Rèn luyện kỹ năng sử dụng Atlat cho học sinh
Thứ ba, 08 Tháng 3 2011 09:43
PHẦN I- ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay chúng ta đang tiến hành đổi mới giáo dục phổ thông (GDPT) và một trong
những nội dung trọng tâm của quá trình đổi GDPT mới đó là đổi mới phương pháp giảng dạy và giáo
dục HS. Phương pháp GDPT phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù
hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm, đối tượng HS, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho HS
phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho HS.
Trong dạy học nói chung và dạy học bộ môn Địa lý ở trường phổ thông nói riêng thì việc sử dụng và
khai thác kênh hình trong quá trình dạy học là một việc làm không thể thiếu trong việc đổi mới
phương pháp giảng dạy hiện nay. Đặc biệt đối với bộ môn Địa lý việc sử dụng bản đồ, sử dụng Atlat
trong dạy học là một việc hết sức quan trọng. Bởi vì Atlat là nguồn kiến thức địa lí khổng lồ cho
chúng ta khai thác để giảng dạy, học tập trong điều kiện thời lượng dạy học cho môn Địa lý có hạn
và nền kinh tế xã hội thế giới phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá và mạnh như vũ bão như hiện
nay. Rèn luyện kỹ năng bản đồ giúp cho HS lĩnh hội được kiến thức địa lý một cách nhẹ nhàng,
nhanh chóng và ghi nhớ kiến thức lâu bền và trau dồi cho các em phương pháp học tập nghiên cứu
môn địa lý. Rèn luyện kỹ năng bản đồ còn là phương tiện đặc biệt quan trọng để phát triển tư duy nói
chung và tư duy địa lý nói riêng.
Thực trạng trường THPT Nguyễn Khuyến huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng hiện nay vốn là
trường THPT bán công Vĩnh Bảo cũ, có trình độ đầu vào của HS rất thấp. Trước năm 2009 nhà
trường tuyển sinh theo hình thức xét tuyển các HS thi trượt vào các trường công lập trong toàn
huyện, điểm đầu vào của HS thấp nên phần lớn HS học yếu các bộ môn văn hoá cơ bản trong đó có
bộ môn địa lý. Vì nhiều lý do khác nhau mà học sinh ngại học, không thích học và chưa có phương
pháp học tập bộ môn Địa lý.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Rèn luyện kỹ năng sử dụng Atlat cho học sinh nhằm nâng cao chất
lượng dạy học bộ môn Địa lý tại trường THPT Nguyễn Khuyến Hải Phòng”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đưa ra các biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng Atlat địa
lý cho HS trong quá trình học tập ở bậc THPT. Đồng thời giúp các em có được phương pháp làm
việc với Atlat một cách tích cực nhất trong quá trình học tập.
3. Kết quả cần đạt được
- Khảo sát tình hình kỹ năng sử dụng Atlat của HS để nắm được mức độ hiểu biết của các em về khả
năng này.
- Trên cơ sở kết quả khảo sát, phân tích đánh giá tình hình để lựa chọn những kỹ năng cần thiết cho
HS, lựa chọn cách hướng dẫn phù hợp với từng đối tượng
4. Đối tượng, phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là HS cả 3 khối 10, 11, 12 của trường THPT Nguyễn Khuyến.
- Phạm vi nghiên cứu đối với HS mỗi khối, lớp mức độ khai thác kỹ năng sử dụng Atlat trong bài học
có sự khác nhau. Song, trong giới hạn của đề tài trình bày những nét chung nhất cho quá trình rèn kỹ
năng bản đồ cho HS.
- Kế hoạch nghiên cứu từ năm học 2008 – 2009 đến nay.
PHẦN II – NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
- Atlát địa lý là một dạng bản đồ giáo khoa, là một tập hợp có hệ thống các bản đồ địa lý được sắp
xếp một cách khoa học, phục vụ cho mục đích dạy học.
- Atlat địa lí là một tài liệu học tập hữu ích không chỉ đối với HS mà còn cả với giáo viên. Nội dung
của Atlat Địa lí được thành lập dựa trên chương trình Địa lí ở trường phổ thông nhằm phục vụ các
đối tượng HS từ lớp 8 đến lớp 12. Các bản đồ trong bản Atlat Địa lí tỉ lệ chung cho các trang bản đồ
chính là 1:6.000.000, tỉ lệ 1:9.000.000 dùng trong các bản đồ ngành và tỉ lệ 1:18.000.000 cho các bản
đồ phụ, tỉ lệ 1:3.000.000 đối với bản đồ các miền tự nhiên đây là các trang bản đồ rất thuận lợi cho
việc khai thác sử dụng trong giảng dạy và học tập địa lý.
- Kĩ năng khai thác bản đồ nói chung và Atlat Địa lí nói riêng là kĩ năng cơ bản của môn Địa lí. Nếu
không nắm vững kĩ năng này thì khó có thể hiểu và giải thích được các sự vật, hiện tượng địa lí, đồng
thời cũng rất khó tự mình tìm tòi các kiến thức địa lí khác. Do vậy,việc rèn luyện kĩ năng làm việc
với bản đồ nói chung là không thể thiếu khi học môn Địa lí.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
- Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy khả năng sử dụng Atlát của các em còn kém. HS chưa biết
khai thác các thông tin từ các bản đồ, lược đồ, biểu đồ trong Atlát vào các bài học để phát hiện kiến
thức cũng như củng cố kiến thức.Vì vậy kết quả học tập chưa cao, trong quá trình học việc sử dụng
Atlát của các em còn lúng túng, các em chưa có hứng thú nhiều với môn học, điểm số trong các bài
kiểm tra nhất là những bài cần sử dụng Atlát còn thấp .
- Nguyên nhân:
+ Theo quan niệm của của xã hội, của HS và một số bộ môn khác thì đây là môn học phụ. Cho nên
có sự thiên lệch trong nhận thức về tầm quan trọng của môn học, không khuyến khích HS học tập tốt
môn địa lý.
+ Thực tế của môn địa lý chưa đáp ứng nhu cầu thực tế về việc lựa chọn ngành nghề trong tương lai
hoặc lựa chọn được rất ít ngành nghề.
+ Môn địa lý là môn học khó (vừa có kiến thức tự nhiên vừa có kiến thức xã hội ), khô khan, ít thực
dụng.
+ Chương trình nặng, mang tính hàn lâm, thiếu thực tiễn.
+ Thời lượng dạy học cho bộ môn còn ít.
+ Giáo viên chưa chú trọng đến việc dạy cho học sinh kỹ năng sử dụng Atlat Địa lý trong học tập bộ
môn.
3. Rèn luyện kỹ năng sử dụng Atlat cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn
Địa lý tại trường THPT Nguyễn Khuyến Hải Phòng
3.1. Rèn luyện kỹ năng nhận biết, chỉ và đọc các đối tượng địa lý trên bản đồ
- Các đối tượng địa lý trên bản đồ thuộc nhiều loại, tự nhiên, kinh tế, xã hội. Kỹ năng nhận biết, chỉ
và đọc các đối tượng đại lý trên bản đồ rất đơn giản nhưng là kỹ năng cơ bản. Do đó phải rèn luyện
kỹ năng này trước tiên trong quá trình dạy học cho HS nhất là HS khối lớp 10. Khó khăn nhất là HS
phải tìm ra các đối tượng trên bản đồ. Vì thế trong quá trình dạy học, giáo viên thường xuyên liên hệ
về hình dạng đặc trưng của các đối tượng địa lý hoặc gắn nó với những đối tượng xung quanh để HS
dễ nhận ra.
- Quy trình tiến hành:
+ GV đọc to, rõ ràng, chính xác địa danh và chỉ đối tượng trên bản đồ treo tường.
+ Cho HS đối chiếu tìm trên bản đồ trong sách giáo khoa hoặc átlat.
+ Giáo viên viết thật to, rõ ràng lên bảng trong một góc riêng.
+ Yêu cầu một số HS phát âm lại tên địa danh và khi cần cho phát âm tập thể
+ Yêu cầu HS chi chép chính xác tên điạ danh vào sổ tay địa lý hoặc vở ghi.
+ Hướng dẫn HS nhận xét hình thù đặc trưng của đối tượng địa lý trên bản đồ.
+ Hướng dẫn HS nhận xét mối quan hệ của đối tượng với các vật khác xung quanh (dùng làm điểm
tựa) dể sau này dễ nhận ra và tìm được đối tượng trên bản đồ.
+ Hướng dẫn cách chỉ đối tượng trên bản đồ.
Quy trình này được tiến hành thường xuyên trong các giờ học dần dần hình thành ở các em kỹ năng
đọc, chỉ, nhận biết đối tượng địa lý trên bản đồ.
3. 2. Rèn luyện kỹ năng xác định phương hướng trên bản đồ
Xác định phương hướng cũng là một kỹ năng đơn giản, được dạy ở các lớp dưới. Nhưng qua thực tế
dạy học, tôi thấy nếu không thường xuyên rèn luyện lại kỹ năng này cho HS thì các em sẽ quên và
không thể xác định phương hướng một cách chính xác trên bản đồ.
Quy trình tiến hành rèn luyện kỹ năng xác định phương hướng trên bản đồ có thể theo quy trình sau:
- Hướng dẫn HS tìm trên quả cầu địa cực bắc, địa cực nam và nhận rõ đấy là điểm cực bắc, cực nam.
- Chứng minh tất cả các đường kinh tuyến dều dẫn đến điểm bắc và nam, tức là đường chỉ hướng bắc
và hướng nam.
Ví dụ: Xác định chí hướng ở trang 10 “tập bản đồ thế giới và các châu lục” và trang 14 “tập bản đồ
thế giới và các châu lục” và trang 19 “tập bản đồ thế giới và các châu lục”.
- Cho HS nhận rõ các đường vĩ tuyến chỉ hướng tây đông và để các em chứng minh trên quả địa cầu
là không có điểm tây và cũng không có điểm đông.
Ví dụ: Xác định chí hướng ở trang 10 “tập bản đồ thế giới và các châu lục” và trang 14 “tập bản đồ
thế giới và các châu lục” và trang 19 “tập bản đồ thế giới và các châu lục”
- Chuyển sang bản đồ nửa cầu và bản đồ châu lục cho HS nhận xét các đường kinh tuyến, vĩ tuyến,
và đối chiếu, so sánh với các đường kinh tuyến vĩ tuyến trên quả cầu để thấy rõ những sai lệch của
bản đồ.
- Tập xác định phương hướng trên bản đồ, atlat và đôí chiếu với quả địa cầu.
- Đối với lớp 10 sử dung “tập bản đồ thế giới và các châu lục” còn giúp các em rèn luyện kỹ năng
nhận biết các phép chiếu đồ, so sánh được các phép chiếu đồ.
Ví dụ: Xác định phép chiếu ở trang 10 “tập bản đồ thế giới và các châu lục” và trang 14 “tập bản đồ
thế giới và các châu lục” và trang 19 “tập bản đồ thế giới và các châu lục”.
2.3. Rèn luyện kỹ năng xác định toạ độ địa lý trên bản đồ
Việc xác định toạ độ địa lý trên bản đồ cho phép nhận ra ngay một địa điểm nào đó nằm ở đới khí
hậu nào và từ đó suy ra đặc điểm cơ bản của khí hậu ở địa điểm đó. Vì khí hậu có ảnh hưởng đến tự
nhiên do đó nói chung, nếu biết được đặc điểm của khí hậu của một nơi thì cũng có thể biết được
những nét lớn về đặc điểm thổ nhưỡng, sông ngòi, thực vật …ở nơi đó.
Việc xác định toạ độ địa lý không phải là công việc khó lắm nhưng HS thường rất lúng túng trong
việc tìm toạ độ địa lý của một khu vực, một quốc gia.
Do đó quy trình tiến hành rèn luyện kỹ năng xác định toạ độ địa lý cho HS nên theo các bước sau:
- Hướng dẫn HS cách chia kinh, vĩ độ trên khung bản đồ.
- Cho HS tập xác định kinh, vĩ độ của điểm gặp nhau của hai đường kinh tuyến và vĩ tuyến được biểu
hiện trên bản đồ.
- Chuyển sang tập xác định toạ độ địa lý của của một điểm nằm ngoài các đường kinh tuyến, vĩ tuyến
được thể hiện trên bản đồ, ở các phép chiếu đồ khác nhau
Ví dụ: Xác đinh toạ độ của Hà Nội, Viêng Chăn, Niu Đêli ở các trang 9, 27, 31 “tập bản đồ thế giới
và các châu lục”.
- Cuối cùng tập xác định toạ độ địa lý của một khu vực ( châu lục, quốc gia…) ở trên các loại bản đồ
và các phép chiếu đồ khác nhau.
Ví dụ: xác định toạ độ Việt Nam, Châu Á ở các trang 9, 27, 31 “tập bản đồ thế giới và các châu lục”.
3.4. Rèn luyện kỹ năng xác định khoảng cách trên bản đồ
Việc đo tính khoảng cách trên bản đồ để đánh giá cụ thể kích thước của các đối tượng địa lý có một ý
nghĩa quan trọng về mặt khoa học cũng như về mặt hình thành khái niệm địa lý cho HS.
- Để rèn luyện kỹ năng này, trước hết phải cho HS nắm chắc khái niệm về tỉ lệ bản đồ. Trong khi tính
toán bằng cm trên bản đồ tỉ lệ nhỏ đổi ra khoảng cách ngoài thực tế, HS thường lúng túng. Giáo viên
nên hướng dẫn cách quy đổi cho các em.
- Hướng dẫn HS sử dụng thước tỷ lệ để tìm ra khoảng cách thực tế .
Đối với HS phổ thông thời gian dành cho rèn luyện kỹ năng địa lý không nhiều nên giáo viên cần lấy
những ví dụ với đối tượng có ranh giới rõ ràng, hình dạng đơn giản để HS vận dụng.
Quy trình tiến hành như sau:
- Làm cho HS nắm vững khái niệm tỉ lệ bản đồ.
- Hướng dẫn HS đổi cm thành km.
- Hướng dẫn HS đo tính khoảng cách trùng hướng với đường kinh tuyến dựa vào lưới kinh vĩ tuyến
trên bản đồ.
- Cho các em biết cách chuyển đổi số vĩ độ đo được thành km.
- Hướng dẫn các em tập đo tính khoảng cách trùng hướng với vĩ tuyến và biết cách chuyển đổi số
kinh độ thành km.
Ví dụ: Xác định khoảng cách từ Hà Nội (Việt Nam) đi thủ đô các nước trong khu vực Đông Nam Á
ở các trang 9, 27, 31 “Tập bản đồ thế giới và các châu lục”.
- Hướng dẫn HS biết xác định các sai số toán học trên bản đồ do các phép chiếu đồ. Các vùng có tỉ
lệ đúng, những vùng có sai số lớn để đưa ra được các kết quả sát thực tế hơn.
Ví dụ: Xác định khoảng cách từ Matxcơva → Ulanbato ở các trang 7, 9, 26“Tập bản đồ thế giới và
các châu lục” để làm rõ các sai số ở các phép chiếu đồ.
3.5. Rèn luyện kỹ năng xác định vị trí địa lý trên bản đồ
Khi rèn luyện kỹ năng này cần làm cho các em nắm chắc ý nghĩa quan trọng của vị trí địa lý, biết tự
mình xác địng vị trí địa lý khi tìm hiểu về bất kỳ một đối tượng địa lý tự nhiên nào và biết cách rút ra
những kết luận quan trọng. Những yếu tố tự nhiên được lựa chọn để xác định vị trí địa lý tự nhiên
của một khu vực nào đó có thể được phân tích về vị trí kinh tế.
Vị trí địa lý chính trị của một nước cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử cũng như vị trí
địa lý kinh tế.
Ví dụ: Khu vực trung cận đông suốt mấy chục năm qua đã xảy ra những cuộc xung đột liên miên;
chiến tranh giữa Ixaren và các nước Arập, những vụ khủng bố không ngừng. Những nước nằm trong
khu vực như Libăng, Xiri,…hoặc bị lôi cuốn vào chiến tranh hoặc chịu ảnh hưởng của chiến tranh,
kinh tế bị thiệt hại, sản xuất không phát triển được, thậm chí còn giảm sút.
Như vậy, khi rèn luyện kỹ năng xác định vị trí địa lý cần cho HS rõ: Vị trí địa lý tự nhiên, vị trí kinh
tế và chính trị không tách rời nhau mà gắn bó. Vị trí địa lý là nhân tố đem lại bản sắc riêng cho mỗi
nước.
Quy trình tiến hành:
- Làm cho HS nắm chắc khái niệm vị trí địa lý tự nhiên, vị trí địa lý kinh tế và vị trí địa lý chính trị;
phân tích mối quan hệ của chúng với nhau.
- Cho các em tập xác định vị trí địa lý tự nhiên bắt đầu từ các châu lục.
- Hướng dẫn các em tập xác định vị trí địa lý kinh tế.
- Hướng dẫn các em tập xác định vị trí địa lý chính trị.
3.6. Rèn luyện kỹ năng mô tả địa hình trên bản đồ
Dựa vào bản đồ địa lý tự nhiên, HS tập phân tích xem có những dạng điạ hình nào, phân bố ra sao,
dạng địa hình nào chiếm ưu thế, chỗ cao nhất và thấp nhất. Từ việc mô tả những nét chung, cho HS
mô tả những dạng địa hình và đặc điểm của mỗi dạng. Ví dụ: Khi mô tả một vùng núi, HS phải
xem xét núi già hay trẻ, cao hay thấp, trung bình, nằm ở phần nào của lãnh thổ, tiếp cận với những
dạng địa hình nào, với biển, đại dương nào, chạy theo hướng nào, dốc về hướng nào, bị cắt sẻ nhiều
hay ít bởi các thung lũng sông, gây trở ngại gì với giao thông vận tải, có ảnh hưởng gì đến khí hậu
của địa phương.
Quy trình rèn luyện kỹ năng mô tả địa hình trên bản đồ có thể theo các bước:
- Giáo viên mô tả địa hình mẫu của một châu lục, vừa mô tả vừa hướng dẫn HS cách thức, trình tự
mô tả.
- Cho HS ghi dàn ý mô tả vào vở ghi hoặc sổ tay địa lý, khuyến khích HS học thuộc dàn ý đó.
- HS tập mô tả địa hình châu lục, bắt đầu từ một châu lục có địa hình đơn giản.
- Cho HS mô tả địa hình theo dàn ý đã được ghi và tập mô tả địa hình một nước nào đó.
3.7. Rèn luyện kỹ năng mô tả khí hậu trên bản đồ
Để mô tả khí hậu của bất kỳ một lãnh thổ nào đều phải đề cập đến 3 yếu tố: nhiệt độ, mưa, gió. Sau
khi cung cấp cho HS những hiểu biết cần thiết trên, giáo viên giới thiệu cho các em đàn ý, để dựa vào
đấy, hướng dẫn các em tập mô tả khí hậu trên bản đồ khí hậu.
Quy trình hướng dẫn HS mô tả khí hậu trên bản đồ:
- Làm cho HS hiểu rõ mô tả khí hậu trên bản đồ có nghĩa là mô tả những yếu tố thành phần của nó
như nhiệt độ, gió, mưa và phát hiện mối liên hệ giữa chúng với nhau cũng như với những yếu tố tự
nhiên khác.
- Giới thiệu cho các em biết cách biểu hiện các yếu tố đó trên bản đồ khí hậu.
- Cung cấp cho HS dàn ý mô tả khí hậu trên bản đồ
- Hướng dẫn các em dựa vào dàn ý cho sẵn để mô tả khí hậu trên bản đồ, bắt đầu từ châu lục rồi
chuyển sang một khu vực, một quốc gia.
3.8. Rèn luyện kỹ năng mô tả sông ngòi trên bản đồ
Nhìn mạng lưới sông ngòi trên bản đồ một khu vực có
thể biết ngay những nét lớn về đặc điểm khí hậu, địa hình, động thực vật và phân bố dân cư của khu
vực đó. Do đó HS được rèn luyện kỹ năng này sẽ biết được những mặt khác về tự nhiên, kinh tế, xã
hội.
Quy trình tiến hành:
- Hướng dẫn HS lập dàn ý và dựa vào đó để mô tả một con sông:
+ Những nét chung của sông ngòi: mạng lưới ra sao, sông chảy theo hướng nào, nguồn cung cấp
nước cho sông
+ Các hệ thống sông chính: Bắt nguồn từ đâu, chảy theo hướng nào, dài hay ngắn, có nhiều hay ít
sông nhánh, các sông chảy về đâu…
- Khi HS đã nắm được cách mô tả một con sông, chuyển sang hướng dẫn các em mô tả một hệ thống
sông.
- Cuối cùng hướng dẫn các em tập mô tả sông ngòi của một nước
3.9. Rèn luyện kỹ năng phát hiện các mối quan hệ địa lý
Đây là một kỹ năng cực kỳ quan trọng vì bản chất của khoa học địa lý gắn với không gian, với bản
đồ và gắn với các mối liên hệ giữa các hiện tượng. Kỹ năng này không chỉ dựa vào sự hiểu biết về
địa đồ học mà còn phải dựa vào kiến thức địa lý, càng nắm vững , hiểu sâu, càng tích luỹ được nhiều
kiến thức địa lý thì kỹ năng này càng thành thạo. Vì thế, hơn bất kỳ kỹ năng nào, kỹ năng này cần
được hình thành dần dần qua những ví dụ từ đơn giản đến phức tạp, từ lớp dưới đến lớp trên.
- Trước hết cần cho HS hiểu rõ và phân biệt các mối liên hệ địa lý:
+ Mối liên hệ đơn giản nhất là những mối liên hệ về vị trí trong không gian của các đối tượng địa lý,
những mối liên hệ này thể hiện trực tiếp trên bản đồ, HS dễ dàng nhận ra.
+ Ngoài những mối liên hệ nhìn thấy ngay trên bản đồ còn có những mối liên hệ HS không chỉ dựa
vào bản đồ mà còn phải đưa vào vốn hiểu biết các quy luật địa lý.
Những mối liên hệ giữa những hiện tượng tự nhiên với nhau
Những mối liên hệ giữa những hiện tượng địa lý kinh tế với nhau: Bao gồm liên hệ giữa những
ngành kinh tế, liên hệ trong phối trí sản xuất.
Những mối liên hệ giữa tự nhiên và kinh tế
- Củng cố và phát triển thêm vốn hiểu biết bản đồ học của HS
- Trên cơ sở vốn hiểu biết tích luỹ của HS, giáo viên giúp các em tự phân biệt được các mối liên hệ
địa lý thông thường và các mối liên hệ địa lý nhân quả, mang tính quy luật.
- Hướng dẫn HS dựa vào bản đồ kinh tế của một số nước (hoặc khu vực) tập đánh giá trình độ kinh tế
của các nước hoặc khu vực đó.
Các bước tiến hành thường xuyên trong quá trình dạy và học sẽ dần hình thành cho HS kỹ năng quan
trọng nhất của môn học, giúp HS có thể tự học môn địa lí bằng cách kết hợp giữa atlat và các kiến
thức trên các phương tiện thông tin đại chúng.
4. Kết quả thực hiện của đề tài
Trong nhiều năm qua, trong quá trình giảng dạy của mình tôi đã áp dụng sáng kiến này để rèn luyện
cho HS. Tôi nhận thấy việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này đã mang lại những hiệu quả thiết
thực.
- Khi bắt đầu vào lớp 10, HS hầu như không có kỹ năng đọc bản đồ, không biết sử dụng bản đồ, khi
làm bài thực hành hoặc bài kiểm tra có sử dụng bản đồ địa lý, átlat thì HS rất lúng túng.
- Sau khi được hướng dẫn đã có những chuyển biến tích cực, các em đã biết cách sử dụng bản đồ vào
từng bài học cụ thể một cách tương đối thành thạo. Các em đã có kỹ năng đọc bản đồ, xác định
phương hướng, toạ độ, khoảng cách, xác định vị trí địa lý trên bản đồ, kỹ năng mô tả các đối tượng
địa lý. Riêng kỹ năng xác định mối quan hệ địa lý giữa các đối tượng địa lý thì còn một bộ phận HS
chưa sử dụng thành thạo vì đây là một kỹ năng khó đòi hỏi HS phải có hiểu biết nhất định về kiến
thức địa lý và cần được rèn luyện lâu dài.
- Đến lớp 12 HS các lớp tôi được phân công giảng dạy, các em đều nắm được những kiến thức cơ
bản của địa lý và những kỹ năng cơ bản trong sử dụng bản đồ. HS lớp 12 tôi giảng dạy đều có thể sử
dụng thành thạo atlat để học tập bộ môn và làm bài thi tốt nghiệp THPT. Kết quả thi tốt nghiệp
THPT năm học 2009 – 2010 các lớp do tôi phụ trách đã đạt tỉ lệ điểm từ trung bình trở lên là 87.6%
vượt mặt bằng của thành phố.
PHẦN III - KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Việc dạy và học địa lý không thể tách rời bản đồ nói chung và Atlat nói riêng. Đó là cuốn sách giáo
khoa thứ hai, khai thác Atlat không chỉ hiểu được kiến thức mà còn là hình ảnh trực quan giúp giáo
viên và học sinh trong giảng dạy và học tập rất hiệu quả. Trong các kỳ thi tốt nghiệp, kỳ thi học sinh
giỏi đều được sử dụng Atlat đẻ làm bài và khai kiến thức trong đó.
Kỹ năng sử dụng bản đồ địa lý cho HS là một kỹ năng không thể thiếu trong quá trình dạy và học
địa lý và đời sống thường ngày. Trong quá trính áp dụng sáng kiến, tôi đã thu được những kết quả
đáng mừng. Từ đó, có thể thấy rằng việc rèn kỹ năng bản đồ, kỹ năng sử dụng atlat cho HS là một
việc làm cần thiết, có thể tiếp tục áp dụng cho HS các năm tiếp theo từ lớp 10 đến lớp 12. Đặc biệt
trong chương trình mới của môn địa lý, nó giúp cho HS năm vững và hiểu sâu, thiết lập được nhiều
mối quan hệ địa lý ở từng vấn đề, khu vực cụ thể.
2. Khuyến nghị
- Đối với giáo viên giảng dạy địa lí dành thời gian hợp lý trong các tiết học để hướng dẫn cho HS các
kĩ năng cần thiết sử dụng bản đồ, Atlat để khai thác kiến thức. Đưa ra quy định bắt buộc tất cả các
học sinh phải có Atlat địa lý.
- Nhà trường cần dành thêm một số buổi học tự chọn trong kế hoạch dạy học của Bộ GD&ĐT quy
định cho bộ môn Địa lý để giáo viên có thời gian rèn luyện thêm cho HS về kỹ năng sử dụng Atlat
địa lý.
- Sở GD&ĐT cần mở các lớp tập huấn cho giáo viên kỹ năng sử dựng Atlat trong day và dạy học. Tổ
chức các hôi thảo chuyên đề về sử dụng Atlát Việt Nam để GV các trường cùng trao đổi kinh
nghiệm, học tập lẫn nhau.
Hải Phòng, tháng 2 năm 2011
Người viết
Đỗ Thị Châu