêu tả đơi nét về những con vật đó.
Câu hỏi thứ 2: Trong bốn con vật trên, con vật nào đã trở thành nhân vật
chính trong tác phẩm mà em biết?
GV dự kiến câu hỏi của học sinh:
+ Ở câu hỏi thứ nhất: những con vật trong ảnh là: châu chấu, dế mèn, muồm
muỗm, dế trũi. (Hs có thể miêu tả: châu chấu thường có màu xanh, râu sợi
chỉ, mầm cánh kéo dài đến giữa bụng…, dế mèn: có màu nâu đỏ hoặc đen, có
cặp râu dài để tìm đường và tìm kiếm thức ăn; Muồm muỗm thân hình có
màu xanh, râu dài; dế trũi có hai con mắt trịn to với 2 chân trước như hai
chiếc xẻng).
+ Ở câu hỏi thứ 2: HS có thể trả lời trong 4 con vật trên thì Dế Mèn đã trở
thành nhân vật chính trong tác phẩm “Dế mèn phưu lưu kí” của nhà văn Tơ
Hồi.
Sau khi học sinh trả lời, GV dẫn dắt vào bài.



12

=>Với cách vào bài như vậy tạo cho các em được sự hứng thú khi tiếp cận tác
phẩm, các em chủ động tích cực khám phá và tìm hiểu nội dung kiến thức
mới. Qua q trình quan sát, tơi thấy học sinh hứng thú hơn và tích cực sơi
nổi, hầu hết các em thích trả lời câu hỏi.
Giáo án 3: Bài Thực hành tiếng việt: Từ đơn, từ phức, nghĩa của từ
GV cần nắm được mục tiêu bài học: Nhận biết được từ đơn, từ phức,
nghĩa của từ, hiện tượng chuyển nghĩa của từ; hiểu nguyên nhân của hiện
tượng này, biết tra từ điển để tìm hiểu nghĩa gốc của từ.
Từ mục tiêu bài học trên và để tạo hứng thú cho tiết học, tôi tiến hành khởi
động bài bằng cách: cho học sinh nghe lời bài hát “Quả gì” (nhạc và lời:
Xanh xanh):
- Quả gì mà chua chua thế? Xin thưa rằng quả khế
- Quả gì mà da cưng cứng? Xin thưa rằng quả trứng
- Qủa gì mặc bao nhiêu áo? Xin thưa rằng quả pháo
- Quả gì mà lăn lơng lốc? Xin thưa rằng quả bóng
- Qủa gì mà gai chi chít? Xin thưa rằng quả mít
- Qủa gì mà to to nhất? Xin thưa rằng quả đất
Sau đó tơi u cầu học sinh xếp các từ chỉ loại quả vào bảng sau cho phù hợp
với nội dung giải thích về nghĩa.
Bảng cần điền:
Bộ phận của cây do bầu nhụy hoa

Từ dùng để chỉ những vật

phát triển mà thành, bên trong có

có hình giống như quả


chứa hạt

cây

…….

……

-Dự kiến câu trả lời:
Bộ phận của cây do bầu nhụy hoa

Từ dùng để chỉ những vật

phát triển mà thành, bên trong có

có hình giống như quả

chứa hạt
Quả khế, quả mít

cây
Quả trứng, quả pháo, quả


13

bóng, quả đất.
- Sau khi nghe xong bài hát, hầu hết các em đều rất hứng thú, số lượng giơ
tay tham gia trả lời câu hỏi khá đông.
- Từ sự hứng thú đó, tơi dẫn dắt các em vào bài học.

3.2. Sử dụng các câu hỏi hay bài tập tình huống
Giáo án 1: văn bản Sơn Tinh, Thủy Tinh
Mục tiêu của bài học là: giúp HS kể lại được câu chuyện Sơn Tinh,
Thủy Tinh ; phân tích được hai nhân vật và cuộc chiến giữa hai nhân vật đó;
chỉ ra tác dụng của yếu tố kì ảo và đặc trưng truyền thuyết của truyện.
Từ mục tiêu trên, tơi có thể tiến hành hoạt động khởi động với 2 câu hỏi, cụ
thể:
Câu hỏi 1: Ở tiểu học, các em đã được học truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh. Hãy
nhớ lại tên các nhân vật chính trong câu chuyện.
Câu hỏi 2: Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh phản ánh hiện tượng nào của tự
nhiên? Hãy nói về ước mơ của nhân dân lao động thời xưa (tác giả dân gian)
thể hiện trong câu chuyện.
Tôi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm bàn với thời gian 2 phút. Như vậy
với việc vào bài học bằng 2 câu hỏi thảo luận nhóm trên, tơi đã giúp các em
học sinh nhớ lại tên nhân vật chính và bước đầu nắm được chủ đề, ý nghĩa
của truyện. Từ đó, tơi dẫn dắt học sinh vào bài học một cách nhẹ nhàng, hứng
thú và hiệu quả.
3.3.Tổ chức hoạt động dưới dạng trò chơi
Giáo án 1: Thực hành tiếng việt: Danh từ, cụm danh từ
Mục tiêu bài học: Nhận diện được danh từ, cụm danh từ. Từ mục tiêu
này, tôi tổ chức trị chơi cho các em để kích thích sự hứng thú.
Trị chơi tơi đưa ra cho các em có tên: “Kẻ giấu mặt”
-Yêu cầu chuẩn bị: Mỗi học sinh chuẩn bị hai câu đố bằng cách dùng ngôn
ngữ để miêu tả đặc điểm cảu sự vật, hiện tượng hoặc người nào đó.


14

Cách chơi: Một bạn ra câu đố bằng cách nói to phần chuẩn bị của mình, các
bạn trong nhóm sẽ đoán và gọi tên sự vật, hiện tượng, con người được miêu

tả. Tơi chia lớp làm hai nhóm, nhóm 1: là người đố , nhóm 2: người đốn
(thực hiện trong vịng 2 phút) .Thư kí ghi lại kết quả đốn tên gọi của nhóm.
Sau đó các nhóm lần lượt đổi vai chơi.
Ví dụ:
Đố: Tơi là một dụng cụ học tập mà bạn dùng để vẽ hình trịn.
Đốn: Com-pa
Với cách đưa ra trò chơi như vậy, các em rất hứng thú, và tìm được các danh
từ rất chính xác. Hầu hết các em đều hào hứng tham gia. Sau 5 phút, trị chơi
kết thúc, đang trong tâm thế hào hứng tơi giới thiệu bài học.
Giáo án 2: bài “Cô Tô” – Nguyễn Tuân
Mục tiêu bài học: HS nhận biết được vẻ đẹp của cảnh và người Cô Tô.
HS nhận biết được tình cảm, cảm xúc của người viết thể hiện qua ngơn ngữ
văn bản.
Từ mục tiêu này, tơi tổ chức trị chơi cho các em để kích thích sự hứng thú.
Trị chơi tôi đưa ra cho các em: GV chia lớp thành 2 đội và thi kể tên các đảo,
quần đảo của nước ta. Sau 5 phút, trò chơi kết thúc, đang trong tâm thế hào
hứng tôi giới thiệu bài học.
Như vậy, với những hình thức hoạt động khổi động như trên, tôi không
những giúp học sinh nhắc lại kiến thức bài cũ mà còn giúp các em định
hướng kiến thức trọng tâm bài mới đồng thời tạo tâm lý thoải mái, hứng thú
cho HS.
IV. Kết quả
Sau khi áp dụng biện pháp trên, tôi nhận thấy học sinh đã hứng thú hơn
với mơn Ngữ văn, nhiều em u thích và bước đầu say mê với môn học hơn.
Bắt đầu mỗi tiết học, học sinh khơng cịn cảm giác mệt mỏi, nhàm chán, nặng
nề, lo lắng như khi giáo viên kiểm tra bài cũ. Các em được thoải mái tham gia
vào hoạt động học tập mà không hề hay biết. Giờ học cũng bớt sự căng thẳng


15


khô khan. Giờ học diễn ra sôi nổi, học sinh tích cực học tập. Từ đó, chất
lượng mơn học đã thay đổi đáng kể.
Về mức độ hứng thú: Ở lớp thực nghiệm (lớp 6C, 6D) tôi thấy các em
hào hứng trong các giờ học văn, hứng thú, tò mò khi tiết học bắt đầu, sôi nổi
khi GV đưa ra các tình huống khởi động vào bài, hầu hết các em đều giơ tay
phát biểu. Cảm thấy hứng thú học các nội dung tiếp theo của bài học.
* Điều chỉnh, bổ sung sau thực nghiệm
- Một số bài có thể sử dụng linh hoạt nhiều cách khởi động chứ không
nhất thiết là sử dụng 1 hoạt động khởi động.
Cụ thể ví dụ: Văn bản “Bắt nạt” có thể sử dụng “câu hỏi tình huống”
và “sử dụng tranh ảnh, video” để vào bài.
- Cần tạo tình huống cho học sinh phát huy trong phần khởi động, học
sinh đóng vai trị trung tâm, tổ chức hoạt động. Làm được điều đó, lớp học sẽ
hứng thú và học sinh sẽ là người điều khiển đưa hoạt động vào bài được hấp
dẫn, rèn kĩ năng tổ chức, tự tin nói trước lớp cho các em.

V. Kết luận, đề xuất, kiến nghị
1. Kết luận
Dạy học là một hình thức nghệ thuật, người dạy – giáo viên là những
“kĩ sư tâm hồn”, sản phẩm tạo ra của quá trình dạy học là sản phẩm đặc biệt –
con người (nhân cách). Nó khơng hề giống với bất kì một ngành nghề nào.
Điều đó đặt ra cho mỗi người thầy người cô phải luôn cố gắng không ngừng,
đổi mới cách dạy và phương pháp truyền đạt, tạo hứng thú cho học sinh. Nếu
khơi dậy được hứng thú, say mê cho học sinh sẽ tạo ra động cơ học tập tích
cực, giúp các em hăng say nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết
quả học tập tốt nhất, từ đó người học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động
và tự giác, không bị ép buộc. Có thể nói hoạt động khởi động có vai trò trải
nệm để dẫn dắt học sinh nhận thức bài học một cách hứng thú say mê. Đó là



16

một khâu nhỏ, không nằm trong trọng tâm bài học nhưng lại ở vào vị trí đầu
bài, có tác dụng đặt nền móng và gắn kết với các phần cịn lại mà người dạy
không thể bỏ qua.
Qua thực tiễn dạy học, có thể thấy rằng hoạt động giới thiệu bài có vai
trị quan trọng trong giờ dạy học. Nhưng để hoạt động này có ý nghĩa thì giáo
viên cần linh hoạt, nhạy bén trong cách tổ chức và thực hiện. Việc đa dạng
hóa hoạt động khởi động là cần thiết để tạo nên sự hứng khởi trong tâm lí học
sinh. Tuy nhiên, cũng khơng vì thế mà q chú trọng, dành nhiều thời gian
cho nó để biến giờ học thành giờ chơi vô vị.
2. Kiến nghị, đề xuất
a) Đối với tổ/nhóm chun mơn.
Thường xun tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề để trao đổi kinh
nghiệm những giờ dạy mẫu, thường xuyên trao đổi ý kiến, xây dựng bài để
rút ra những phương pháp, biện pháp tối ưu nhất giúp học sinh hứng thú học
tập, chủ động tiếp thu kiến thức nâng cao chất lượng giảng dạy.
b, Đối với lãnh đạo nhà trường.
Cần đáp ứng nhu cầu về tư liệu dạy học để phục vụ cho cách dạy học
trên. Cần nhân rộng cách thức tổ chức cho các lớp khác, giáo viên khác. Quan
tâm động viên, khích lệ để giáo viên có động lực phát huy thế mạnh của mình
và có kế hoạch xây dựng bài giảng một cách hiệu quả nhất. Động viên khen
thưởng kịp thời giáo viên có sáng kiến kinh nghiệm hay, có những cách thức
đổi mới phương pháp dạy học tích cực.
c) Đối với sở giáo dục và đào tạo
Cần quan tâm và tạo điều kiện cho giáo viên được phát huy hết năng
lực. Thường xuyên tổ chức tập huấn giúp giáo viên nâng cao chất lượng
giảng dạy, cập nhật đổi mới hình thức phương thức dạy học một cách linh
hoạt và hiệu quả.



17



×