Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.04 KB, 76 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Lý do chọn đề tài:

Những năm qua, hội nhập kinh tế quốc tế đang là một xu hướng phát triển mạnh
mẽ của bất kỳ quốc gia nào trên mọi lĩnh vực. Không ngoài xu thế đó, nền kinh tế Việt
Nam đang ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, điều đó đã tạo ra không ít
những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của các doanh nghiệp. Hội nhập kinh
tế quốc tế không chỉ đòi hỏi có sự thay đổi mạnh mẽ từ phía Chính phủ mà còn đòi hỏi
có sự thay đổi cơ bản trong chính các DN để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình
nhằm tận dụng các cơ hội và giảm thiểu các cách thức có thể xảy ra.
Trong các hoạt động của ngân hàng thương mại tín dụng là hoạt động có vai trò
hết sức quan trọng và mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên, ở Việt
Nam hiện nay hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại đối với các DNN&V
còn rất hạn chế; trong khi đó các DNN&V đang và sẽ rất phát triển, nhưng lại gặp khó
khăn nhiều mặt như thiết bị công nghệ lạc hậu, trình độ tổ chức và quản lý kém, năng
suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành sản phẩm cao, thị trường
không ổn định, bị hàng hoá nhập lậu và hàng hóa của các doanh nghiệp lớn cạnh
tranh, trong đó khó khăn lớn nhất đối với các DNN&V là thiếu vốn. Với mục tiêu hoạt
động: “Sự thành công của DN là niềm tự hào của chúng tôi” cùng với xu hướng phát
triển chung của các ngân hàng thương mại, từ một ngân hàng trước kia chủ yếu tập
trung phục vụ cho các DN quân đội làm kinh tế nay MB mở rộng đối tượng khách
hàng, cung cấp các sản phẩm dịch vụ phục vụ nhu cầu cho các DNN&V đã tạo thêm
nhiều khó khăn cho quá trình hoạt động của Ngân hàng.
Nhận thức được vấn đề này rất cần thiết đối với hoạt đông kinh doanh của Ngân
hàng Quân đội em lựa chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với
DNN&V tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội” làm chuyên đề thực tập tốt
nghiệp.
Mục tiêu nghiên cứu:

- Hệ thống hoá những lý luận chung nhất về NHTM, hoạt động tín dụng của


NHTM, đặc điểm và vai trò của DNN&V làm cơ sở lý luận và thực tiễn đối với việc
mở rộng hoạt động tín dụng đối với DNN&V tại Ngân hàng.
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
1
Chuyên đề tốt nghiệp
- Tìm hiểu nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng đối với DNN&V, phân
tích, đánh giá thực trạng về hiệu quả tín dụng đối với các DNN&V tại NHTMCPQĐ
rút ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đưa ra giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động tín dụng đối với
DNN&V tại NHTMCPQĐ.
Phương pháp nghiên cứu:

Để đạt được các mục đích đã đề ra, trên cơ sở các tài liệu thu thập được, đề tài sử
dụng kết hợp một số phương pháp như: phương pháp điều tra, phương pháp phân tích
số liệu, phương pháp thống kê và so sánh giữa các năm, các chỉ tiêu để tìm ra những
hạn chế và kết quả đạt được trong hoạt động tín dụng đối với DNN&V; kết hợp với
phương pháp phân tích tổng hợp đánh giá thực trạng phát triển đưa ra những nhận xét
và biện pháp giải quyết tối ưu.
Phạm vi nghiên cứu:

Cho vay là hoạt động chủ yếu trong hoạt động tín dụng của NHTM cũng như hoạt
động tín dụng đối với các DNN&V tại NHTMCPQĐ. Do đó, trong hoạt động tín dụng
đề tài tập trung nghiên cứu sâu các hoạt động liên quan đến cho vary đối với DNN&V
tại Ngân hàng Quân đội qua các năm 2005-2007.
Kết cấu chuyên đề:

Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết được chia thành 3 phần:
Chương I: Những vấn đề chung về tín dụng ngân hàng đối với DNN&V.
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với DNN&V tại NHTMCPQĐ.
Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với DNN&V tại

NHTMCPQĐ.
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1 DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG NỀN KINH TẾ
1.1.1 Khái niệm:
Trong thực tế, việc xác định thế nào là một DNN&V của một nước được cân
nhắc đối với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, tình hình làm việc nói chung và
tính chất của nền kinh tế hiện hành của nước đó. Việc xác định quy mô DNN&V chỉ
mang tính chất tương đối vì nó chịu tác động của các yếu tố như trình độ phát triển của
một nước, tính chất ngành nghề và điều kiện phát triển của một vùng lãnh thổ nhất
định. Nhìn chung trên thế giới việc xác định thế nào là một DNN&V chủ yếu căn cứ
vào hai tiêu chí phổ biến sau:
Tiêu chí định tính: được xây dựng dựa trên các đặc trưng cơ bản của các
DNN&V như trình độ chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp
của quản lý thấp… Tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề
nhưng trên thực tế nó thường khó xác định. Do đó, chúng chỉ được sử dụng để tham
khảo, kiểm chứng mà ít được sử dụng để xác định quy mô DN.
Tiêu chí định lượng: xây dựng dựa trên các chỉ tiêu như số lượng lao động,
tổng giá trị tài sản (hay tổng vốn), doanh thu hoặc lợi nhuận của DN. Số lao động có
thể là số lao động trung bình trong danh sách hoặc số lao động thường xuyên thực tế
của DN. Tài sản hoặc vốn có thể bao gồm tổng giá trị tài sản (hay vốn) cố định hoặc
giá trị tài sản (hay vốn) còn lại của DN.
Các tiêu chí định lượng có vai trò rất quan trọng trong việc xác định quy mô
DN. Tuy nhiên mỗi nước trên thế giới có các tiêu chí khác nhau để xác định DNN&V
phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Trình độ phát triển của mỗi nước và tính chất của mỗi ngành nghề: trình độ
phát triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng. Ngoài ra tùy thuộc vào tính chất và

yêu cầu của từng ngành mà có ngành sử dụng nhiều lao động. Ở các nước phát triển
thì chỉ số về lao động, vốn để phân loại DNN&V càng cao. Ví dụ như ở Nhật Bản, các
DNN&V là DN có 300 lao động và nguồn vốn là 1triệu USD trong đó các DN trong
lĩnh vực sản xuất, chế tạo có từ 1 đến 300 lao động và số vốn kinh doanh không vượt
quá 300 triệu Yên, còn các DNN&V trong ngành thương mại - dịch vụ có số lao động
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
3
Chuyên đề tốt nghiệp
không quá 100 người với số vốn kinh doanh không quá 100 triệu Yên. Còn ở Đài
Loan, các DN trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo có từ 1 đến 200 lao động được coi là
DNN&V, trong khi các DN trong ngành thương mại - dịch vụ có từ 1 đến 50 lao động.
Ngược lại ở Mỹ một nước phát triển có một tiêu chí xác định chung cho các DNN&V
là số lao động không quá 500 người.
Vùng lãnh thổ: mỗi vùng miền có trình độ phát triển khác nhau về cả quy mô
và số lượng DN. Chính vì vậy, để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh giữa
các vùng với nhau cũng cần tính đến hệ số vùng trong tiêu chuẩn xác định DNN&V.
Vùng có nền kinh tế phát triển cao thì số lượng và quy mô DN phải cao hơn so với
vùng có nền kinh tế phát triển thấp.
Tính chất lịch sử: trong quá trình phát triển kinh tế, quy mô của các DN không
ngừng tăng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Ở Việt Nam, trước năm 1998,
chưa có một văn bản pháp luật chính thức nào quy định tiêu chuẩn cụ thể của
DNN&V. Do đó, mỗi một tổ chức đưa ra một quan niệm khác nhau về DNN&V nhằm
định hướng mục tiêu và đối tượng hỗ trợ hoạt động của tổ chức mình. NHCT Việt
Nam đưa ra tiêu chuẩn DNN&V là những DN có giá trị tài sản dưới 10 tỷ đồng, vốn
lưu động dưới 8 tỷ đồng, doanh thu dưới 8 tỷ đồng và số lao động thường xuyên dưới
500 người, tồn tại dưới bất kỳ hình thức sở hữu nào. Thành phố Hồ Chí Minh lại xác
định những DN có vốn pháp định trên 1 tỷ đồng, doanh thu hàng năm trên 10 tỷ đồng
và lao động thường xuyên có trên 100 người là những DN có quy mô vừa. Những DN
dưới mức tiêu chuẩn đó là các doanh nghiệp nhỏ. Tổ chức UNIDO tại Việt Nam lại
đưa ra tiêu thức xác định doanh nghiệp nhỏ là DN có ít hơn 50 lao động, tổng số vốn

là doanh thu dưới 1 tỷ đồng, doanh nghiệp vừa là các DN có số lao động từ 51 đến 200
người, tổng số vốn và doanh thu từ 1 tỷ đến 5 tỷ đồng.
Đối với Việt Nam còn tùy vào chương trình hỗ trợ phát triển DNN&V của các
tổ chức trong nước và quốc tế đã đưa ra nhiều loại tiêu chí xây dựng DNN&V tùy theo
mục tiêu của chương trình tài trợ, cụ thể:
- Quỹ hỗ trợ DNN&V của chương trình Việt Nam – EU xác định đối tượng
được hỗ trợ là các DN có số lao động từ 10 đến 500 người và vốn điều lệ từ 50.000
đến 300.000 USD.
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
4
Chuyên đề tốt nghiệp
- Theo Thông tư Liên bộ số 21/ LĐTT ngày 17/6/1993 của Bộ lao động thương
binh và xã hội và Bộ Tài chính thì DNN&V là các DN có số lao động thường xuyên
dưới 100 người, vốn pháp định dưới 1 tỷ đồng và doanh thu hàng năm dưới 10 tỷ
đồng.
Căn cứ vào tình hình kinh tế cụ thể của từng ngành nghề, địa phương, trong
quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng
thời cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu. Một số nhà nghiên cứu
có ý kiến cho rằng: Ở Việt Nam cần phân định DNN&V theo lĩnh vực sản xuất và
dịch vụ. Đối với lĩnh vực sản xuất DN có vốn dưới 1 tỷ đồng, số lao động dưới 100
người là doanh nghiệp nhỏ, DN có vốn từ 1 tỷ đến 10 tỷ đồng, 100 đến 500 lao động
là doanh nghiệp vừa. Đối với lĩnh vực thương mại - dịch vụ DN có vốn dưới 500 triệu
và dưới 50 lao động là doanh nghiệp nhỏ, còn DN có vốn từ 500 triệu đến 5 tỷ và lao
động từ 50 đến 250 người là doanh nghiệp vừa.
Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ- CP ngày 23/11/2001 tại điều 3
đã đưa ra khái niệm mới về DNN&V: “ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất kinh
doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không
vượt quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Khu vực DNN&V ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
- Các DNNN có quy mô vừa và nhỏ kinh doanh độc lập.

- Các hợp tác xã có quy mô vừa và nhỏ đăng kí hoạt động theo luật hợp tác xã.
- Các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, DNTN có quy mô vừa và
nhỏ kinh doanh độc lập đăng kí hoạt động theo luật công ty, luật doanh nghiệp
tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng kí hoạt động theo Nghị định số 02/2000/NĐ -
CP ngày 03/02/2000 của chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Các DNN&V luôn chiếm số lượng lớn so với các khu vực khác và tốc độ phát
triển ngày càng tăng. Bằng chứng là cộng đồng DNN&V có khoảng 230 000 DN,
trong đó chiếm đến 90% là DNN&V, đóng góp khoảng gần 30% vào GDP mỗi năm.
DNN&V cũng là đội ngũ chính cung cấp khoảng trên 30% tổng sản lượng công
nghiệp và tạo ra khoảng 40% lao động việc làm, chưa kể các hợp tác xã, các hộ kinh
doanh có thể chuyển lên được thành DN.
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
5
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2 Đặc điểm của các DNN&V:
Các DNN&V là các DN có quy mô vốn nhỏ và hầu hết hoạt động trong các
ngành thương mại, dịch vụ sử dụng nhiều lao động. Cũng như các loại hình DN khác,
DNN&V có những đặc điểm nhất định ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát
triển của các DN.
1.1.2.1 DNN&V có nguồn lao động dồi dào:
DNN&V thu hút nhiều lao động không đòi hỏi tay nghề quá cao do đó có lợi
thế trong việc khai thác nguồn lực sẵn có của địa phương đặc biệt là ngành sử dụng
nhiều lao động, DNN&V có những tác động tích cực trong việc tạo ra việc làm cũng
như nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân cư tại địa phương hoặc duy trì và
bảo vệ các giá trị văn hoá truyền thống. Bên cạnh đó, việc phát triển các DNN&V còn
có lợi ích như giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, giảm sự cách biệt
giữa thành thị và nông thôn, qua đó cũng góp phần làm giảm tệ nạn xã hội và giúp
Chính phủ giải quyết tốt hơn những vấn đề xã hội khác.
Các DNN&V do có nhiều nguồn vốn ít nên đầu tư vào tài sản cố định cũng ít,

họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn đặc biệt là ở nước ta, nước có nguồn lao
động dồi dào với giá công lao động thấp, để tiến hành sản xuất kinh doanh phục vụ
dân sinh đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Quan hệ lao động trong các DNN&V
thường có tính chất thân thiện, gần gũi hơn so với các doanh nghiệp lớn. Chính vì vậy
mà người lao động thường dễ dàng được quan tâm, động viên, khuyến khích hơn trong
công việc. Đặc biệt là đối với nước ta đó là mối quan hệ gần gũi, thân thiện của văn
hoá truyền thống.
Bên cạnh những điểm mạnh đó khó khăn hiện nay mà các DNN&V gặp phải
như do quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ tính ổn định thấp, sản phẩm tiêu thụ không
nhiều nên không thể trả lương cao cho người lao động được do đó khó thu hút được
đội ngũ lao động và người quản lý giỏi, có khả năng đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế nhất là trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Trình độ học vấn
thấp quy mô doanh nghiệp nhỏ lại thiếu vốn nên hầu như các DNN&V thiếu các
nguồn lực để thực hiện các ý tưởng kinh doanh lớn, hoặc các dự án đầu tư lớn, các dự
án đầu tư công cộng.
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Phần lớn chủ doanh nghiệp và cán bộ quản lý chưa qua đào tạo hoặc đào tạo
chưa có bài bản, tiến hành sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của chính bản thân
và gia đình. Trong quản lý tài chính của các DNN&V còn thiếu minh bạch, số liệu
chưa phản ánh được thực trạng của DN. Theo số liệu thống kê cho biết: có tới 55,63%
chủ DNN&V có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống (trong đó có khoảng 12,3%
tốt nghiệp trung cấp; 43,33% có trình độ thấp) và chỉ có khoảng 0,66% là tiến sĩ;
2,33% thạc sĩ; 37,82% đại học; 3,56% cao đẳng. Như vậy, các chủ DNN&V thiếu
kinh nghiệm về nhiều mặt từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị
trường. Có tới 80% DNN&V hướng vào khai thác chế biến nguyên liệu tại chỗ, chế
biến nông sản thực phẩm, gỗ, dệt may, sản xuất gạch ngói… Người lao động có tay
nghề kém, ít qua đào tạo cơ bản, chủ yếu được truyền theo kiểu cha truyền con nối.
Lao động phổ thông, trình độ tay nghề còn đơn giản, chưa được đào tạo chiếm khoảng

60 đến 70% lực lượng lao động trong các DNN&V.
1.1.2.2 Tiềm lực tài chính hạn chế:
DNN&V có nguồn tài chính hạn chế, khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng
còn thấp. Hầu hết các DNN&V chỉ cần một lượng vốn ít, số lao động không nhiều,
diện tích mặt bằng nhỏ với các điều kiện làm việc đơn giản đã có thể bắt đầu kinh
doanh ngay sau khi có ý tưởng kinh doanh. Loại hình DN này gần như không đòi hỏi
một lượng vốn đầu tư lớn ngay trong giai đoạn đầu. Việc tạo nguồn vớn kinh doanh
thường là một khó khăn lớn đối với các DN, nhưng do tốc độ quay vòng vốn nhanh
nên DNN&V có thể huy động vốn từ nhiều nguồn không chính thức khác nhau như
bạn bè, người thân để nhanh chóng biến ý tưởng kinh doanh thành hiện thực. DNN&V
thường khởi sự từ nguồn vốn ban đầu không cao nhưng họ chủ yều hoạt động nhờ
nguồn vốn này.
Quy mô số vốn ban đầu của doanh nghiệp rất quan trọng và tăng theo quy mô
phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng hoạt động có hiệu quả thì càng có
điều kiện để tăng trưởng nguồn vốn. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, sự phát triển DNN&V là cách tốt nhất để có thể khai thác nhiều tiềm năng trong
dân cư. Do có vốn ít nên DNN&V sẵn sàng chấp nhận đầu tư vào lĩnh vực mới, còn
các doanh nghiệp lớn thường rất thận trọng khi đầu tư vào lĩnh vực mới bởi vì nếu gặp
phải rủi ro thì tổn thất của họ là rất lớn. Tuy nhiên DNN&V muốn đầu tư phải có
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
7
Chuyên đề tốt nghiệp
nguồn vốn đáp ứng nhu cầu, doanh nghiệp có thể huy động được vốn nợ đặc biệt là
nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng có nhiều ưu thế vượt trội nhưng
DNN&V không dễ dàng tiếp cận được. Doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều
kiện tín dụng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn. Năng lực
tài chính nội tại của DNN&V thấp, các chỉ tiêu tài chính thường không đảm bảo yêu
cầu của ngân hàng, thêm vào đó DN không có tài sản có giá trị để làm tài sản đảm bảo
khi nhận tín dụng…
DNN&V không có các lợi thế kinh tế theo quy mô và ở một số nước thì loại

hình doanh nghiệp này thường bị yếu thế trong các mối quan hệ với ngân hàng, với
Chính phủ và giới báo chí bị phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp lớn trong quá
trình phát triển như về thương hiệu hàng hoá, thị trường, công nghệ, tài chính…
Đối với tín dụng thương mại, là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt
nhưng mức độ rủi ro cho nhà cung cấp cao cần có quan hệ hợp tác lâu bền tín nhiệm
lẫn nhau. Tín dụng thương mại được hình thành trong quan hệ mua bán chịu, mua bán
trả chậm hay trả góp.
Theo số liệu điều tra của cục phát triển DNN&V thuộc Bộ kế hoạch và Đầu tư,
tiến hành tại hơn 63 nghìn DN ở 30 tỉnh, thành phía Bắc cho thấy quy mô vốn của các
DN nhỏ, khả năng tiếp cận nguồn vốn còn thấp: chỉ có 32,38% DN tiếp cận được
nguồn vốn của Nhà nước mà chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước và DN cổ phần
hoá; 35,24% số DN khó tiếp cận và 32,38%không tiếp cận được. Việc tiếp cận các
nguồn vốn khác cũng khó khăn chỉ có 48,65% số DN tiếp cận được; 30,43% khó tiếp
cận và 20,92% không tiếp cận được.
1.1.2.3 DNN&V năng động và linh hoạt trong sản xuất kinh doanh.
DNN&V tồn tại và phát triển ở mọi ngành nghề mọi thành phần kinh tế, lĩnh
vực sản xuất kinh doanh nên dễ thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường. Điều
này được thể hiện qua khả năng chuyển đổi mặt hàng nhanh, phù hợp với xu hướng
thay đổi nhanh chóng của nhu cầu trên thị trường. trước những biến động của thị
trường, đứng trước nhu cầu ngày càng phong phú đa dạng của khách hàng, các
DNN&V rất linh động và mạnh dạn đầu tư sản xuất, cải tiến và trang bị công nghệ với
chi phí bổ sung không cao. Chỉ cần số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
8
Chuyên đề tốt nghiệp
tiến hành sản xuất kinh doanh như nhận gia công đơn đặt hàng của các doanh nghiệp
lớn đặc biệt là trong ngành dệt, may, cơ khí…
Bên cạnh đó, DNN&V có lợi thế hơn so với các doanh nghiệp lớn trong việc
khai thác, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống. Có rất nhiều DNN&V
của Việt Nam và thế giới đã từng bước trưởng thành và lớn mạnh khi khai thác các

nguồn lực sẵn có của địa phương. Tổ chức quản lý của DNN&V đơn giản, dễ đưa ra
quyết định, khi nhu cầu thị trường thay đổi hay gặp khó khăn dễ dàng thay đổi tình
thế, nội bộ dễ đi đến thống nhất. Trước những biến động của thị trường, họ rất linh
hoạt và mạnh dạn đầu tư, thay đổi trong sản xuất, trang thiết bị kỹ thuật với chi phí bổ
sung không cao. Ngoài ra các doanh nghiệp nhỏ còn có nhiều lợi thế hơn các doanh
nghiệp lớn trong việc nắm bắt kịp thời nhu cầu và thị hiếu thường xuyên thay đổi của
người tiêu dùng, qua đó tạo ra nhiều loại hàng hoá và dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu
ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Theo khía cạnh này, các DNN&V có
lợi thế hơn trong việc định hướng và làm xuất hiện nhiều nhu cầu mới từ phía người
tiêu dùng. Nhờ sự phát triển của các DNN&V mà nhiều loại sản phẩm và dịch vụ mới
đã ra đời. Đây là một lợi thế rất lớn của DNN&V trong cơ chế thị trường, góp phần
quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hơn nữa, các DNN&V cần ít diện tích sản xuất tập trung cho khả năng sản xuất
phân tán, khả năng này phát huy lợi thế về giảm đầu tư ban đầu cho cơ sở vật chất, tận
dụng được các nguồn lực phân tán đồng thời tạo ra tính linh hoạt cao trong tổ chức sản
xuất.
Vì hoạt động với quy mô nhỏ cho nên hầu hết các DNN&V đều rất năng động
và dễ thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường. Trong một số trường hợp
các DNN&V còn năng động trong việc đón đầu những biến động đột ngột của thể chế,
chính sách quản lý kinh tế xã hội, hay các dao động đột biến trên thị trường. Trên góc
độ thương mại, nhờ tính năng động này mà các DNN&V dễ dàng tìm kiếm những thị
trường mới và gia nhập thị trường này khi công việc kinh doanh có thể thu nhiều lợi
nhuận hoặc rút khỏi thị trường này khi công việc kinh doanh trở nên khó khăn và kém
hiệu quả. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nền kinh tế đang chuyển đổi hoặc
các nền kinh tế đang phát triển.
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
9
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2.4 Trình độ khoa học công nghệ và quản lý thấp:
Để thành công trong nền kinh tế cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, bất kỳ một

doanh nghiệp nào cũng quan tâm đến công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp
và bí quyết sản xuất. Nó giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm, giảm bớt chi phí sản xuất và tăng năng lực cạnh tranh. Năng lực tiếp nhận, ứng
dụng công nghệ vào sản phẩm và quản lý phụ thuộc vào nhận thức, thông tin, nguồn
nhân lực và nguồn vốn của doanh nghiệp. Thông thường các doanh nghiệp có khả
năng quản lý tốt là những doanh nghiệp thường xuyên có những thay đổi công nghệ và
cần nhiều vốn.
DNN&V với nguồn vốn, trình độ nhân lực hạn chế nên ít có thay đổi công
nghệ phù hợp. Thực tế, hầu hết các thiết bị được sử dụng đều rất lạc hậu. Các chủ DN
chưa đánh giá hết tầm quan trọng và tính bức bách trong việc đổi mới công nghệ. Đầu
tư công nghệ ít quan tâm đến phương pháp và bí quyết sản xuất, đầu tư “nhỏ giọt”,
thiếu động bộ dẫn đến hiệu suất sử dụng công nghệ không cao. Công nghệ sử dụng
trong các DNN&V ở nước ta, lạc hậu so với các nước trong khu vực từ 2-3 thế hệ,
thiết vị máy móc thời gian khấu hao đã hết nhưng vẫn được sửa chữa và sử dụng.
Khoảng 8% DNN&V ở phía Bắc đạt trình độ công nghệ tiên tiến mà phần lớn là
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các chủ DN không có kiến thức, thông tin,
kinh nghiệm về những vấn đề liên quan đến lựa chọn, mua và chuyển giao công nghệ.
DNN&V nước ta được thành lập trong thời kỳ đổi mới chủ yếu là các DN gia đình.
Do vậy trình độ quản lý, điều hành thường theo thói quen, kỹ năng quản lý theo định
hướng thị trường hiện đại còn thiếu. Tuy trình độ kỹ thuật công nghệ thấp nhưng các
DNN&V ít có nhu cầu đào tạo về kỹ thuật công nghệ cũng như trình độ quản lý.
1.1.3 Vai trò của DNN&V:
Đối với sự phát triển kinh tế của một đất nước thì không thể không kể đến sự
đóng góp của các DNN&V. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển thì DNN&V
có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay,
để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các nước đặc biệt là các nước đang phát triển cần có
các chính sách hỗ trợ phát triển DNN&V, có như vậy mới huy động được tối đa nguồn
lực xã hội, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp lớn phát triển, tăng sức cạnh tranh trên
thị trường…Vị trí và vai trò đó của DNN&V được thể hiện như sau:
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q

10
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.3.1 Thu hút vốn và khai thác nguồn lực sẵn có trong dân cư:
DNN&V có vai trò quan trọng trong việc khai thác nguồn tài chính của dân cư
trong vùng và sử dụng tối ưu nguồn lực tại chỗ của các địa phương. Với việc thành lập
một doanh nghiệp loại này chỉ cần một số vốn nhỏ do đó đã tạo điều kiện cho dân cư
tham gia đầu tư góp vốn vào DNN&V. Như vậy thông qua các DNN&V, những
nguồn vốn nhỏ, tạm thời nhàn rỗi đã có khả năng được sinh lời. Hơn nữa việc tiếp cận
nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các DNN&V rất hạn chế, nguồn vốn hoạt động chủ
yếu được huy động từ những người thân quen vì thế DNN&V được tiếp xúc trực tiếp
với người cho vay, người cho vay có khi là chủ sở hữu doanh nghiệp, trực tiếp điều
hành hoạt động của doanh nghiệp nên việc sử dụng vốn sẽ hiệu quả hơn. Bên cạnh đó
các DNN&V có thể tận dụng được nguồn lao động và nguyên vật liệu với giá rẻ do đó
làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh
nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm. Như vậy sự phát triển của các DNN&V đã tận
dụng được tối đa các nguồn lực của xã hội, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động có
trình độ, tay nghề thấp góp phần làm ổn định và phát triển xã hội.
Về tiềm lực vốn: vốn đầu tư là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Vốn là
yếu tố cơ bản để khai thác và phối hợp các yếu tố sản xuất khác như lao động, đất đai,
công nghệ và quản lý để tạo ra lợi nhuận cho các chủ doanh nghiệp. Vốn có vai trò to
lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, đào tạo nghề, nâng cao trình độ
tay nghề cho công nhân cũng như trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên
một nghịch lý hiện nay là trong khi có nhiều doanh nghiệp đang thiếu vốn trầm trọng
thì nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư còn nhiều nhưng không huy động được. Khi
chính sách tài chính tín dụng của Chính phủ và các Ngân hàng chưa thực sự gây được
niềm tin đối với những người có vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư thì nhờ sự đa
dạng hoá trong các loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khởi sự bằng nguồn vốn
hạn hẹp DNN&V thu hút được đông đảo người dân tham gia. Do đó, nguồn vốn nhàn
rỗi trong dân cư được đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh, hạn chế tiêu dùng không
sinh lợi, nhiều DNN&V đã tiếp xúc trực tiếp với người dân và huy động được vốn để

kinh doanh, thành lập doanh nghiệp. Dưới khía cạnh đó, DNN&V có vai trò to lớn
trong việc huy động vốn để phát triển kinh tế.
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
11
Chuyên đề tốt nghiệp
Về lao động: đặc điểm chung của các DNN&V là ít vốn và hoạt động chủ yếu
trong các ngành sử dụng nhiều lao động. Do đó, DNN&V ở tất cả các nước có thể tạo
công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động. Ở nhiều nước trên thế giới, kể
cả các nước phát triển, DNN&V là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất. Hiện nay, DNN&V
chiếm 90-99% trong tổng số lượng các doanh nghiệp các nước, ở Việt Nam con số này
là 90%. Mặc dù số lượng lao động trong các doanh nghiệp không nhiều nhưng tổng số
lao động làm việc trong các DNN&V chiếm tỷ lệ đáng kể từ 50-80%, khi các DNN&V
phát triển sẽ tạo nhiều cơ hội tăng việc làm, thu hút lao động và giảm tỷ lệ thất nghiệp
trong nền kinh tế. DNN&V thường nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ
nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, sử dụng nhiều lao động, vốn ít với chi phí thấp nên
phần lớn lao động trong khu vực này không đòi hỏi trình độ cao, mất nhiều thời gian
đào tạo và chi phí tốn kém mà chỉ cần bồi dưỡng hoặc là người lao động có thể tham gia
sản xuất trong doanh nghiệp. Khi những doanh nghiệp lớn ứng dụng công nghệ tự động
hóa, lao động phổ thông dư thừa, cầu lao động phổ thông đối với doanh nghiệp lớn giảm
mạnh. DNN&V là nơi thu hút tiếp nhận và đảm bảo thu nhập cho họ. Như vậy có thể
thấy rằng DNN&V có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra và tăng thêm việc làm
cho nền kinh tế, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp và ổn định xã hội bằng cách thu hút
nhiều lao động với chi phí thấp và chủ yếu bằng vốn của dân.
Trong tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay, một bộ
phận lao động không nhỏ dư thừa, với những kinh nghiệm tích luỹ được trong lao
động họ có thể tự thành lập hay tìm kiếm công việc tại các DNN&V góp phần quan
trọng vào việc đẩy mạnh sự phát triển của các DNN&V.
Về khoa học kỹ thuật: với quy mô hoạt động nhỏ, DNN&V thường lựa chọn kỹ
thuật phù hợp với trình độ lao động và khả năng về vốn. Họ kết hợp kỹ thuật thủ công
với kỹ thuật mà người lao động có thể nhanh chóng tiếp thu và làm chủ trong sản xuất.

1.1.3.2 Đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) & thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế:
Sự phát triển nhanh các DNN&V về cả số lượng và chất lượng đã đóng góp
đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng thu nhập cho các nước.
Cũng như DNN&V ở tất cả các nước, DNN&V ở Việt Nam cung cấp ra thị
trường nhiều loại hàng hóa khác nhau đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
12
Chuyên đề tốt nghiệp
nước như trang thiết bị và linh kiện cần thiết cho các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và
các ngành thủ công nghiệp cũng như các hàng hóa tiêu dùng khác. Theo số liệu thống
kê trong những năm vừa qua DNN&V đã đóng góp 25-28% GDP của cả nước, vốn
kinh doanh của khu vực DNN&V chiếm 2% so với vốn kinh doanh của tất cả các
doanh nghiệp. Ngoài ra, DNN&V Việt Nam còn cung cấp hầu hết sản phẩm trong
nhiều ngành công nghiệp truyền thống thu hút nhiều lao động như giầy dép, chiếu
cói… việc mở rộng và phát triển các DNN&V sẽ góp phần không nhỏ trong việc làm
tăng GDP, đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Phát triển DNN&V làm số lượng các doanh nghiệp tăng lên rất lớn, tăng tính
cạnh tranh giảm bớt mức độ rủi ro. Các DNN&V cung cấp nguyên liệu, sản xuất và
tiêu thụ hàng hoá thâm nhập vào ngõ ngách thị trường những nơi doanh nghiệp lớn
không làm được.
Các DNN&V tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu, số lượng DNN&V
tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu chiếm 80,6%, nhập khẩu chiếm 84,2% tổng số
doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu trên cả nước. DNN&V thường
không có tình trạng cạnh tranh độc quyền, họ dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do
cạnh tranh. Tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để phát huy mọi tiềm lực. Sự phát
triển của DNN&V trong giai đoạn đầu là phương thức tốt nhất để sản xuất thay thế
nhập khẩu với mức chi phí đầu tư thấp, kỹ thuật không phức tạp, sản phẩm phù hợp
với sức mua của dân, từ đó tăng năng lực sản xuất và sức mua của thị trường.
Quá trình phát triển của DNN&V cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết bị,

nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của thị trường. Từ đó đổi mới công nghệ, làm quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
diễn ra ở cả chiều rộng và chiều sâu.
Với những ưu thế về ngành nghề, tính nhạy cảm của thị trường cao, các
DNN&V có nhiều ưu thế trong việc sản xuất và cung ứng các sản phẩm đáp ứng nhu
cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Ở một số nước DNN&V tham gia xuất khẩu
chiếm tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu từ 30-50%.
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
13
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.3.3 Tạo sự phát triển giữa các vùng, ngành góp phần phát triển quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Trong quá trình kinh doanh, nhiều DNN&V có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp
lớn kinh doanh một cách hiệu quả hơn như làm đại lý và vệ tinh cho các doanh nghiệp
lớn, cung cấp những bán thành phẩm hay nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp
lớn hoặc thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn khó có thể với
tới để phân phối các sản phẩm của doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng
giữa các vùng. Mục tiêu hoạt động của DNN&V là phục vụ nhu cầu tiêu dùng của
nhân dân là chủ yếu, sử dụng nhiều lao động do đó giải quyết được tình trạng thất
nghiệp ở các địa phương. Bên cạnh đó, khi số DNN&V tăng lên sẽ kéo theo sự gia
tăng nhanh chóng số lượng các sản phẩm và dịch vụ mới trong nền kinh tế. Nhờ hoạt
động với quy mô nhỏ và vừa, các DNN&V có ưu thế là chuyển hướng kinh doanh
nhanh từ những ngành nghề kém hiệu quả sang các ngành khác hiệu quả hơn, thoả
mãn nhu cầu linh hoạt của dân cư. Chính sự phát triển đó của các DNN&V đã làm
tăng tính cạnh tranh, tính linh hoạt và giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế.
Việc phát triển các DNN&V sẽ dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo tất
cả các khía cạnh vùng kinh tế, ngành kinh tế và thành phần kinh tế. Trước tiên, đó là
sự thay đổi cơ cấu kinh tế vùng nhờ sự phát triển của các khu vực nông thôn qua phát
triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xóa dần
tình trạng thuần nông và độc canh. Các doanh nghiệp được phân bổ đều hơn về lãnh

thổ ở cả vùng nông thôn, đô thị, miền núi, đồng bằng. Ngoài ra, sự phát triển manh các
DNN&V còn có tác dụng làm cho cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi nhờ sự tăng
mạnh của các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh và việc sắp xếp lại các doanh nghiệp
Nhà nước. Sự phát triển các DNN&V cũng kéo theo sự thay đổi của cơ cấu ngành
kinh tế thông qua sự đa dạng hóa các ngành nghề và lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo.
Việc phát triển các DNN&V còn có tác dụng duy trì và thúc đẩy sự phát triển của các
ngành nghề truyền thống và sản xuất ra các sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc,
khai thác thế mạnh của đất nước.
Xuất phát từ một nước kinh tế nông nghiệp, Việt Nam có nhiều làng nghề thủ
công truyền thống nổi tiếng. Các ngành nghề này ngày càng thu hút được sự đầu tư
phát triển của các DNN&V, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
14
Chuyên đề tốt nghiệp
nông thôn, thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo, tạo sự phát triển đồng đều,
bền vững giữa các vùng. Hình thành nên các vùng sản xuất lớn, nhiều làng nghề xuất
hiện góp phần gia tăng sản phẩm hàng hoá tinh chế, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá
trên thị trường, thúc đẩy các ngành nghề phát triển.
Các DNN&V hình thành và phát triển trong những ngành nghề khác nhau luôn
có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối liên kết với các doanh nghiệp lớn. Nhiều
doanh nghiệp nhỏ khi mới ra đời chỉ nhằm mục đích làm vệ tinh cung cấp các sản
phẩm cho các doanh nghiệp lớn. Mối quan hệ giữa các DNN&V và các doanh nghiệp
lớn cũng chính là nguyên nhân thành công của nền kinh tế Nhật Bản trong nhiều thập
kỷ qua. Do đó, khi các DNN&V Việt Nam phát triển sẽ góp phần tăng cường các mối
quan hệ liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các DNN&V và các DNN&V với các doanh
nghiệp lớn, nhờ đó các rủi ro kinh doanh dược phân tán làm tăng hiệu quả kinh tế xã
hội. Đồng thời, các DNN&V chính là nguồn tích luỹ ban đầu và là “lồng ấp” cho các
doanh nghiệp lớn. Các cơ sở doanh nhân thường xuất phát từ một DNN&V do chưa
có nhiều kinh nghiệm và chưa thật hiểu rõ về thị trường sau một thời gian hoạt động
đã tích luỹ kinh nghiệm và khẳng định vị thế của mình và mở rộng hoạt động kinh

doanh và phát triển với quy mô lớn. Từ DNN&V phát triển và mở rộng thành doanh
nghiệp lớn còn tiết kiệm chi phí đào tạo khi tuyển được các nhân viên có tay nghề từ
các DNN&V chuyển sang có thể nói, DNN&V là tiền đề cho các doanh nghiệp lớn.
1.1.4 Nhu cầu về vốn của các DNN&V :
Vốn là điều kiện đầu tiên để một doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh. Vốn có ý nghĩa quan trọng trong suốt quá trình hoạt động của doanh
nghiệp vì vốn duy trì hoạt động và đảm bảo cho sản xuất được liên tục. DNN&V có
tiềm lực tài chính rất hạn chế, vốn đầu tư ban đầu ít, vốn lưu động lại càng ít. Thiếu
vốn dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không có điều kiện chọn lựa các mặt hàng có
chất lượng cao trong kinh doanh, đầu tư vào đổi mới các thiết bị, công nghệ. Bản thân
các DNN&V hoạt động theo hướng tự huy động vốn từ nguồn vốn nhàn rỗi trong dân
cư, từ các mối quan hệ họ hàng thân quen là chủ yếu. DNN&V có thể huy động vốn từ
nguồn tín dụng ngân hàng nhưng để tiếp cận với nguồn vốn này doanh nghiệp phải
đáp ứng được các điều kiện tín dụng cũng như phải chịu sự giám sát của ngân hàng.
Vốn và vay vốn luôn là một khó khăn của các DNN&V. Bởi vì các DNN&V thường
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
15
Chuyên đề tốt nghiệp
là các doanh nghiệp mới thành lập, chưa có bề dày và uy tín trên thương trường, lại
thiếu tài sản thế chấp khi muốn vay vốn ngân hàng hay các tổ chức tín dụng. Chính
phủ và các tổ chức tín dụng đã có nhiều nỗ lực trong việc đơn giản hoá các thủ tục vay
vốn nhằm giúp các DNN&V tiếp cận với các nguồn vốn dễ dàng hơn.
DNN&V còn có thể huy động từ các tổ chức tín dụng thương mại, đây là
phương thức tài trợ rẻ, linh hoạt và tiện dụng nhưng rủi ro lại cao do các doanh nghiệp
dễ dàng chiếm dụng vốn của nhau.
Với sự trợ giúp của Chính phủ và các tổ chức tín dụng, hiện đã có 39.421
doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng, trong đó DNN&V chiếm
86%. Dư nợ cho vay đối với các doanh nghiệp chiếm 67% tổng dư nợ cho vay toàn
nền kinh tế, trong đó tổng dư nợ cho vay đối với các DNN&V chiếm 47% tổng dư nợ
cho vay các doanh nghiệp. Tỷ lệ các DNN&V tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng ở

mức không cao (chiếm khoảng 30% tổng DNN&V).
1.1.5 Hội nhập kinh tế quốc tế: cơ hội và thách thức đối với việc phát triển
DNN&V:
1.1.5.1 Hội nhập kinh tế quốc tế:
Nền kinh tế nước ta đang chuyển mình theo hướng hội nhập và mở cửa, hội
nhập kinh tế là quá trình tất yếu khách quan mà bất kỳ một doanh nghiệp nào dù là các
doanh nghiệp lớn hay các DNN&V đều phải tham gia. Hội nhập kinh tế quốc tế trở
thành xu hướng vận động khách quan của thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là xoá bỏ
từng bước và từng phần các rào cản về thương mại cũng như về đầu tư giữa các quốc
gia theo hướng tự do hoá kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thuận lợi và
đòi hỏi sự cải cách nhất định về thể chế kinh tế và hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường. Vấn đề trực tiếp nhất hiện nay là lực lượng sản xuất của thế giới đã có bước
phát triển vượt bậc. Tính chất và trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất ngày càng
cao đã và đang tiếp tục phá vỡ rào cản giữa các quốc gia, giao lưu kinh tế đang mở
rộng trên quy mô toàn cầu. Sự thành công của quá trình hội nhập này tuỳ thuộc vào
sức cạnh tranh, tính năng động sáng tạo của các doanh nghiệp. Do vậy các doanh
nghiệp phải tham gia thực sự vào quá trình hội nhập với sự sống còn của mình đương
đầu với những thử thách mà quá trình hội nhập quốc tế mang lại như Đại hội IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Đối với Việt Nam, quá trình hội nhập kinh tế
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
16
Chuyên đề tốt nghiệp
quốc tế trong thời gian tới được nâng lên một bước mới, gắn với thực hiện các cam kết
quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng
độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế”.
Xuất phát từ điều kiện thực tế: các DNN&V Việt Nam với quy mô nhỏ, vốn và
trình độ khoa học công nghệ thấp, non kém trong kinh nghiệm thương trường, thiếu
kinh nghiệm quản lý, khả năng marketing và tiếp cận thị trường còn nhiều hạn chế, đội
ngũ cán bộ nhân viên không được đào tạo một cách chuyên nghiệp, bài bản các
DNN&V khó có thể đứng vững và chiến thắng trước những thách thức của quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó việc nhận thức đầy đủ và sâu sắc cơ hội và thách thức
trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới giúp cho DNNVV thích ứng với điều kiện
kinh doanh mới.
1.1.5.2 Những cơ hội:
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các tổ
chức hợp tác kinh tế khu vực toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên
có sự ràng buộc theo những quy định chung của khối. Tham gia vào quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế nền kinh tế Việt Nam sẽ trở thành một bộ phận của nền kinh tế
thế giới. Do đó, môi trường thể chế của Việt Nam như hệ thống luật pháp kinh doanh,
hệ thống thuế, các tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, tiêu chuẩn về môi trường, an toàn
lao động phải phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại những cơ hội cho các DNN&V:
- Giúp DNN&V tiếp cận với các nguồn vốn quốc tế:
Vốn luôn là vấn đề đặt ra trong quá trình hoạt động của các DNN&V. ngoài
nguồn vốn huy động được từ các nguồn trong nước, hội nhập kinh tế quốc tế giúp các
DNN&V tận dụng được các nguồn vốn vay ưu đãi chính thức, vay thương mại, các
nguồn viện trợ của nước ngoài hoặc qua con đường hợp tác liên doanh, liên kết, đầu tư
trực tiếp của nước ngoài, các chương trình dự án hỗ trợ phát triển là con đường lựa
chọn thích hợp nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, tăng cường năng lực sản
xuất hàng hoá và tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế một cách thuận lợi
hơn. Để có thể khai thác được lợi thế từ nguồn vốn nước ngoài, thì ngoài sự cố gắng
của bản thân doanh nghiệp Chính phủ cần hỗ trợ tích cực trong việc cải cách thủ tục
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
17
Chuyên đề tốt nghiệp
hành chính, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho đầu tư nước ngoài và tạo sự bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế.
- Mở rộng thị trường cho các DNN&V:
“Hội nhập kinh tế quốc tế” cơ hội lớn cho các DNN&V tiếp cận với một thị
trường toàn cầu với hơn 6 tỷ dân thay vì một thị trường 80 triệu dân. Tại đây các

DNN&V có khả năng thâm nhập nhanh hơn vào thị trường đầy cơ hội và thách thức -
thị trường thế giới, tạo môi trường rộng lớn cho các DNN&V phát triển. Không chỉ
mở rộng về mặt quy mô thị trường, hội nhập còn làm tăng tính đa dạng hoá cơ cấu thị
trường. Điều đó xuất phát từ trình độ phát triển khác nhau của các nền kinh tế, sự đa
dạng về bản sắc văn hoá, chính trị, tôn giáo của mỗi nước, tạo nhiều cơ hội cho các
DNN&V trong việc lựa chọn đoạn thị trường phù hợp nhất.
- Giúp DNN&V tiếp cận nhanh chóng công nghệ hiện đại:
Nhờ con đường chuyển giao công nghệ, các doanh nghiệp có thể rút ngắn
những bước đi do dẫm, giảm được chi phí nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.
Con đường này giúp cho DNN&V có thể tận dụng thế mạnh của doanh nghiệp lớn –
các doanh nghiệp phát triển mạnh về khoa học, công nghệ. Hội nhập kinh tế quốc tế
cho phép các DNN&V cơ hội liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài để
tiếp cận và tận dụng thế mạnh về khoa học công nghệ tiên tiến, trình độ quản lý, khả
năng sử dụng các dây chuyền công nghệ hiện đại. Do hạn chế về khả năng tài chính,
các DNN&V có thể gặp phải nhiều khó khăn trong việc tự mình đầu tư công nghệ
mới. Tuy nhiên, hội nhập tạo điều kiện cho các DNN&V tiếp cận với nguồn tín dụng
nước ngoài giúp các DNN&V có nhiều cơ hội tiếp cận nhanh chóng với khoa học
công nghệ tiên tiến từ đó nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm.
- Tạo cơ hội cho các DNN&V tham gia sâu vào quá trình phân công lao
động quốc tế:
Đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, do năng lực và
hiệu quả sản xuất còn thấp, hệ thống cơ sở hạ tầng còn non yếu, công nghệ sản xuất
còn lạc hậu, họ thường hướng vào khai thác nguồn lực sẵn có như nguồn tài nguyên
thiên nhiên phong phú và nguồn lao động rẻ. Bằng cách sử dụng luân chuyển số lượng
lao động lớn, kỹ năng lao động giản đơn, các nước nghèo cũng phần nào giải quyết
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
18
Chuyên đề tốt nghiệp
gánh nặng kinh tế xã hội. Hội nhập sẽ tạo cơ hội cho các nước nghèo, các DNN&V
Việt Nam có cơ hội thực hiện quá trình phân công lao động quốc tế hiệu quả hơn.

1.1.5.3 Những thách thức:
Trình độ công nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh còn quá thấp dẫn đến năng suất lao
động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao. Nguồn nhân lực dồi dào nhưng trình độ còn
hạn chế gây khó khăn cho quá trình tiếp thu và chuyển giao công nghệ.
Cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập, chi phí đầu vào cao do phải sử dụng nhiều
nguyên phụ liệu đầu vào nhập khẩu làm cho nguồn cung ứng bị phụ thuộc vào thị
trường thế giới, chi phí trung gian như cước vận chuyển, phí hải quan… làm tăng đáng
kể chi phí đầu vào cho DNN&V.
Kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường của các DNN&V Việt Nam
còn hạn chế mặc dù nền kinh tế đã mở cửa hơn 20 năm, nhưng do thực hiện chính
sách độc quyền ngoại thương, các doanh nhân Việt Nam gặp nhiều bỡ ngỡ khi thiết
lập quan hệ kinh doanh với đối tác nước ngoài, hơn nữa là do phong tục tập quán, thói
quen và văn hoá kinh doanh. Một phần là do một thời gian dài vị trí và vai trò của các
DNN&V bị xem nhẹ, mối liên hệ giữa các DNN&V và các doanh nghiệp lớn chưa
hiệu quả khiến cho các DNN&V gặp nhiều khó khăn khi phải tự mình cạnh tranh với
các doanh nghiệp nước ngoài.
1.2 TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DNN&V:
1.2.1 Khái niệm tín dụng Ngân hàng:
 Tín dụng là gì?
Khó có thể đưa ra một định nghĩa về tín dụng. Vì vậy ta có thể xác định nội
dung của thuật ngữ tuỳ theo từng góc độ mà ta nghiên cứu.
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). trong
thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau; ngay cả
trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội
dung riêng. Trong quan hệ tài chính, có thể hiểu tín dụng theo nhiều nghĩa như sau:
- Trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang
chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ
người cho vay sang người đi vay.
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
19

Chuyên đề tốt nghiệp
- Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
- Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính
cung cấp cho khách hàng.
- Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng
được hiểu như sau: tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên
cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh
nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay
sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn
trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
 Tín dụng Ngân hàng: là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân
hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất đinh vơi một khoản chi phí nhất định.
Cũng như quan hệ tín dụng khác, tín dụng ngân hàng chứa đựng ba nội dung:
- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho
người sử dụng.
- Sự chuyển nhượng này mang tính tạm thời hay có thời hạn.
- Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
1.2.2 Phân loại tín dụng:
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các Ngân hàng nói chung và các
trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại
nhiều lợi nhuận nhất trong hoạt động của Ngân hàng đồng thời cũng mang lại rủi ro
cao nhất. Việc phân loại tín dụng có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình
tín dụng thích hợp, nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro cũng như đảm bảo an toàn hoạt
động của toàn ngân hàng đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Ngân hàng phân loại tín
dụng dựa vào các tiêu chí sau:
1.2.2.1 Phân loại tín dụng theo thời hạn:
Phân chia tín dụng theo theo thời hạn có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng
vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng ngân hàng.
Theo thời hạn ngân hàng chia tín dụng thành 2 loại:

 Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm. Loại tín dụng
này được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
20
Chuyên đề tốt nghiệp
nhu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Xuất phát từ đặc trưng của hoạt động kinh doanh
ngân hàng là kinh doanh tiền gửi, trong đó chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn nên các khoản
tín dụng ngân hàng thường tài trợ ngắn hạn để đảm bảo khả năng thanh toán.
 Tín dụng trung và dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên một năm trong đó
các khoản tín dụng từ trên 1 đến 5 năm được coi là tín dụng trung hạn, tín dụng trên 5
năm được coi là tín dụng dài hạn.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, ngoài các khoản chi tiêu ngắn hạn để mở
rộng quy mô, đầu tư trang thiết bị, khoa học công nghệ… nhằm tăng cường sức sản
xuất và khả năng cạnh tranh trên thị trường các doanh nghiệp còn cần một nguồn vốn
lớn. Để đáp ứng nhu cầu này các doanh nghiệp thường tìm đến ngân hàng để tìm kiếm
nguồn tài trợ thông qua tín dụng trung và dài hạn. Cùng với sự phát triển của nền kinh
tế, nhu cầu về vốn trung và dài hạn ngày càng tăng, nên hình thức tín dụng này được
các doanh nghiệp ưa dùng. Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, tín dụng trung còn là
nguồn hình thành vón lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những
doanh nghiệp mới thành lập.
Tín dụng trung và dài hạn tạo ra một năng lực sản xuất mới hoặc nâng cao năng
lực hiện tại của doanh nghiệp. Đối tượng chủ yếu của nó là vốn cố định của doanh
nghiệp, các chi phí hình thành cơ sở vật chất, kỹ thuật của doanh nghiệp nên giá trị
khoản tín dụng thường lớn, thời gian hoàn vốn chậm, mức độ rủi ro cao. Các ngân
hàng thường tài trợ cho doanh nghiệp thông qua các dự án, do đó ngân hàng phải phân
tích và xem xét dự án kỹ lưỡng trước khi quyết định có tài trợ hay không.
1.2.2.2 Phân loại theo hình thức cấp tín dụng:
Theo tiêu thức này, tín dụng được phân thành các loại sau:
 Chiết khấu giấy nợ:


Giấy nợ là các chứng từ dùng để xác nhận cho người thụ hưởng một trái quyền
về tiền đối với người phải trả. Giấy nợ là công cụ tài chính phổ biến, mang tính thống
nhất trên thị trường tài chính.
Chiết khấu giấy nợ là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng
chuyển nhượng quyền sở hữu giấy nợ chưa đáo hạn cho ngân hàng để đổi một số tiền
bằng giá trị của giấy nợ trừ chi phí chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có).
 Cho vay:

SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
21
Chuyên đề tốt nghiệp
Là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao tiền cho khách hàng với
cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu của tổ chức tín dụng, chiếm phần lớn
tổng tài sản và nguồn thu của ngân hàng, đồng thời những rủi ro trong hoạt động ngân
hàng chủ yếu tập trung vào danh mục các khoản vay. Nghiệp vụ cho vay cũng bao
gồm nhiều loại khác nhau trong đó có:
• Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được
cho trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và
trong khoảng thời gian xác định, giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Các khoản chi
quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và
quy mô. Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình
thanh toán: chủ động, nhanh chóng, kịp thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là
không có đảm bảo. Nhìn chung hình thức này chỉ sử dụng đối với các khách hàng có
độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
• Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân
hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện
để được cấp hạn mức thấu chi hay khi khách hàng có nhu cầu sử dụng vốn theo thời

vụ như mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay vốn ngân hàng.
Khách hàng khi có nhu cầu vay vốn phải làm thủ tục vay vốn cần thiết, ngân hàng
xem xét, phân tích khách hàng để xác định quy mô cho vay, thời hạn trả nợ, thời hạn
giải ngân, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Các món vay được tách biệt thành các
hồ sơ khác nhau và ngân hàng kiểm soát tách biệt từng hồ sơ đó.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình
khách hàng sử dụng khoản vay, ngân hàng sẽ kiểm soát nếu thấy có dấu hiệu vi phạm
hợp đồng, ngân hàng có thể thu nợ trước hạn hoặc chuyển thành nợ quá hạn.
• Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp
cho khách hàng hạn mức tín dụng và duy trì hạn mức này trong một thời gian nhất
định. Hạn mức tín dụg có thể tính cho cả đầu kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
22
Chuyên đề tốt nghiệp
thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh,
nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Trong kỳ, khách hàng có thể thực hiện vay - trả nhiều lần, song dư nợ không được
vươt quá hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử
dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu
vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ ngân hàng sẽ phát tiền
cho khách hàng. Hình thức này thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường
xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp
vụ này, ngân hàng không xác định trước kỳ hạn trả nợ và thời hạn tín dụng. Khi khách
hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo sự chủ động quản lý ngân quỹ cho
khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên
ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng của từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát
hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
• Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá.
Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng
và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý doanh nghiệp làm

đơn xin vay luân chuyển và thoả thuận với ngân hàng về phương thức vay, hạn mức
tín dụng các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ.
• Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng
trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường
được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc
hàng lâu bền. Số tiền mỗi lần trả được tính toán phù hợp với khả năng trả nợ.
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức
nhất định. Ngân hàng thanh toán cho người bán lẻ số hàng hóa mà khách hàng đã mua
trả góp. Hình thức này là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua nhằm khuyến khích
tiêu thụ hàng hoá.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả
góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Do rủi ro cao nên
lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
• Cho vay gián tiếp: phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp bên
cạnh đó các ngân hàng còn phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Cho vay gián
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
23
Chuyên đề tốt nghiệp
tiếp là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng có thể chuyển
một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền
vay… Hình thức này áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân
tán cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết
kiệm chi phí cho vay.
Cho vay qua trung gian nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng. Tuy nhiên nó
cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết, nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình và nếu
ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của
các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém
chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
 Cho thuê tài sản (thuê – mua):


Cho thuê của ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân hàng
mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho khách hàng phải thu gần hoặc đủ
giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi. Hết thời hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản
đó. Cho thuê (thuê – mua) giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ ngân hàng phải
xuất tiền với kỳ vọng thu về cả gốc lẫn lãi sau thời hạn nhất định; khách hàng phải có
trách nhiệm trả gốc và lãi hàng kỳ. Ngân hàng phải đảm bảo cung cấp đúng loại tài sản
khách hàng yêu cầu và phải đảm bảo chất lượng của tài sản đó. Ngân hàng cũng phải
đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không có hiệu quả nên không trả tiền đúng
hạn cho ngân hàng. Ngân hàng có quyền thu hồi nếu thấy người thuê không thực hiện
đúng hợp đồng. Cho thuê mang lại rủi ro rất cao đối với ngân hàng.
 Bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh:

Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện
đúng nghĩa vụ như đã cam kết.
Bảo lãnh thường có 3 bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo
lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa là ngân hàng là bên bảo lãnh, khách hàng của
ngân hàng là người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba. Bảo lãnh là
hình thức tài trợ thông qua uy tín, ngân hàng không xuất tiền ngay khi bảo lãnh mà chỉ
khi khách hàng không thực hiện cam kết thì ngân hàng có trách nhiệm chi trả cho bên
thứ ba. Hình thức này tạo mối lliêm kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro cho các
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
24
Chuyên đề tốt nghiệp
bên liên quan trong đó dối tượng được bảo lãnh thì có thể tìm kiếm được nguồn tài trợ
mới, thực hiện được hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi; ngân hàng có thể
tăng thu nhập thông qua việc thu phí bảo lãnh, mở rộng dịch vụ khác của ngân hàng;
bảo lãnh làm giảm bớt thiệt hại cho bên thứ ba khi có tổn thất xảy ra.
Ngân hàng cố gắng tìm kiếm các khoản thu từ bảo lãnh nhằm bù đắp chi phí.
Ngoài phí, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng phải ký quỹ, tạo nguồn tiền thanh

toán cho ngân hàng với mức lãi suất thấp.
Hình thức bảo lãnh rất đa dạng, phân theo mục tiêu bảo lãnh bao gồm:
• Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu: là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư
(hay chủ thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu vi phạm các quy định trong
hợp đồng dự thầu.
• Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất
hộ khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây tổn
thất cho bên thứ ba.
• Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước: là cam kết của ngân hàng về việc sẽ
hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua nếu bên cung cấp không trả.
1.2.2.3 Phân loại theo mục đích đảm bảo:
Theo tiêu thức này, tín dụng được phân thành các loại sau:
 Tín dụng có đảm bảo: thông thường các khoản tín dụng của ngân hàng
đều có tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo có thể là tài sản của người nhận tín dụng hay
tài sản, uy tín của người thứ ba. Tài sản đảm bảo cho phép ngân hàng có được nguồn
thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó hoặc thông qua khả năng trả nợ của người
thứ ba khi nguồn thu nợ thứ nhất không có hoặc không đủ.
 Tín dụng không có đảm bảo: là hình thức tín dụng không có tài sản đảm
bảo hoặc không có bảo lãnh của bên thứ ba. Tín dụng không có đảm bảo có thể được
cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi,
tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay
tương đối nhỏ so với vốn của người vay, khách hàng thực hiện các dự án đầu tư thuộc
chương trình kinh tế dặc biệt, chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà Nước, chương
trình kinh tế xã hội. Những khoản vay của các công ty lớn trong thời gian ngắn mà
ngân hàng có khả năng kiển soát việc bán hàng cũng có thể không cần sử dụng tài sản
SV: Trần Thị Hương Sen Lớp Tài chính doanh nghiệp 46Q
25

×