I. Tóm tắt luận án về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm của tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Trong chương II của Luận văn thạc sĩ Luật học “Đấu tranh phòng chống tội
cướp tài sản trên địa bàn tỉnh quảng Ngãi”, tác giả Vũ Minh Tiến đã nêu ra một số
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm của tội cướp tài sản trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi.
1. Nguyên nhân và điều kiện có liên quan đến kinh tế - xã hội:
a. Về lĩnh vực kinh tế
Trong nhiều năm qua, Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những
chính sách kinh tế mang tính mở cửa và hội nhập ấy đang tạo ra một sức mạnh
phát triển mới không chỉ cho lĩnh vực kinh tế mà cả trong vấn đề an ninh xã hội.
Tuy nhiên tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đối với các tỉnh thành phố,
trong cả nước nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng cũng thực sự đáng lo ngại
như: thất nghiệp, tệ nạn xã hội, phân hóa giàu nghèo… Đây là nguyên nhân, điều
kiện làm phát sinh, là miền đất “dung dưỡng” cho nhiều loại tội phạm trong đó có
tội cướp tài sản.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, trên địa bàn tỉnh quảng Ngãi, những
người lao động không đáp ứng được các tiêu chuẩn về trình độ kĩ thuật, tay nghề
hoặc doanh nghiệp làm ăn thua lỗ dẫn tới phá sản, giải thế… Dẫn đến một bộ
phận dân cư mất phương hướng, sinh ra tư tưởng tiêu cực… dẫn tới hành vi phạm
tội. Thống kê cho thấy có tới 46, 75% người phạm tội bị đưa ra xét xử về tội cướp
tài sản là thất nghiệp.
Bên cạnh đó, sự dôi dư lao động đáng kể do diện tích đất canh tác trên đầu
người ngày càng bị thu hẹp (khoảng 500m
2
/người) để xây dựng các khu công
nghiệp và nhà ở cũng là nguyên nhân và điều kiện đáng lưu ý của tình hình tội
phạm cướp tài sản.
Hơn nữa, việc Quảng Ngãi và các vùng lân cận đang hình thành những khu
công nghiệp lớn và các khu kinh tế mở cũng tạo ra sức ép đáng kể đến việc hạn
1
chế tình hình tội phạm cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Vấn đề này đã
gây khó khăn cho các công tác quản lý xã hội của địa phương trong đó có công
tác quản lý hành chính, nhân khẩu của công an địa phương vì không phải đối
tượng nào cũng chấp hành việc đăng ký tạm trú tạm vắng. Đặc biệt là việc quản
lý những đối tượng có tiền án tiền sự là vô cùng khó khăn.
Để phục vụ các đối tượng lao động cư trú ngắn hạn, ngoài các dịch vụ nhà
hàng, khách sạn, nhà nghỉ còn có hàng trăm nhà lưu trú bình dân tự phát cho các
thành phần như học sinh, sinh viên, người lao động, các đối tượng phạm pháp
hình sự và các tiếp viên nước giải khát, bia ôm…Nguyên nhân này làm cho loại
tội phạm cướp tài sản trên địa bàn tỉnh càng phức tạp và khó kiểm soát hơn.
Với nhiều danh lam thắng cảnh, tỉnh Quảng Ngãi có điều kiệm phát triển
du lịch nhưng công tác quản lý những dịch vụ liên quan đến ngành du lịch như
nhà trọ, cho thuê ôtô xe máy lại chưa được quan tâm đúng mức tạo điều kiện cho
các đối tượng xấu trực tiếp thực hiện việc cướp tài sản.
Mặt khác, kinh tế chậm phát triển kéo theo việc quản lý và thực hiện các
chế độ, chính sách đối với các đối tượng đặc biệt chưa thực sự đúng mức gây mất
lòng tin trong quần chúng nhân dân gây khó khăn cho công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm.
b. Về lĩnh vực văn hóa, giáo dục
Các hoạt động dịch vụ “ăn theo” song hành cùng sự tăng trưởng của nền
kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là các sản phẩm văn hóa có nội
dung xấu có tính kích động, bạo lực làm tha hóa một bộ phận nhân dân, nhất là
thanh thiếu niên. Mặt khác, cũng phải thừa nhận rằng sự định hướng về văn hóa
của chúng ta vẫn còn bất cập, khiếm khuyết và tồn tại; vẫn còn những tác phẩm
văn hóa nghệ thuật đề cao sự giàu sang, lối sống thực dụng, hưởng thụ kiểu con
nhà giàu. Trong khi đó gương người tốt việc tốt ít được đề cập làm giảm đi ý
nghĩa giáo dục.
2
Những khó khăn về kinh tế tác động trực tiếp vào đời sống mỗi cá nhân,
con người sống trong hoàn cảnh kinh tế eo hẹp, khó khăn dễ phát sinh tâm lý tiêu
cực, vị kỷ, tha hóa… như ông cha ta đã thường nói “Bần cùng sinh đạo tặc”.
Ngoài ra, còn tồn tại một bộ phận thanh thiếu niên vì hoàn cảnh khó khăn
về kinh tế, không có điều kiện học hành, không có tay nghề, thu nhập thấp, không
thỏa mãn các nhu cầu về ăn mặc, vui chơi, đã bị tha hóa, mất định hướng, dễ
dàng bị lôi kéo, xúi giục tham gia vào các hành vi trộm, cướp, lừa đảo.
2. Nguyên nhân và điều kiện liên quan đến giáo dục và tuyên truyền
pháp luật.
- Về thực trạng giáo dục trong gia đình: Do quá tập trung phát triển kinh tế
mà các bậc phụ huynh ít có thời gian chăm sóc con cái, chức năng gia đình bị xáo
trộn, thay vì gia đình tồn tại với vai trò giáo dục thì nó đã dần mang chức năng
kinh tế. Do đó con cái của nhiều gia đình đã tìm đến sự chia sẻ của bạn bè hay
chạy theo sự cám dỗ của môi trường xã hội. Điều này là nguyên nhân và điều
kiện dẫn tới sự hình thành tư tưởng tự do, coi thường người khác từ đó dẫn tới
hành vi sai phạm.
Bên cạnh đó, chính các tấm gương xấu của bố mẹ cũng là nguyên nhân tác
động trực tiếp nhất tới sự hình thành thế giới quan lệch lạc của trẻ em vì không
đâu khác mà chính gia đình, chính bố mẹ mới là tấm gương gần gũi nhất, là bài
học thực tế nhất cho con cái. Trong một gia đình mà bố mẹ sống không gương
mẫu, vi phạm các quy tắc của cuộc sống, của gia đình… thì sớm hay muộn những
đứa con của họ cũng sẽ đi vào con đường hư hỏng, phạm pháp như bố mẹ chúng.
Hơn nữa, những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, lối sống ích
kỷ cá nhân, nặng về hưởng thụ, sống gấp của một số cá nhân ảnh hưởng rất lớn
đến quá trình hình thành nhân cách của trẻ em, tạo ra sự lệch lạc về nhận thức
những chuẩn mực xã hội và dẫn đến tình trạng cướp tài sản.
Ngoài ra, còn phải kể đến phương pháp giáo dục không đúng cách như:
hành hạ, đánh đập con cái làm cho đứa trẻ hình thành tính cách sợ sệt, rụt rè,
chiều chuộng quá mức làm cho trẻ có thái độ ích kỷ, coi thường người khác.
3
- Về công tác giáo dục tại nhà trường: việc giáo dục trong nhà trường hiện
nay ở Quảng Ngãi còn nhiều hạn chế. Có lúc, có nơi nhà trường chỉ thiên về giáo
dục kiến thức mà xem nhẹ giáo dục đạo đức, pháp luật cho học sinh. Đội ngũ
giáo viên còn chưa thực sự nêu gương. Sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường
trong việc quản lý, giáo dục học sinh còn hạn chế. Những hạn chế này đã ảnh
hưởng đến tình hình tội phạm nói chung và tội cướp tài sản trên địa bàn tình nói
riêng.
- Công tác giáo dục ngoài xã hội: Quảng Ngãi không có các trung tâm vui
chơi giải trí cho thanh thiếu niên. Các sân chơi thể thao đều bị thu hẹp để xây
dựng khu dân cư, từ đó dẫn đến tình trạng thanh thiếu niên tụ tập tại các điểm
chơi game, tụ tập ăn nhậu, hút hít. Đây là địa điểm bàn bạc để thực hiện các hành
vi phạm tội, trong đó có tội cướp tài sản.
- Về tuyên truyền phổ biến pháp luật: công tác tuyên truyền pháp luật tuy
đã có những động thái tích cực nhưng vẫn chưa có chiều sâu. Công tác tuyên
truyền đấu tranh, phòng chống 1 số tội phạm nguy hiểm, trong đó có tội trộm
cướp tài sản chưa được quan tâm đúng mức. Hình thức tuyên truyền thiếu đa
dạng, phong phú, chưa chú trọng đến các địa bàn trọng điểm như: khu công
nghiệp, trường học, thị trấn… chưa triển khai các biện pháp cần thiết trong việc
đấu tranh, ngăn chặn làm giảm tình trạng phạm tội, dẫn đến thực tế là khi nhen
nhóm hình thành các băng, nhóm thì ko được ngăn chặn kịp thời và người dân thì
tiếp tục là nạn nhân của loại tội phạm này.
3. Nguyên nhân và điều kiện liên quan đến công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm
Trong những năm qua, công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội
cướp tài sản nói riêng đã được các cấp, các ngành quan tâm, song vẫn còn nhiều
tồn tại: Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nhân dân về phòng chống
tội phạm đôi khi mang tính hình thức, thiếu thường xuyên, do đó ý thức cảnh
giác, tự phòng ngừa của người dân còn hạn chế. Việc quản lý các đối tượng hình
sự theo yêu cầu của công tác phòng ngừa tội phạm ở nhiều nơi, nhiều lúc chưa
4
được tổ chức tốt; công tác điều tra, xét xử, quản lý và cải tạo các đối tượng phạm
tội chưa phát huy hết tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Những khiếm khuyết trong công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực an
ninh trật tự của tỉnh Quảng Ngãi hiện nay đã tác động không nhỏ đến quá trình
phát sinh tội phạm nói chung và tội cướp tài sản nói riêng. Trong quản lý xã hội,
một số cơ quan chức năng chưa nắm bắt được tình hình diễn biến của tội phạm
một cách kịp thời, chưa kịp thời phát hiện ngăn chặn những mầm mống của tội
phạm nên đã làm hạn chế rất nhiều trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội
phạm. Hiệu lực lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở không cao, chưa
làm tốt công tác tuyên truyền như vận động nhân dân, tổ chức đoàn thể xã hội
phát hiện và tố giác tội phạm, đưa những đối tượng có hành vi vi phạm nhưng
chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự ra kiểm điểm trước dân, phục vụ
cho công tác phòng ngừa tội phạm.
Đối với lực lượng Công an: Trong những năm qua lực lượng Công an vẫn
còn tồn tại một số hạn chế như:
- Công tác nắm tình hình diễn biến tội phạm, tình hình địa bàn chưa sâu
nên còn nhiều hạn chế trong việc phát hiện những biểu hiện nhen nhóm, manh
nha ổ, nhóm có khả năng liên quan dễ dẫn đến tội phạm.
- Công tác quản lý đối tượng có tiền án, tiền sự, đối tượng tệ nạn nghiện
hút, cờ bạc, lưu manh côn đồ theo địa bàn…
- Công tác thu thập tin tức qua mạng lưới bí mật còn nghèo nàn, chưa có
tác dụng lớn phục vụ cho công tác xác lập và khám phá chuyên án.
Đối với cơ quan truy tố, xét xử:
- Chưa chú trọng tới việc xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội phạm và nhân thân người phạm tội cướp tài sản để kịp thời kiến nghị, khắc
phục và phòng ngừa. Đây là một điểm hết sức hạn chế của cơ quan truy tố, xét
xử. Các cơ quan này chỉ nặng quan tâm nhân thân người phạm tội dưới góc độ
như: tiền án, tiền sự mà không quan tâm đến các yếu tố khác, đồng thời cho rằng
những đặc điểm khác về nhân thân chỉ là tình tiết phụ như: hoàn cảnh gia đình,
5
nghề nghiệp, văn hóa… Trong khi đó, có nhiều vụ án thì những tình tiết yếu tố
nhân thân này lại là nguyên nhân dẫn đến tội phạm.
- Trong giai đoạn xét xử, do chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cướp tài sản nên còn hiện tượng xử phạt
nhẹ dưới khung hình phạt, làm hạn chế hiệu quả của việc xét xử nói riêng cũng
như việc đấu tranh phòng chống tội phạm cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi nói chung.
- Tội phạm cướp tài sản là tội được xếp vào nhóm có hành vi hết sức nguy
hiểm đối với xã hội, nên phải chú trọng việc xét xử lưu động loại vụ án này. Tuy
nhiên cơ quan xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cũng chưa giành cho sự chú
trọng đúng mức.
II. Nhận xét của nhóm
1. Nhận xét đối với phần trình bày của tác giả về nguyên nhân và điều
kiện của tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
a. Nhận xét chung:
Nhóm chúng em đưa ra nhận xét tổng quan đầu tiên là: trong luận án, tác
giả đề cập đến thuật ngữ “ nguyên nhân và điều kiện”. Đây là thuật ngữ theo quan
điểm của giáo trình Liên Xô cũ và tại thời điểm tác giả làm luận án quan điểm ấy
vẫn được sử dụng nên tác giả dùng thuật ngữ “nguyên nhân và điều kiện”. Nhưng
theo quan điểm hiện nay thì không dùng thuật ngữ này nữa mà thay vào đó là
thuật ngữ: “Nguyên nhân”. Và vì thế, trong phần nhận xét này, nhóm chúng em
kiến nghị nên dùng thuật ngữ “Nguyên nhân” thay cho thuật ngữ “Nguyên nhân
và điều kiện”.
* Ưu điểm
- Khi nêu ra các nguyên nhân của tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi, tác giả đã có sự kết nối với tình hình tội phạm tội cướp tài sản.
- Tác giả có đưa ra một số vụ việc cụ thể để dẫn chứng.
6
- Trong luận án, các số liệu thống kê được tác giả nêu ra được lấy từ các
thống kê của Công an tỉnh Quảng Ngãi và của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
nên rất minh bạch và thực tế.
* Nhược điểm:
- Tác giả đã trình bày phần nguyên nhân theo 3 nhóm nguyên nhân: nguyên
nhân liên quan đến kinh tế - xã hội; nguyên nhân liên quan đến giáo dục và tuyên
truyền pháp luật; nguyên nhân liên quan đến công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm. Tuy nhiên, tất cả những nguyên nhân trên đều là những nguyên nhân xuất
phát từ môi trường sống, từ khách quan. Tức là tác giả mới chỉ trình bày được
nguyên nhân bắt nguồn từ xã hội mà không đề cập, không trình bày nguyên nhân
xuất phát từ cá nhân người phạm tội. Các nguyên nhân xuất phát từ cá nhân
người phạm tội có thể gồm:
+ Nhóm dấu hiệu sinh học của người phạm tội (như: độ tuổi, giới tính ).
+ Nhóm đặc điểm tâm lí của người phạm tội có thể ảnh hưởng, tác động
nhất định đến việc phạm tội như: tính tích kỉ; tính hám lợi; tình ham chơi; lười
lao động và học tập; tính hận thù; có sở thích không lành mạnh.
+ Nhóm các đặc điểm về văn hóa- xã hội, nghề nghiệp có thể ảnh hưởng
đến việc phạm tội.
Trong các vụ án, tùy trường hợp phạm tội mà nguyên nhân bắt nguồn từ xã
hội hay nguyên nhân xuất phát từ cá nhân giữ vai trò quyết định. Và nghiên cứu
về nguyên nhân xuất phát từ cá nhân cũng nhằm giúp các cơ quan đưa ra được
các biện pháp phòng ngừa phù hợp, thích hợp làm giảm tội cướp tài sản.
- Tác giả đã đưa ra các nguyên nhân nhưng chưa đưa ra hết số liệu cụ thể
để chứng minh cho tất cả những nguyên nhân. Điều này làm cho các nguyên nhân
mà tác giả chưa đưa ra số liệu cụ thể để chứng minh không có tính thuyết phục và
độ tin cậy cao.
- Tác giả đưa ra ba nhóm nguyên nhân, nhưng nguyên nhân ở từng nhóm
có sự không thống nhất tiêu chí. Ví như: khi đang nói đến nguyên nhân liên quan
đến kinh tế - xã hội tác giả lại nêu cả vấn đề: lĩnh vực văn hóa, giáo dục có ý
7
nghĩa quan trọng đến hình thành nhân cách con người( phần này nên chuyển sang
phần nguyên nhân liên quan đến giáo dục); hay là phần nguyên nhân liên quan
đến giáo dục và tuyên truyền pháp luật thì nên đưa phần nguyên nhân liên quan
đến tuyên truyền pháp luật xuống nguyên nhân liên quan đến công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm thì sẽ hợp lý hơn.
- Các nguyên nhân tác giả đưa ra chưa thực sự sát với nguyên nhân của tội
cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi: các nguyên nhân mà tác giả đưa ra gần
như là các nguyên nhân của tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi,
chưa cụ thể làm rõ được nguyên nhân của tội cướp tài sản.
Trên đây là những nhận xét một cách tổng quan về những nguyên nhân của
tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi mà tác giả đã đưa ra.
b. Nhận xét về cụ thể về phần trình bày từng nhóm nguyên nhân của
tình hình tội cướp tài sản trong luận án
Nguyên nhân liên quan đến kinh tế- xã hội
Trong phần này, khi mà đưa ra các nguyên nhân về kinh tế - xã hội nói
chung của cả đất nước tác giả đã đặt vào điều kiện cụ thể của tỉnh Quảng Ngãi và
đã giải thích rõ ràng nguyên tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi( Quảng
Ngãi có nhiều danh lam thắng cảnh, có điều kiện phát triển du lịch; hay là các
khu công nghiệp được hình thành ở tỉnh Quảng Ngãi và các tỉnh lân cận ) Chẳng
hạn: tác giả đã nêu ảnh hưởng mặt trái kinh tế thị trường trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi như: “kinh tế tuy tăng trưởng với nhịp độ khá cao, nhưng chất lượng chưa
cao, thiếu bền vững; giá trị kinh tế chuyển dịch còn chậm; nhiều nguồn lực và
tiềm năng trong tỉnh chưa được khơi dậy và phát huy đúng mức ”
Đề cập đến tình trạng thất nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi là nguyên
nhân của cướp tài sản tác giả đã đưa ra được số liệu thống kê người phạm tội đưa
ra xét xử về tội cướp tài sản là thất nghiệp.
Ở phần này, tác giả có đưa ra các yếu tố xuất phát từ bản thân người phạm
tội như: “có những người chỉ muốn có tiền nhưng lười biếng, không chịu lao
động, đồng thời lại có tư tưởng thích ăn chơi đua đòi trong khi khả năng lại
8
không thể đáp ứng được dẫn đến nảy sinh hành vi cướp tài sản”. Tuy nhiên, các
yếu tố này tác giả nên đưa ra một phần riêng đó là Nguyên nhân xuất phát từ phía
người phạm tội để làm rõ.
Phần “lĩnh vực văn hóa, giáo dục có ý nghĩa quan trọng đến hình thành
nhân cách con người ” trong luận án nên chuyển sang phần nguyên nhân liên
quan đến giáo dục sẽ hợp lý hơn.
Nguyên nhân liên quan đến giáo dục và tuyên truyền pháp luật
- Phần Thực trạng giáo dục trong gia đình:
Tác giả đã khẳng định được tình môi trường gia đình có ảnh hưởng lớn đến
nhân cách con người.
Trong phần này, tác giả cũng đã nêu ra được các nguyên nhân của tội cướp
tài sản xuất phát từ phía gia đình ở tỉnh Quảng Ngãi, đã đưa ra được ví dụ và cả
số liệu thống kê cụ thể để minh chứng.
- Phần Về công tác giáo dục tại nhà trường:
Đề mục này nếu được đổi thành “Môi trường nhà trường” thì sẽ có sự bao
quát hơn. Bởi ngoài các nguyên nhân tác giả đã nêu, thì trên thực tế còn có
trường hợp: kết bạn, giao du với bạn bè xấu( những đối tượng lười, ham ăn chơi,
đua đòi, hay bỏ học, hỗn láo với thầy cô ). Đây cũng là những nguyên nhân xuất
phát từ môi trường nhà trường.
Nếu tác giả có thể đưa ra được số liệu cụ thể hoặc ví dụ minh chứng cụ thể
thì nó sẽ xác thực hơn.
- Phần công tác giáo dục ngoài xã hội : nguyên nhân tác giả đưa ra nó
không phù hợp với tiêu đề mà tác giả đặt. (Theo chúng em, nên chuyển “ công tác
giáo dục ngoài xã hội” thành “ môi trường xã hội”).
- Tác giả nên đưa phần Về tuyên truyền phổ biến pháp luật phần Nguyên
nhân liên quan đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Nguyên nhân liên quan đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
Tác giả đã đưa ra những nguyên nhân xuất phát từ lực lượng Công an và từ
cơ quan truy tố, xét xử. Điều này rất hợp lí bởi đây là những cơ quan trực tiếp
9
tiếp xúc, giải quyết các vụ cướp tài sản. Tác giả cũng đã nêu ra những vụ án cụ
thể để minh chứng. Tuy nhiên chưa có số liệu thông kê cụ thể.
2. Nhận xét về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm đã
được trình bày trong luận án
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm của tội cướp tài sản trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi không ngoại trừ những nguyên nhân và điều kiện phạm
tội của tội cướp tài sản trong cả nước nói chung và điều kiện mang tính đặc thù
của địa phương.
- Qua phân tích về nguyên nhân và điều kiện liên quan đến kinh tế xã hội ta
thấy nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ sự phát triển của nền kinh tế thị trường cụ
thể ở đây là mặt trái của nó trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội của đất nước
như lạm phát, phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội , thất nghiệp ( có đến 46,75%
người phạm tội đưa ra xét xử về tội cướp tài sản là thất nghiệp)…; sự biến động
của lực lượng lao động tự do ra vào tỉnh không đăng kí tạm trú, tạm vắng; sự phát
triển không đồng bộ của nền kinh tế kèm theo và việc quản lý, thực hiện các chế
độ, chính sách đối với các đối tượng đặc biệt chưa thực sự đúng mức; việc xuất
hiện tràn lan những loại hình văn hóa phẩm không lành mạnh gây mất định
hướng, tha hóa biến chất một bộ phận người trong xã hội. Qua đây, chúng ta thấy
vấn đề cấp thiết đặt ra là nhà nước ta phải có sự điều chỉnh trong những chính
sách để đảm bảo sao cho những chính sách đó có khả năng áp dụng trong thực tế
là cao nhất, giải quyết công ăn việc làm cho người thất nghiệp hoặc có những
biện pháp đảm bảo cho đời sống của họ về vật chất cũng như tinh thần để họ
không rơi vào tình trạng “ Bần cùng sinh đạo tặc”. Các cụm dân cư, tổ dân phố
cần thực hiện nghiêm túc việc quản lý nhân khẩu của địa phương, để đảm bảo
quyền và lợi ích của chính những người dân.
- Trong nguyên nhân và điều kiện liên quan đến giáo dục và tuyên truyền
pháp luật như về thực trạng giáo dục trong gia đình, về công tác giáo dục tại nhà
trường, công tác giáo dục ngoài xã hội, về tuyên truyền phổ biến pháp luật thì ta
nhận thấy nguyên nhân đặc biệt quan trọng và con người có thể chủ động nhận
10
thức và thay đổi đó là môi trường gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên để
hình thành nhân cách con người, một gia đình có tốt, cha mẹ mẫu mực biết chăm
lo đến các con, hiểu được tâm tư tình cảm nguyện vọng của các con, cha mẹ yêu
thương quan tâm chăm sóc lẫn nhau sẽ tạo ra điều kiện tốt, môi trường an toàn
để các trẻ em có thể định hướng được sự phát triển của mình trong tương lai, hạn
chế được một phần lớn nguyên nhân dẫn đến tội phạm vị thành niên. Ngoài ra,
công tác giáo dục tại nhà trường và ngoài xã hội cũng không kém phần quan
trọng. Hiện nay, việc giáo dục tại Quảng Ngãi vẫn còn nhiều bất cập. Nhà trường
cần coi trọng hơn nữa việc giáo dục về pháp luật, đạo đức cho học sinh; nâng cao
phẩm chất tư cách của đội ngũ giáo viên và giữa nhà trường và gia đình cần có sự
phối hợp chặt chẽ hơn nữa. Trên cơ sở những nguyên nhân đã nêu ra, xã hội cần
có biện pháp khắc phục những khiếm khuyết, tạo ra một môi trường vui chơi, giải
trí lành mạnh cho thanh thiếu niên. Công tác tuyên truyền giáo dục tại địa phương
phải sâu sắc, liên tục đổi mới làm phong phú công tác này hơn nữa.
- Về nguyên nhân và điều kiện liên quan đến công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm: Công tác này trong những năm qua tuy đã được các cấp, các
nghành quan tâm song vẫn còn tồn tại nhiều những hạn chế như công tác tuyên
truyền chỉ mang tính hình thức, thiều thường xuyên, do đó ý thức cảnh giác, tự
phòng ngừa của người dân cong hạn chế. Việc quản lý các đối tượng hình sự theo
yêu cầu của công tác phong ngừa tội phạm ở nhiều nơi, nhiều lúc chưa được tổ
chức tốt; công tác điều tra, xét xử, quản lý và cái tạo các đối tượng phạm tội chưa
phát huy hết tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Do vậy, việc đưa ra
những biện pháp để thay đổi tình hình chung là vô cùng cần thiết. Đối với lực
lượng công an cần nắm băt rõ tình hình diễn biến tội phạm, kịp thời phát hiện
những biểu hiện nhen nhóm, manh nha ổ, những tụ điểm ăn chơi… Nâng cao
công tác quản lý các đối tượng có tiền án, tiền sự… Kịp thời phát hiện, điểu tra
làm rõ các vụ án nói chung cũng như cướp tài sản nói riêng để nâng cao sự tin
tưởng trong nhân dân. Đối với cơ quan truy tố, xét xử phải chú trọng tới việc xác
định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm và nhân thân người phạm
11
tội cướp tài sản để kịp thời kiến nghị, khắc phục và phòng ngừa. Những cán bộ
làm công tác xét xử cần phải có trình độ thực sự để đánh giá đúng tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi cướp tài sản để đưa ra khung hình phạt phù
hợp. Ngoài ra, nên chú ý hơn đến việc xét xử lưu động để nâng cao tính răn đe,
giáo dục và tuyên truyền thực tế.
Tóm lại, khi nghiên cứu về nguyên nhân của tình hình tội phạm không thể
tách rời khỏi việc khảo sát thực trạng, phân tích cơ cấu, diễn biến và tính chất của
loại tội phạm này để có thể đưa ra dự báo về tình hình tội phạm và biện pháp
phòng ngừa. Qua phân tích về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ta có thể đưa ra kết luận: trong công
cuộc phòng chống tội phạm nói chung và tội cướp tài sản nói riêng trên phạm vi
cả nước cũng như tỉnh Quảng Ngãi nói riêng cần sự vào cuộc của toàn xã hội.
Các cơ quan, ban ngành, các cấp chính quyền địa phương phải có sự phối hợp
chặt chẽ và linh hoạt trong công tác quản lý, giáo dục và tuyên truyền pháp luật
đến từng người dân để nâng cao ý thức tối thiểu của dân cư trong cộng đồng.
12