Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh quá trình hình thành và phát triển tư tưởng hồ chí minh từ năm 1930 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.77 KB, 29 trang )

-MỤC LỤC
I.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2.Mục đích, đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
3.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
5. Kết cấu của tiểu luận
II.NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1.Khái niêm tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.Cơ sở thực tiễn
1.2.1.Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX- đầu XX
1.2.2.Thực tiễn thế giới đầu thế kỷ XIX- đầu XX
1.3. Cơ sở lý luận
1.3.1.Gía trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
1.3.2.Tinh hoa văn hóa nhân loại
1.3.3.Chủ nghĩa Mác – Lênin
1.4.Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh
1.4.1.Phẩm chất Hồ Chí Minh
1.4.2.Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận
CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIẾN TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 1930-1945
2.1.Tháng 2 năm 1930- Hội nghị thành lập Đảng và chánh cương vắn tắt ,
sách lược vắn tắt
2.2. 1930-1941:Thời kỳ Hồ Chí Minh gặp những khó khăn, thử thách và sự
kiên định của Người về cách mạng Việt Nam


2.2.1. Nguyễn Ái Quốc bị bắt và giam giữu ở Hồng Kông( 1930-1933)
2.2.2.Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô(1933-1938)
2.2.3.Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc(1938-1940)


2.3. 1941-1945: Lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền
2.3.1.Tư tưởng về dân tộc và giai cấp trong Hội nghị Trung tương lần thứ tám
(5-1941)
2.3.2.Hồ Chí Minh chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh
2.3.3.Hồ Chí Minh chỉ đạo thành lập căn cứ địa cách mạng
2.3.4.Hồ Chí Minh chỉ đạo thành lập lực lượng vũ trang
2.3.5.Hồ Chí Minh chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
2.3.6.Hồ Chí Minh sáng lập Nhà nước Dân chủ Cộng hịa
2.3.7.Hồ Chí Minh đưa ra các nhiệm vụ cấp bách để đưa nhà nước ra khỏi nguy
hiểm
CHƯƠNG III: GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
3.1 Đối với cách mạng Việt Nam
3.1.1.Tư tưởng Hồ Chú Minh đưa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đến
thắng lợi và bắt đầu xây dựng một xã hội mới trên đất nước ta
3.1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng là kim chỉ nam cho cách mạng
Việt Nam.
3.2. Đối với sự phát triển tiến bộ của nhân loại
3.2.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần mở ra cho các dân tộc thuộc địa con
đường giải phóng dân tộc gắn với sự tiến bộ xã hội
3.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập
dân tộc, dân chủ ,hịa bình ,hợp tác và phát triển trên thế giới.


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Nhân kỷ niệm 131 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, trả lời phỏng vấn
của Báo Quân đội nhân dân Điện tử, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học (GS, TSKH)
Kolotov V.N, Giám đốc Viện Hồ Chí Minh, Chủ nhiệm Khoa Lịch sử các nước
Viễn Đông, Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Saint Petersburg (Liên bang Nga)
khẳng định: Tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trò then chốt đối với Việt Nam hiện

đại. Nếu khơng có hệ tư tưởng của Người thì Việt Nam sẽ khơng có thành cơng
như ngày hơm nay.Sẽ khơng q lời khi khẳng định rằng, Việt Nam hiện đại là
hiện thân từ di sản tinh thần Hồ Chí Minh và tư tưởng của Người chính là kết tinh
của dân tộc, chỉ ra những phương hướng căn bản cho sự vận động phát triển của
đất nước trong tương lai, theo hướng ngày càng đáp ứng các tiêu chuẩn của đời
sống nhân dân, tăng cường uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng lại một cách sáng tạo những quan điểm
chính trị hiệu quả nhất của phương Đông và phương Tây, để áp dụng vào phục vụ
lợi ích của Việt Nam. Và nếu khơng có hệ tư tưởng và rộng hơn là học thuyết
chính trị của Người thì sẽ khơng có thành cơng như ngày hơm nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”.
Có được chiếc la bàn đáng tin cậy như vậy, Việt Nam như một con tàu dưới sự
dẫn dắt của người thuyền trưởng tài tình sẽ tự tin vượt qua mọi phong ba, bão táp
trong thế giới hiện đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và của dân tộc.
Giá trị ấy được khai thác có hiệu quả tới đâu tùy thuộc vào ý thức, trình độ, năng
lực vận dụng của mỗi người chúng ta. Nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là cơng việc rất quan trọng và cần thiết. Vào
thời điểm hiện nay lại càng quan trọng và cần thiết. Nếu mỗi cấp ủy và mỗi tổ
chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần và quán triệt sâu sắc những tư
tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh, thật sự tự giác rèn luyện, tu dưỡng theo những
lời dạy của Người thì nhất định Đảng ta sẽ ngày càng trong sạch, vững mạnh, khắc


phục được những nguy cơ của một đảng cầm quyền, tiếp tục được nhân dân tin
yêu ủng hộ.
2.Mục đích , đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về quá trình hình thành và phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh 1930-1945 từ đó đưa ra những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh
đối với cách mạng Việt Nam cũng như sự tiến bộ của nhân loại
2.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh
Phân tích làm rõ nội dung về quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh 1930-1945
Đưa ra những giá trị tư tưởng đối với cách mạng Việt Nam và sự tiến bộ của
nhân loại
2.3.Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nội dung về quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh 1930-1945
3.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh 19301945
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử- logic, phân
tích tổng hợp , quy nạp, diễn dịch, điều tra xã hội học.
4.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
4.1.Ý nghĩa lý luận


Đề tài nghiên cứu góp phần làm rõ về quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh 1930-1945
Đề tài nghiên cứu cung cấp các cứ liệu , luận chứng để các trường đại học
nghiên cứu đề ra chủ trương và xây dựng kế hoạch công tác giáo dục lối sơng cho
sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài là tài liệu tham khảo nghiên cứu học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong
các trường đại học ở nước ta

5.Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu , kết luận , danh mục, tài liệu tham khảo, tiểu luận có kết
cấu chủ yếu là 3 chương:
Chương I: Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Chương II: Qúa trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 19301945
Chương III: Gía trị tư tưởng Hồ Chí Minh

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ HÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1.Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh” là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.


Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện bốn nội dung chủ yếu
sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong
suốt hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xây dựng

một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa,
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
1.2.Cơ sở thực tiễn
1.2.1.Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX- đầu XX
Trước khi Pháp xâm lược, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến,
nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858)
đến cuối thế kỷ XIX, dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến, phong trào yêu nước
chống Pháp của nhân dân ta rầm rộ bùng lên, dâng cao và lan rộng trong cả
nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực... ở Nam Bộ; Trần Tấn, Đặng Như
Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến Nguyễn Thiện
Thuật, Nguyễn Quang Bích... ở miền Bắc. Song, các cuộc nổi dậy ấy đều lần
lượt bị thất bại. Điều đó, cho thấy sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước
nhiệm vụ lịch sử.
Bước sang đầu thế kỷ XX, sau khi tạm thời dập tắt các cuộc đấu tranh vũ
trang của nhân dân ta, thực dân Pháp bắt tay vào cuộc khai thác lần thứ nhất.
Việt Nam bắt đầu có sự biến chuyển và phân hoá mạnh mẽ các giai tầng trong
xã hội, mầm mống của giai cấp tư sản bắt đầu xuất hiện. Cùng lúc đó, ảnh hưởng
của cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu (Trung Quốc)
tràn vào Việt Nam. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta chuyển
dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong trào như:


Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội,...
Nhưng các phong trào ấy cũng chỉ rộ lên được một thời gian ngắn rồi lần lượt
bị dập tắt. Như vậy, ngọn cờ tư tưởng tư sản cũng khơng đáp ứng được sự địi
hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) lớn lên, trong lúc phong trào cứu nước đang
ở thời kỳ khó khăn nhất. Trường Đơng Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa (12.1907),
cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung bị đàn áp (4.1908),
vụ Hà Thành đầu độc bị thất bại và tàn sát (6.1908), căn cứ nghĩa quân Yên Thế

bị bao vây và đánh phá (1.1909), phong trào Đông Du bị tan rã, Phan Bội Châu
và các đồng chí của ơng bị trục xuất khỏi nước Nhật (2.1909), các lãnh tụ của
phong trào Duy Tân Trung Kỳ, người bị lên máy chém (Trần Quý Cáp, Nguyễn
Hằng Chi,...) người bị đầy ra Côn Đảo (Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,
Ngơ Đức Kế, Đặng Ngun Cẩn...). Chính hồn cảnh đó, đã thơi thúc Nguyễn Tất
Thành, năm 1911 ra đi tìm con đường cứu nước mới.
Tiếp theo, thực tiễn lịch sử Việt Nam từ 1912 - 1969, nhất là thực tiễn nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu
tranh giải phóng miền Nam... Đây là cơ sở, động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự hình
thành, phát triển, hồn thiện tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí
Minh về khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng và chủ nghĩa xã hội nói
riêng.
1.2.2.Thực tiễn thế giới đầu thế kỷ XIX- đầu XX
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai
đoạn tự do cạnh tranh đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Hầu hết các dân tộc chậm
phát triển ở Á, Phi, Mỹ la tinh đã trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc các nước đế
quốc. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc nảy sinh và
ngày càng gay gắt. Phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa đã phát triển nhưng
chưa giành được thắng lợi.
Cũng vào thời kỳ này cùng với mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản - mâu
thuẫn giữa vô sản và tư sản, đã xuất hiện mâu thuẫn giữa các nước tư bản do sự
phát triển không đồng đều, do sự tranh giành thuộc địa, thị trường. Chiến tranh đế
quốc xảy ra (1914 - 1918) làm cho chủ nghĩa đế quốc suy yếu tạo điều kiện cho


cách mạng tháng Mười Nga - cuộc cách mạng vô sản do Lênin và
Đảng Bơnsêvích lãnh đạo giành thắng lợi. Tháng 3.1919, Lênin thành lập Quốc tế
III. Tiếp theo là việc nhà nước Xôviết đánh bại cuộc chiến tranh can thiệp của 14
nước đế quốc và bọn Bạch Vệ. Từ năm 1920, tiếng vang và ảnh hưởng của Cách

mạng Tháng Mười lan rộng ra châu Âu và toàn thế giới. Cách mạng Tháng Mười
Nga đã mở ra kỷ nguyên mới cho sự phát triển của xã hội, thúc đẩy phong trào
giải phóng dân tộc phát triển.
Là một người dân mất nước đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã vượt
qua ba đại dương, đến bốn châu lục, đặt chân lên khoảng gần 30 nước trong khoảng
thời gian 30 năm sống ở nước ngoài (1911 - 1941). Nguyễn Ái Quốc đã trở thành
một trong những nhà hoạt động chính trị đi nhiều nhất, có vốn hiểu biết phong phú
nhất về thực tế các thuộc địa cũng như các nước tư bản đế quốc chủ yếu nhất trong
nửa đầu của thế kỷ XX... Nhờ đó, Nguyễn Ái Quốc khơng chỉ đã hiểu tính ưu việt
của cách mạng tháng Mười Nga, mà còn hiểu được bản chất chung của chủ nghĩa
đế quốc và đặc điểm riêng của từng nước đế quốc khác nhau; hiểu được trình độ
phát triển cụ thể về kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội... cũng như khát vọng giải
phóng dân tộc của nhiều nước thuộc địa cùng cảnh ngộ. Vì vậy, Người đã khẳng
định: Muốn đánh đổ chủ nghĩa đế quốc thực hiện giải phóng dân tộc hồn tồn thì
phải theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga. Trong tác phẩm “Đường Kách
mệnh”, Người đã viết: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành
công và thành công đến nơi... Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách
mệnh thành cơng thì phải dân chúng (cơng nơng) làm gốc, phải có đảng vững bền,
phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã
Khắc Tư và Lênin”
Từ năm 1941 - 1969, Hồ Chí Minh trở về nước để trực tiếp tổ chức chỉ
đạo cách mạng Việt Nam. Tuy ở trong nước, nhưng Hồ Chí Minh ln ln
quan tâm, nghiên cứu tình hình cách mạng thế giới để tổng kết kinh nghiệm
và phát triển lý luận của mình. Những kinh nghiệm quý báu trong đấu tranh
cách mạng, xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội của nhân dân thế giới ở thời
gian này, vẫn luôn được Người tiếp thu và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam
1.3. Cơ sở lý luận
1.3.1.Gía trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc



Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng
chiến đấu trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đồn kết, sống có tình, có
nghĩa, nhân ái Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
thì chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý
làm người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con
người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lịng nồng nàn
u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và lũ cướp nước” (3) .
Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí
Minh) đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó là động lực chi phối mọi suy nghĩ,
hành động của Người trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng. Đó cũng chính
là cơ sở tư tưởng đã dẫn dắt Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh
viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã
đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”
1.3.2.Tinh hoa văn hoá nhân loại: phương Đông và phương Tây
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh cịn chịu ảnh hưởng của văn hố
phương Đơng. Người cũng đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ,
nhân văn của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương
Tây và cách mạng Trung Quốc.
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh được theo học chữ Nho với các thầy vốn
là những nhà Nho yêu nước. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình cảm của
Người khơng phải là những giáo điều “tam cương”, “ngũ thường” nhằm bảo vệ
tôn ti trật tự phong kiến, mà tinh thần “nhân nghĩa”, đạo “tu thân”, sự ham học
hỏi, đức “khiêm tốn”, tính “hồ nhã”, cách đối nhân xử thế “có lý, có tình”. Những
mệnh đề “trung hiếu”, “nhân nghĩa”, “tứ hải giai huynh đệ”, “dân vi quý, xã tắc
thứ chi, quân vi khinh”, phương châm “khắc kỷ phục lễ”,... của các nhà hiền triết

phương Đơng được Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Trong khi tiếp thu, vận dụng
những yếu tố tích cực của Nho giáo, Người cũng đồng thời phê phán loại bỏ những
yếu tố thủ cựu, tiêu cực của nó.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên
cứu, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình


đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)... Người đã
vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng học thuyết ấy lên một trình độ mới
phù hợp với dân tộc và thời đại mới.
Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí
Minh đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hố phương Đơng phương Tây, nâng
lên một trình độ mới trên cơ sở phương pháp luận mácxít - lênin
1.3.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Từ khi rời Tổ quốc (1911) cho đến năm 1917, Hồ Chí Minh đã đến nhiều
nước thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó, Hồ Chí
Minh được bổ sung thêm những nhận thức mới về những gì ẩn dấu đằng sau các
từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái mà vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên Người đã nghe.
Khoảng cuối năm 1917, khi trở lại Pari, Hồ Chí Minh đã làm quen với nhiều nhà
hoạt động chính trị, xã hội của nước Pháp và nhiều nước trên thế giới. Năm 1919,
Hồ Chí Minh tham gia Đảng Xã hội Pháp (SFIO), một đảng tiến bộ lúc bấy giờ
thuộc Quốc tế II.
Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin tháng 7-1920 và trở
thành người cộng sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước ngoặt căn bản trong tư
tưởng của Người. Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ
Chí Minh nhìn nhận, đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường
lối các cuộc cách mạng một cách khoa học; cùng với kinh nghiệm hoạt động thực
tiễn của mình để đề ra con dường cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự hình
thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

1.4.Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh
1.4.1.Phẩm chất Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh thừa kế và phát triển những phẩm chất tốt đẹp nhất của cha
ơng lên một tầm cao mới. Người có nguồn trí tuệ lớn trong học tập, ứng xử và
ứng đối thơ văn từ nhỏ. Hơn nữa, Người có lý tưởng cao cả và hồi bão lớn cứu
dân, cứu nước thốt khỏi cảnh lầm than, cơ cực để đuổi kịp các nước tiên tiến
trên thế giới.
Nói về phẩm chất của những thiên tài thời kỳ phục hưng, Ph.Ăngghen nhận
xét, đó là :"Những con người khổng lồ: khổng lồ về năng lực suy nghĩ, về nhiệt
tình và tính cách, khổng lồ về mặt có lắm tài, lắm nghề và về mặt học thức sâu


rộng..ít nhiều họ đều có cái tinh thần phiêu lưu của thời đại học cổ vũ. Trong
thời đại ấy khó tìm ra được nhân vật quan trọng nào mà lại khơng từng đi chu du
xa, khơng biết nói bốn, năm thứ tiếng, và không nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực
sáng tạo". Hồ Chí Minh có những phẩm chất để hình thành nên một con người
như thế.
Với ý chí và nghị lực to lớn, Người đi khắp thế giới rộng lớn, xa lạ để khảo
sát thực tế các nước đế quốc giàu có cũng như các dân tộc thuộc địa nghèo nàn,
lạc hậu, mà chỉ với hai bàn tay trắng, đã làm nhiều nghề khác nhau để vừa kiếm
sống, vừa tự học hỏi và hoạt động cách mạng. Hồ Chí Minh khéo kết hợp học ở
nhà trường, học trong sách vở, học trong hoạt động cách mạng, học ở nhân dân
khắp những nơi Người đã đến sống, học tập và công tác; do đó Người có vốn
học thức văn hố sâu rộng Đông Tây kim cổ. Người đã đọc, đã viết nhiều tác
phẩm, giao tiếp thông thạo bằng nhiều thứ tiếng cơ bản của quốc tế, đó là điều
hiếm có trong lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam từ xưa tới nay.
Đặc biệt, Hồ Chí Minh là người có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu
tính phê phán, đổi mới và cách mạng. Trong tư tưởng, lý luận, Người không bao
giờ giáo điều, phụ thuộc, bắt chước tư tưởng, hành động người khác mà ln có
sự vận dụng sáng tạo, có sự bổ sung và phát triển thành chính tư tưởng Hồ Chí

Minh. Trong lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh ln tự chủ, chủ động, lựa chọn
hướng đi đúng cho nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân, đất nước và lịch
sử dân tộc về tư tưởng, hành động của mình, khơng dựa dẫm, ỷ lại người khác.
Người đã vận dụng đúng quy luật chung của xã hội loài người, của cách mạng
thế giới vào hoàn cảnh riêng, cụ thể của Việt Nam, đề xuất tư tưởng, đường lối
cách mạng mới đáp ứng đòi hỏi thực tiễn.
Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại, đã đưa
cách mạng Việt Nam vào dòng chảy chung của cách mạng thế giới, là người có
năng lực toàn quân, toàn dân Việt Nam đi tới thắng lợi. Hồ Chí Minh là người
suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, là người suốt đời đấu tranh cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và của cách mạng thế giới.
1.4.2.Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận
Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn hoạt động cách mạng phong
phú, phi thường. Người là hiện thân của chu trình"Thực hành sinh ra hiểu biết
tiến lên lý luận lý luận lãnh đạo thực hành"; vừa vận dụng sáng tạo và phát triển
lý luận vào thực tiễn, vừa tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận.


Trước khi trở thành Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã sống, học tập, hoạt
động. công tác ở khoảng 30 nước trên thế giới. Người hiểu sâu sắc chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân và chế độ thực dân khơng chỉ qua tìm hiểu trên các loại
tài liệu, sách, báo, radio mà còn hiểu biết sâu sắc về chúng qua thực tế cuộc sống
và hoạt động tại các cường quốc đế quốc. Người đặc biệt xác định rõ bản chất,
thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, thực dân và thấu hiểu tình cảnh người dân ở
nhiều nước thuộc hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc ở châu Á, châu Âu,
châu Phi và châu Mỹ.
Người hiểu sâu sắc về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ
nghĩa xã hội, về xây dựng đảng cộng sản, v,v.. khơng chỉ qua nghiên cứu lý luận
mà cịn qua việc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, rồi trở thành cán bộ của
Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản, qua hoạt động trong Đảng Cộng sản Trung

Quốc, qua tham gia phong trào cộng sản quốc tế ở nhiều nước, qua nghiên cứu
đời sống xã hội ở Liên Xô nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, v,v...
Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam - tổ chức lãnh đạo cách mạng
Việt Nam theo chủ nghĩa Mác - Lênin đi đến thắng lợi hoàn toàn. Người đã sáng
lập Mặt trận dân tộc thống nhất, sáng lập Quân đội nhân dân Việt Nam; khai sinh
Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đơng Nam châu Á. Và, chính Hồ Chí Minh đã
nêu ra hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc đầy tính sáng tạo về Đảng Cộng
sản Việt Nam cầm quyền, về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, về Mặt trận dân tộc thống nhất, về xây
dựng các lực lực lượng vũ trang nhân dân, V.v...Những phẩm chất cá nhân cùng
những hoạt động thực tiên phong phú trên nhiều lĩnh vực khác nhau ở trong
nước và trên thế giới, năng lực tổng kết thực tiễn kịp thời, dự báo tương lai chính
xác là nhân tố chủ quan hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh
CHƯƠNG II: Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 1930-1945
2.1.Tháng 2 năm 1930- Hội nghị thành lập Đảng và chánh cương vắn tắt ,
sách lược vắn tắt
Đầu năm 1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng khai mục tại nhà của
một công nhân ở Cửu Long thuộc Hồng Kơng. Tham dự Hội nghị ngồi Nguyễn


Ái Quốc (thay mặt Quốc tếCộng sản) có hai đại biểu của Đơng Dương Cộng sản
Đảng (Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh), hai đại biểu của An Nam Cộng sản
Đảng (Chu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu), hai người giúp việc cho hội nghị là Lê
Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu. Đông Dương Cộng sản Liên doản mới thành lập
nên chưa cử được đại biểu tới tham dự. Thay mặt Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc đã tuyên bố lý do triệu tập Hội nghị và nếu chương trình nghị sự của Hội
nghị: bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm
cộng sản Đơng Dương, lấy tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã

thông qua Chinh cương vẫn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc dự thảo
và cử ra Ban Trung ương lâm thời.
Đường lối cách mạng được thể hiện qua các văn kiện Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, gọi chung là Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng. Chinh
cương vẫn tắt vạch rõ tính chất, nhiệm vụ, đối tượng của cách mạng Việt Nam,
trong đó chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản", Nhiệm vụ cách mạng là đánh đổ để quốc Pháp và bọn
phong kiến phản động, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, tịch thu ruộng đất
của đế quốc làm của cơng chia cho dân củy nghèo, lập chính phủ công nông
binh, tổ chức quân đội công nông...
Sách lược vắn tắt nêu rõ: Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, Đảng
phải thu phục cho được đại bộ phận dân chủng và giai cấp minh. Đảng phải lôi
kéo các giai cấp, tầng lớp cách mạng về phía mình, phân hóa và lơi kéo trong
hàng ngũ kẻ thù: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông... để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp. Cịn đối với bọn phủ nơng, trung,
tiếu địa chỉ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng,
ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phẳn cách mạng...
thì phải đánh đổ", Sách lược vãn tất cũng nhãn lạnh nguyên tắc hợp tác giai cấp
của Đảng là “trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào
nhượng một chút lợi ích gì của cơng nơng và đi vào đường thỏa hiệp". Đảng phải
liên lạc với nhân dân các dân tộc bị áp bức và với giai cấp vô sản thế giới, nhất là
giai cấp vô sản Pháp.
Sau Hội nghị, ngày 16-2-1930, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng
sản và Đảng Cộng sản Việt Nam đã viết Lời kêu gọi gửi cơng nhân, nơng dân,
binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập. Đây là một trong những văn kiện quan


trọng của Hội nghị hợp nhất. Nó xác định rõ đường lối, mục tiêu, phương hướng
của cách mạng Việt Nam trước mắt và lâu dài

Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản có giá trị như một Đại hội thành lập
Đảng; đề ra cương lĩnh, đường lối cách mạng và bầu ra Ban Chấp hành Trung
ương. Thành quả lớn nhất của Hội nghị là đã quy tụ được toàn bộ phong trào
công nhân và phong trào yêu nước dưới ngọn cờ của một đảng duy nhất - Đăng
Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930) đánh dấu bước ngoặt vĩ đại
trong phong trào công nhân và phong trào cách mạng nước ta, chấm dứt nguy cơ
chia rẽ và thời kỳ khủng hoảng về đường lối kéo dài. Nó mở đầu cho thời kỳ
cách mạng mới trong lịch sử dân tộc với những thắng lợi to lớn, mi mở đầu là
Cách mạng Thắng Tám 1945. Nguyễn Ái Quốc đã đóng vai trị to lớn trong việc
tạo ra kết quả tất yếu nảy: Là người tìm ra con đường cứu nước, truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, là người tổ chức, rèn luyện và sáng lập Đảng
Cộng sản ở nước ta và trở thành lãnh tụ của Đảng.
Như vậy, đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng
Việt Nam được hình thành cơ bản thông qua hàng loạt các tác phẩm có giá trị:
Bản án chế độ thực dân Pháp (1925). Đường cách mệnh (1927), Chính cường
vắn tắt, Sách lược vẫn tắt của Đảng (2-1930)
2.2.Thời kỳ 1930-1940: Nguyễn Ái Quốc vượt qua khó khăn, kiên trì
giữ vững lập trường cách mạng
Đây là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc bị thử thách nghiệt ngã về mạng sống là lần
bị bắt ở Hồng Kông và về tư tưởng là việc bị Quốc tế Cộng sản và những người
học trị của mình phê phán. Tuy nhiên, Người đã vượt lên tất cả, rèn luyện ý chí
sắt đá, kiện định, giữ vững lập trường chính trị, tư tưởng,
2.2.1.Nguyễn Ái Quốc bị bắt và giam giữ ở Hồng Kông (1931-1933)
Giữa tháng 10-1930, Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hình Trung ương
Đảng được triệu tập tại Hồng Kông. Hội nghị thông qua Luận cương cách mạng
tư sản dân quyền của Trần Phủ, đổi tên Đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương,
thông qua Nghị quyết thủ tiêu Chảnh cương, Sách lược và Điều lệ cũ của Đảng;
vì cho rằng các văn kiện ấy chỉ lo việc phản để mà quên mất lợi ích giai cấp đấu
tranh, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rõ các nhược điểm và hạn chế này nhưng do

hoàn cảnh khách quiti nên đành phải chấp nhận. Trước nguy cơ của chủ nghĩa
phát xít và chiến tranh thế giới mới đang đến gần, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản


(7-1935) đã có sự điều chỉnh chuyển hướng về sách lược, chủ trưởng thành lập
Mặt trận dân chủ chống phát xít. Ở Việt Nam, phải đến Hội nghị Trung ương 6
(11-1939), Đảng ta mới có sự điều chỉnh trở lại đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sáng 6-6-1931, cảnh sát Anh bất ngờ bao vây ngôi nhà số 186, phố Tam
Lung (Cửu Long) lúc đó chỉ có Nguyễn Ái Quốc đang ở nhà. Người đã bị đưa
đến giam ở nhà ngục Victoria và may mắn được vợ chồng luật sư Lôdơby - một
luật sư tiến bộ người Anh giúp đỡ hai lần. Rời Hồng Kơng, Nguyễn Ái Quốc tìm
cách quay về tiếp tục hoạt động trong Quốc tế Cộng sản vào cuối mùa xuân
1934.
2.2.2.Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô (1933-1938)
Quay trở về Mátxcơva, Nguyễn Ái Quốc được nhận vào học Trưởng Quốc
tế Lênin - trưởng bồi dưỡng lý luận dành riêng cho cán bộ các đảng anh em.
Chương trình học tập gồm đầy đủ các bộ môn lý luận cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, trong đó có những vấn đề về cách mạng vô sản, vấn đề dân tộc và
thuộc địa, công tác xây dựng đảng, công tác mặt trận, kinh nghiệm hoạt động bí
mật... Phương pháp học tập chủ yếu là tự nghiên cứu và thảo luận, giảng viên
giải đáp và bổ sung, sau đó học viên đi khảo sát thực tế.
Thời gian này, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần VII Quốc tế Cộng sản
với tư cách là đại biểu tư vấn. Đại hội bản đến những vấn đề quan trọng chống
chủ nghĩa phát xít, thành lập mặt trận dân tộc thống nhất chống chủ nghĩa đế
quốc trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân với nông dân. Những nghị quyết
của Đại hội VII là bước chuyển hướng có ý nghĩa trọng đại đối với phong trào
cộng sản quốc tế cũng như đối với cách mạng Việt Nam. Nó là kim chỉ nam cho
các đảng cộng sản trong thời kỳ mới đầy biến động của thế giới.
Hè năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi lớn trong tổng tuyển
cử và Chính phủ của Mặt trận được thành lập. Nguyễn Ái Quốc nóng lịng trở về

Tổ quốc lãnh đạo phong trào cách mạng nhưng chưa được Quốc tế Cộng sản
chấp nhận. Trong khỉ chờ thời cơ về nước, vào khoảng mùa thu năm 1936,
Nguyễn Ái Quốc vào nhận công tác tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và
thuộc địa, ở số nhà 25 đại lộ Tvéchain. Tại đây, Người đã gặp gỡ và làm quen
với nhiều chiến sĩ cách mạng ở một số nước châu Á, nhờ đó, có những hiểu biết
thêm về tình hình cách mạng đang diễn ra ở các nước này.
Cuối năm 1936, Nguyễn Ái Quốc trúng tuyển vào lớp nghiên cứu sinh
chuyên ngành lịch sử do Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa tổ


chức, nhằm đào tạo giảng viên có trình độ cao cho Viện. Tình hình thế giới diễn
biến phức tạp, Chiến tranh thế giới lần thứ II sắp nổ ra, khiến Người không thể
ngồi yên. Ngày 6-1938, Người viết thư cho một đồng chí trong Ban Chấp hành
Quốc tế Cộng sản bày tỏ tâm trạng của tỉnh và mong muốn được trở về nước,
tham gia phong trào cách mạng. Đề nghị của Người đã được Quốc tế Cộng sản
chấp nhận. Ngày 29-9-1938, Nguyễn Ái Quốc đáp xe lửa đi về phương Đông.
2.2.3.Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc (1938-1940)
Nguyễn Ái Quốc về Trung Quốc, dừng chân tại Quế Lâm, tham gia công
việc của Bát lộ quân với tên gọi thiếu tá Hồ Quang, tìm cách liên lạc với trong
nước. Thơng qua nhiều bài báo và bức thư gửi cho Trung ương Đảng ta để
truyền đạt tỉnh thần Nghị quyết Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, vận dụng vào
hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc nêu ra những ý
kiến về đường lối, chủ trương của Đảng trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông
Dương. Thời gian này, nhiều lần cán bộ của Đảng ta cho người sang bắt liên lạc
và đón Người về nhưng đều khơng gặp được.
Cuối năm 1939, Nguyễn Ái Quốc đi Côn Minh và đã bắt liên lạc được với
Ban hải ngoại của Đảng ta. Sau nhiều lần lên kể hoạch tìm đường về nước, ngày
28-1-1941, Người cùng các đồng chỉ lên đường về nước theo hướng Cao Bằng,
kết thúc 30 năm bôn ba ở nước ngoài. Phút giây đặt chân lên mảnh đất thiêng
liêng, nơi địa đầu Tổ quốc, sau này được Người kể lại: "Xa rời Tổ quốc đã hơn

30 năm. Đã mất bao nhiêu thời giờ và sức lực tìm liên lạc mà không được. Bao
nhiêu năm thương nhớ, đợi chờ. Hơm nay mới bước chân về nơi non sơng gấm
vóc của mình. Khi bước qua cái bia giới tuyến, lịng Bác vô cùng cảm động”.
Như vậy, vượt qua muôn ngàn khó khăn thử thách, khi bị tổ chức nghi ngờ,
khi bị địch bắt, lúc cận kề với cái chết, Nguyễn Ái Quốc vẫn kiên định với con
đường cách mạng đã chọn và luôn hướng về Tổ quốc, nhân dân. Đây là giai đoạn
thử thách ghê gởm ý chí và bản lĩnh chính trị của Hồ Chí Minh. Chính từ thực
tiễn gian nan đó, càng làm người sáng lên phẩm chất và bản lĩnh của người chiến
sĩ cách mạng kiên trung - Hồ Chí Minh.
2.3.Lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền (1941-1945)
2.3.1.Tư tưởng về dân tộc và giai cấp trong Hội nghị Trung tương lần thứ
tám (5-1941)
Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào
cách mạng Việt Nam. Chiến tranh thế giới lần thứ II có nhiều diễn biến mới,


ngày càng gay go, quyết liệt. Lấy danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản, Nguyễn
Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941 tại Khuổi Nậm, Pác Bồ, Cao
Bằng. Sau khi phân tích tình hình thế giới, chỉ rõ triển vọng của phong trào cách
mạng thế giới, Hội nghị đã đi đến nhất trí giương cao hơn nữa ngọn cờ giải
phóng dân tộc và nhận định kẻ thủ chính của nhân dân Đơng Dương là phát xít
Pháp - Nhật và các lực lượng phản cách mạng tay sai của chúng. Đường lối cách
mạng trong giai đoạn này là đánh đuổi Pháp - Nhật, làm cho xử Đông Dương
độc lập. Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của
giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc
này nếu khơng giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được độc
lập, tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc còn
chịu mỗi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng
khơng địi lại được"

Hội nghị chủ trương đặt vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước Đông
Dương, thành lập mối nước một mặt trận riêng, làm cho nhân dân mỗi nước phát
huy cao độ lòng yêu nước và tỉnh thần chiến đấu vị sự nghiệp cách mạng của dân
tộc mình, đồng thời cũng gắn bó với các dân tộc bạn ở Đơng Dương chống kẻ
thù chung
Về vấn đề chính quyền, Hội nghị cũng chỉ rõ: “khơng nên nói cơng nơng
liên hiệp và lập chính quyền Xơviết thì phải nói tồn thể nhân dân liên hợp và
lập chính phủ dân chủ cộng hịa"”.
Về vấn đề khởi nghĩa vũ trang, Hội nghị khẳng định cuộc cách mạng Đông
Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị cũng đã phân
tích kỹ những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi cho một cuộc tổng
khởi nghĩa, dự đoản sự phát triển mau lẹ của tình hình, đồng thời cũng nhấn
mạnh khơng được ở lại vào những điều kiện bên ngồi,
Về cơng tác xây dựng Đảng, Hội nghị nhấn mạnh tình trạng thiệu cán bộ
chỉ đạo, cán bộ chuyên môn, cán bộ xuất thân thành phần vơ sản trong Đảng rất
ít; tình trạng phong trào phát triển không đều: nông thôn mạnh hơn thành thị và
vùng cơng nghiệp Vì vậy, việc đào tạo cán bộ đã trở thành nhiệm vụ cấp bách,
không thể chậm trễ, phải chú ý đào tạo cán bộ thành phần vô sản đưa vào Đảng,
phải lấy vận động công nhân làm công việc đầu tiên trong công tác tổ chức quần


chúng, cùng với việc đào tạo cán bộ lãnh đạo, chú trọng đào tạo cán bộ chuyên
môn về công vận, ông vận và binh vận,
Với những tư tưởng và đường lối trên, Hội nghị lần thứ tám của Trung
ương Đảng dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
dân tộc và giai cấp, giữa dân tộc và dân chủ; đồng thời là sự hồn chỉnh q trình
chuyển hưởng chỉ đạo chiến lược cách mạng và thực chất là sự trở về với Cương
lĩnh tháng 2-1930.
2.3.2.Hồ Chí Minh chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh

Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương tuyên bố thành lập năm
1939 đã xác định đúng mục tiêu, chiến lược, chiến thuật, nhưng vẫn chưa hồn
tồn thích hợp về hình thức tổ chức và chưa có điều kiện kinh thành trong thực
tế. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám, tháng 5-1941, đã chỉ rõ sách lược của
Đảng là “phải vận dụng một phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao
đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân (hơn hết là dân tộc Việt
Nam)”. Hội nghị đã quan tâm đến tên gọi của Mặt trận là làm sao cho có tính
chất dân tộc hơn, cho có một mãnh lục dễ hiệu triệu hơn vi nhất là có thể thực
hiện được trong tỉnh thể hiện tại". Với tinh thần đó, Hội nghị quyết định thành
lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, thay cho Mặt
trận thống nhất dân tộc phản để Đơng Dương nhằm hiệu triệu tồn dân, tập hợp
lực lượng Việt Nam" nghĩa là mặt trận của nước Việt Nam, “Độc lập” là chi mục
đích, “Đồng minh" nghĩa là đứng về phe đồng minh chống phát xít. Cách đặt tên
này hồn tồn phù hợp với tình hình mới. Tun ngơn của Mặt trận nêu rõ: “Coi
quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, Việt Minh sẵn sảng giơ tay đón tiếp những cá
nhân hay đồn thể, khơng cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, miễn thành
thực muốn đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc
lập”.
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo ra Chương trình cửu nước của Việt Minh, nêu
rõ: Sau khi đánh đuổi được bọn đế quốc phát xít Nhật - Pháp, sẽ lập nên chính
phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Chính phủ ấy do Quốc dân
Đại hội bầu ra, sẽ thi hành chính sách tiến bộ về đối nội và đối ngoại như sau:
Về chính trị, thực hiện phổ thông đầu phiếu, ban hành các quyền tự do dân
chủ cho nhân dân, tổ chức quân đội cách mạng, tịch thu tài sản của đế quốc, phát


xít và bọn Việt gian phản quốc, thực hiện nam nữ bình đẳng và quyền dân tộc tự
quyết.
Về kinh tế, bỏ thuế thân và các thứ thuế do Pháp - Nhật đặt ra, đặt thuế mới
rất nhẹ và công bằng quốc hữu hỏa ngân hàng của đế quốc, mở mang các ngành

công nghiệp, thủ công nghiệp, giao thông vận tải, phát triển dẫn thủy nhập điền,
bồi đắp đê điều làm cho nơng nghiệp phồn thịnh...
Về văn hóa - xã hội, hủy bỏ nền giáo dục nô lệ, xây dựng nền giáo dục quốc
dân, dùng tiếng mẹ đẻ để dạy học, cưỡng bách giáo dục đển bậc sơ học, lập
trường chuyên nghiệp, khuyến khích và giúp đỡ trí thức, đẩy mạnh hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, thực hiện ngày làm 8 giờ, bài trừ thất
nghiệp, mại dâm, chăm sóc y tế cho nhân dân...
Về ngoại giao, hủy bỏ tất cả các hiệp ước mà Pháp đã ký với các nước,
tuyên bố các dân tộc bình đẳng, tán thinh hịa bình, chống xâm lược, đồn kết
các dân tộc bị áp bức trên thế giới".
Phù hợp với nguyện vọng của quần chúng và nhất là đáp ứng những đòi hỏi
cấp bách của nhân dân, chương trình, điều lệ của Mặt trận Việt Minh được nhân
dân hưởng ứng nồng nhiệt và phong trào đã phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ,
rộng rãi đến một trình độ xưa nay chưa từng thấy trong lịch sử cách mạng nước
ta" Việt Minh còn cho ra báo Việt Nam độc lập (gọi tắt là Việt lập) là cơ quan
tuyên truyền của tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Cao Bằng. Mục đích của tờ báo: “Báo
Việt Nam độc lập cốt làm cho dân ta hết ngu hèn, biết các việc, biết đoàn kết,
đặng đảnh Tây, đảnh Nhật, làm cho Việt Nam độc lập, bình đẳng, tự do". Để
thực hiện mục đích của mình, báo chĩa mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thủ chủ yếu
của cách mạng Việt Nam là Pháp, Nhật và bè lũ tay sai; tố cáo, lên án những tội
ác tàn bạo và những âm mưu thủ đoạn xảo quyệt của chúng trên các mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Bảo thường xun có bài cổ vũ khối đồn kết tồn
dân, kêu gọi các tầng lớp nhân dân hăng hải gia nhập các đoàn thể cứu quốc,
đồng thời đưa tin phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc và dân chủ trên thế
giới. Chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang sắp tới, bảo đã có những bài hướng dẫn
cách tổ chức các đội du kích, đội tự vệ, chỉ rõ nhiệm vụ và phương pháp hoạt
động của các tổ chức vũ trang. Giáo dục tinh thần cách mạng, ý chỉ chiến đấu,
tinh thần cảnh giác cách mạng, phương pháp công tác bí mật và cách vận động
binh lính địch... Bảo đặc biệt nhấn mạnh công tác đào tạo cán bộ và hướng dẫn
phương pháp tự rèn luyện cho cán bộ, hội viên. Các bài viết trên báo Việt Nam



độc lập đều ngắn gọn, rõ ràng, giản dị mà truyền cảm, phù hợp với trình độ của
cán bộ và quản chúng cách mạng các dân tộc miền núi, nên đã có tác dụng tuyên
truyền và giáo dục hết sức to lớn.
Báo Việt Nam độc lập là một hình mẫu của báo chí cách mạng dưới sự chỉ
đạo của Nguyễn Ái Quốc. Cùng với báo Cơ giải phóng, bảo Cứu quốc và nhiều
tờ báo khác của Đảng, nó đã góp phần quan trọng vào việc động viên và tổ chức
quần chủng tham gia cách mạng, phát động toàn dân tiến tới Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi.
2.3.3.Hồ Chí Minh chỉ đạo thành lập căn cứ địa cách mạng
Sau khi về nước, Hồ Chí Minh đã chọn căn cứ ở Cao Bằng Ngày 16-41945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc tổ chức các Ủy ban dân tộc giải
phóng, coi đó là hình thức “tiền chính phủ, trong đó nhân dẫn học tập để tiến lên
giữ chính quyền cách mạng". Đầu tháng 5-1945, Hồ Chí Minh cho chuyến "đại
bản doanh" tử Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên Quang), nơi có phong
trào quần chủng mạnh mẽ, đã thiết lập được chính quyền cách mạng, thuận tiện
liên lạc với miền xi và với nước ngồi.
Ngày 4-6-1945, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Tổng bộ Việt Minh đã triệu
tập hội nghị cán bộ tuyên bố chính thức thành lập Khu giải phóng, gồm các tỉnh
Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số
vùng lân cận của các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Khu giải
phỏng là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới, nơi nhân dân làm chủ vận
mệnh của mình.
2.3.4.Hồ Chí Minh chỉ đạo thành lập lực lượng vũ trang
Phân tích tình hình cách mạng, Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội
Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam
Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại khu rừng Sam Cao thuộc châu
Nguyễn Bình, Cao Bằng, gồm 34 đội viên do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
Đây là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này. Hồ Chí
Minh nói: “Tên ĐỘI VIỆT NAM TUN TRUYỀN GIẢI PHỊNG

QUẢN” nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”. Sau ngày
thành lập, Đội đã giành 2 chiến thắng lớn là hạ đồn Phay Khắt (25-12-1944) và
đồn Nà Ngần (26-12-1944), mở đầu truyền thống trăm trận trăm thắng của quân
đội ta.


2.3.5.Hồ Chí Minh chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
Từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945, Hồ Chí Minh chỉ đạo triệu tập Hội nghị
toàn quốc của Đảng tại Tân Trào. Hội nghị quyết định phải kịp thời phát động và
lãnh đạo tồn dân tống khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân đội Đồng
minh vảo Thước ta, Hội nghị đã đề cập tới hàng loạt vấn đề cụ thể và cấp bách
về đối nội như: công tác tuyên truyền cổ động, nhiệm vụ quân sự, kinh tế, vấn đề
giao thông, vận động các giới và các đảng phái, vấn đề cán bộ... Hội nghị cũng
thơng qua Mười chính sách lớn của Việt Minh, coi đó là những mục tiêu cơ bản
và trước mắt của toàn Đảng, toàn dân. Hội nghị cũng đề ra chính sách đối ngoại
dựa trên nguyên tắc thêm bạn bớt thủ nhằm tranh thủ Đồng minh và chống lại
mọi âm mưu của các thế lực đế quốc, đảm bảo việc giành lại và giữ vững nền
độc lập. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa tồn quốc gồm 5
người, do Tổng Bí thư Trường Chinh phụ trách.
Vào 23h ngày 13-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ban bố Quân lệnh
số 1, hạ lệnh khởi nghĩa, Ngày 16 và 17-8-1945, Quốc dân Đại hội họp, tân
thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản và Tổng bộ Việt Minh.
Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu Bắc - Trung - Nam và đại biểu kiều bào ở
nước ngoài, đại biểu các đảng phái chính trị, các đoản thể nhân dân, các dân tộc,
tôn giáo. Đại hội tha thiết kêu gọi nhân dân toàn quốc, các đoàn thể cách mạng
kịp thời đứng lên, đoản kết phấn đấu để thể hình Mưởi chính sách của Việt
Minh. Để lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi tới thắng lợi, Đại hội
cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đại
hội Quốc dãn Tân Trào đã hoàn thành chức năng, nhiệm vụ như của một Quốc
hội dân cử. Đại hội đã thể hiện sự đoàn kết nhất trí của tồn dân tộc Việt Nam

trong Mặt trận Việt Minh, biểu thị lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, biểu thị ý chí và quyết tâm đưa cuộc tổng khởi
nghĩa đến thắng lợi hồn tồn.
Hồ Chí Minh gửi Thư kêu gọi Tông khởi nghĩa đến đồng bảo cả nước: “Giờ
quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến, Toàn quốc đồng bảo hãy đứng dậy
đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, Sức mạnh của nhân dân ta, từ Bắc đến
Nam, từ miên xuôi đến miền ngược, dồn nén sau 80 năm nô lệ đã bùng lên thành
bão táp cách mạng, đạp bằng mọi trở ngại, quyết giành lại chính quyền về tay
nhân dân. Ngày 19-8, Hà Nội khởi nghĩa; ngày 23-8, Huể khởi nghĩa; ngày 25-8,
Sài Gịn khởi nghĩa. Cách mạng thắng lợi hồn tồn.


2.3.6.Hồ Chí Minh sáng lập Nhà nước Dân chủ Cộng hịa
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc
Tun ngơn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước
dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, Tuyên ngôn cũng khẳng định với thế
giới cơ sở pháp lý về quyền được hưởng tự do độc lập của dân tộc Việt Nam.
Tuyên ngôn là kết tinh của bao nhiêu tác phẩm trước đó của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tử Yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam năm 1918 đến Chương trình
Việt Minh năm 1941 và những văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng ta. Tuyên
ngôn là kết quả của những bản tuyên ngôn khác của các bậc tiền bối như Phan
Đình Phùng, Hồng Hoa Thám, Phan Bội Châu và của nhiều người khác, là hoa
là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những
người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tủ, trong trại tập trung, ở những hải
đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trưởng, “là một trang vẻ vang trong lịch sử
Việt Nam”.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam chứng tỏ đường lối cứu
nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn đúng
đắn. Lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, Hồ Chí Minh đã có cơng hiện
quan trọng vào tiến trình cách mạng thế giới: phá vỡ hệ thống thuộc địa chủ

nghĩa đế quốc ở khâu yêu nhất của nó, mở đầu giai đoạn tan rã của hệ thống
thuộc địa cũ của thế giới. Thắng lợi đó đã chứng minh một chân lý: trong thời
đại cách mạng vơ sản, cách mạng giải phóng dân tộc, do giai cấp cơng nhân lãnh
đạo, hồn tồn có khả năng giãnh thắng lợi ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến, cuộc cách mạng ấy quan hệ mật thiết với cách mạng vơ sản ở chính quốc
nhưng khơng lệ thuộc vào thắng lợi của cách mạng ở chính quốc, trái lại, nó có
thể phát huy tính chủ động để giành thắng lợi trước khi giai cấp công nhân chính
quốc lên cầm quyền.
Như vậy, đây là thời kỳ mà tư tưởng của Hồ Chí Minh được cụ thể hóa
bằng những hoạt động thực tiễn trong phong trào cách mạng Việt Nam. Gắn với
nó là những tác phẩm tiêu biểu: Chiến thuật đo kích (1944), Phép dùng bình của
ơng Tơn Tử (1945), Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa (1945), Tuyên ngơn Độc lập
(1945)... Cụ thể các tư tưởng đó là:
Một là, tư tưởng về quân sự: xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây
dựng căn cứ địa cách mạng, phát triển lực lượng chính trị, kết hợp yếu tố thiên
thời - địa lợi - nhân hóa, duy trì phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quồn, nghệ


thuật khởi nghĩa, năm thời cơ, phát động khởi nghĩa đúng, đi từ khởi nghĩa từng
phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
Hai là, tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc: tổ chức các đoàn thể quần chúng,
tập hợp lực lượng toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất, lập ra Mặt trận
Việt Minh...
Ba là, tư tưởng về nhà nước: xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân, chỉ đạo
tiến hành tổng tuyển cử bầu ra chính phủ, xây dựng nhà nước pháp quyền, ký sắc
lệnh giải tán các cơ quan bộ máy cũ, xây dựng bộ máy nhà nước thể hiện sự
đồn kết dân tộc khơng phân chia đảng phái.
2.3.7.Hồ Chí Minh đưa ra các nhiệm vụ cấp bách để đưa nhà nước ra
khỏi nguy hiểm
Sáng 3-9-1945, tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa phiên họp

đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, nêu ra 6 nhiệm vụ cấp bách phải tập trung giải
quyết để đưa nước nhà ra khỏi nguy hiểm; một là, giải quyết nạn đói; hai là,
thanh tốn nạn dốt; ba là, tổ chức tổng tuyển cử, bốn lá, giáo dục lại nhân dân
theo tinh thần cần, kiệm, liêm, chính; năm là, bỏ ngay các thứ thuế bóc lột nhân
dân vơ nhân đạo; sáu là, thực hiện tự do tín ngưỡng, lượng giáo đốn kết.
Để giải quyết nạn đói, Người đề nghị phát động một chiến dịch tăng gia sản
xuất và mở cuộc lạc quyền cứu đói, coi cuộc chiến chống nạn đói cũng như cuộc
chiến chống ngoại xâm. Trong phong trào “Hũ gạo cứu đói”, Người làm gương
trước tiên,
Về tài chính quốc gia và ngân sách quốc phòng, ngày 4-91945, Người ký
sắc lệnh đặt ra Quỹ Độc lập và gửi thư kêu gọi các tầng lớp nhân dân hưởng ứng
“Tuần lễ vàng” ủng hộ Chính phủ.
Thúc đẩy việc xóa nạn mù chữ và xây dựng nền giáo dục mới, Người ký sắc
lệnh thành lập Nhà bình dân học vụ, Hội đồng cố vấn học chính để giúp Chính
phủ soạn thảo chương trình giáo dục mới của đất nước.
Người kêu gọi bài trừ hủ tục, mở cuộc vận động đời sống mới, xây dựng
một nền văn hóa mới.
Để kiện toản bộ máy nhà nước, Hồ Chí Minh ký một loạt sắc lệnh về tổ
chức bộ máy nhà nước với chức năng, nhiệm vụ mới, Người cũng xác lập những
nguyên tắc hoạt động cơ bản của quần chúng nhân dân là gánh vác công việc của
nhân dân, là đầy tớ của nhân dân, vì vậy cần thương yêu, gần gũi và kính trọng


nhân dân, Tư tưởng này thể hiện rõ trong Thư gửi Ủy ban nhân dẫn các kỳ, tỉnh,
huyện và làng ngày 17-10-1945, một loạt bài bảo trên báo Cứu quốc với bút
danh Chiến Thắng.
Thời gian này, Hồ Chí Minh thực hiện đường lối ngoại giao mềm dẻo, linh
hoạt để bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, Ngày 28-9-1945, tại cuộc họp
Hội đồng Chính phủ với tư cách. Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ lâm thời,
Người đã thảo lời tuyên bố về chính sách ngoại giao của nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa dựa trên những nguyên tắc tự do, bình đẳng và quyển dân tộc tự
quyết đã được các nước Đông minh ghi nhận trong các Hiến chương Đại Tây
Dương và Xan Phranxixcô. Được tin Liên hợp quốc sẽ lập Ủy ban tư vấn về
Viễn Đông và đưa Pháp vào Ủy ban đó, ngày 17-9-1945, Hồ Chí Minh gửi
Thơng điệp cho Liên hợp quốc và các vị đứng đầu các cường quốc để phản đối
việc nước Pháp có chân trong Ủy ban tư vấn Viễn Đông.
CHƯƠNG III:GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
3.1.Đối với cách mạng Việt Nam
3.1.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần mở ra cho các dân tộc thuộc địa con
đường giải phóng dân tộc gắn với sự tiến bộ xã
Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cứu nước cứu dân, sáng lập, lãnh đạo và
rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính tồn tâm, toàn ý phục
vụ nhân dân đã lãnh đạo cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành cơng. Hồ
Chí Minh đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - Thời đại
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Với tư tưởng Hồ Chí Minh, Người
cùng Đảng ta lãnh đạo cuộc kháng chiến chống pháp thắng lợi. Sau đó, lãnh đạo
miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân từng bước đi đến thắng lợi. Từ năm 1975, cả
nước hịa bình, độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh từ khi ra đời đã trở thành ngọn cờ tư tưởng dẫn
đường cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, và chính thực
tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam chúng mình, khẳng định tính đúng đắn,
giàu sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một hệ thống những quan điểm
lý luận về chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, về sự cải biến cách mạng xã hội cũ và xây


dựng xã hội mới trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, về xây
dựng những điều kiện đảm bảo cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi cuối cùng,
đó là xây dựng Đảng cộng sản cầm quyền trong sạch vững mạnh, xây dựng nhà

nước của dân, do dân vì dân, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất và các đồn
thể chính trị xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế,
v,v...
3.1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
cách mạng Việt Nam
Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng định hướng, soi
đường, chỉ đạo sự phát triển của cách mạng Việt Nam và dân tộc Việt Nam là
của chính người Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi đường cho Đảng
Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam trên con đường thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong suốt các chặng đường cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh
là ánh sáng soi đường, là kim chỉ nam định hướng hành động cho Đảng ta và
nhân dân ta. Khi nào làm đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh thì cách mạng thắng
lợi. Khi nào xa rời hoặc làm sai với tư tưởng Hồ Chí Minh thì cách mạng Việt
Nam bị tổn thất hoặc thất bại.
Tất cả các quan điểm lý luận và phương pháp cách mạng cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh đều là nhắm tới mục tiêu: Độc lập, thống nhất cho Tổ. quốc,
tự do, dân chủ cho nhân dân, công bằng và hạnh phúc cho mọi người, hịa bình
và hữu nghị cho các dân tộc với sự phát triển các quan hệ văn hóa, nhân văn của
thời đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là chỗ dựa vững chắc để Đảng Cộng sản Việt Nam
vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân Việt Nam đi tới thắng lợi. Tư tưởng Hồ Chí Minh trường
tồn, bất diệt cùng với sự phát triển vững mạnh của dân tộc Việt Nam,
3.2.Đối với sự phát triển tiến bộ của nhân loại
3.2.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần mở ra cho các dân tộc thuộc địa con
đường giải phóng dân tộc gắn với sự tiến bộ của xã hội
Mác cho rằng, mỗi thời đại xã hội đều cần những con người vĩ đại của nó
và nếu khơng có những con người vĩ đại như thế thì thời đại sẽ sáng tạo ra những
con người như thế. Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, đáp ứng đúng yêu cầu



×