Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Rèn luyện kỹ năng diễn đạt viết cho học sinh huyện thanh liêm tỉnh hà nam trong dạy học lịch sử thế giới cổ đại và trung đại lớp 10 trung học phổ thông chương trình chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.41 KB, 16 trang )

Rèn luyện kỹ năng diễn đạt viết cho học sinh
huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam trong dạy học
Lịch sử thế giới cổ đại và trung đại lớp 10
trung học phổ thơng chương trình chuẩn
Nguyễn Thị Ngọc Bích
Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS. ngành: Lý luận và phương pháp dạy học (Bộ môn Lịch Sử)
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Bích
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Nghiên cứu tài liệu lí luận và thực tiễn dạy học ở trường phổ thông làm cơ
sở cho việc đề xuất các biện pháp rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS THPT
huyện Thanh Liêm - tỉnh Hà Nam trong DHLS. Nghiên cứu chương trình, SGK để
xác định nội dung cơ bản khóa trình lịch sử thế giới cổ đại và trung đại lớp 10 THPT
(chương trình chuẩn) làm căn cứ cho việc xác định nội dung, tiêu chí rèn luyện kĩ
năng diễn đạt viết cho HS nói chung, HS huyện Thanh Liêm - tỉnh Hà Nam nói
riêng. Điều tra thực tiễn việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS trong DHLS ở
trường THPT. Tiến hành thực nghiệm sư phạm qua một bài kiểm tra lịch sử cụ thể ở
trường phổ thơng để xác định tính hiệu quả, khả thi của các biện pháp đề xuất.
Keywords. Phương pháp dạy; Lịch sử; Kỹ năng viết; Lớp 10

Content
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, Việt Nam chúng ta đang tiến hành sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Vì vậy mà ta cần nguồn nhân lực khơng chỉ có trình độ
học vấn mà cịn phải có năng lực giao tiếp, năng lực sáng tạo, hợp tác, tìm tịi, khám phá, xử
lí thơng tin, vận dụng và giải quyết vấn đề…
Muốn phát triển năng lực đòi hỏi phải thuần thục các kĩ năng như tự học, làm việc
theo nhóm và đặc biệt là kĩ năng giao tiếp… Con người khi sinh ra không phải ai cũng đã có
sẵn những kĩ năng mà nó là kết quả của một quá trình rèn luyện, trau dồi trong hoạt động và


phải thông qua giao tiếp mà trước tiên là qua ngôn ngữ diễn đạt. Diễn đạt như thế nào cho
trôi chảy để người nghe, người đọc hiểu được ý đồ của mình, tin tưởng, hợp tác với mình là
điều vơ cùng cần thiết. Cho nên, đây là kĩ năng không thể thiếu đối với mỗi người trong cuộc
sống và cùng với gia đình, mơi trường giáo dục nhà trường chính là một trong những nơi tiếp
tục hình thành và phát triển kĩ năng diễn đạt cho HS.


Với mỗi con người nói chung, HS nói riêng, kĩ năng diễn đạt có vai trị rất quan trọng
giúp truyền tải thông tin đến người khác dễ hiểu và thuyết phục hơn. Ngồi ra, thơng qua
diễn đạt, GV thực hiện được các kế hoạch sư phạm của mình, đồng thời HS cũng thể hiện
được năng lực và tính tích cực chủ động chiếm lĩnh tri thức khoa học.
Tuy nhiên, trong học tập của HS hiện nay vẫn còn tồn tại một thực trạng đó là nhiều
em kém về kĩ năng diễn đạt. Khi viết, làm bài kiểm tra, các em còn phạm các lỗi sai ngữ
pháp, chấm câu bừa bãi, hành văn lủng củng, không làm nổi bật được ý cần nói, diễn đạt
thường khơ khan, cơng thức, lập luận không chặt chẽ. Hoặc các em thường mắc khuyết tật
trong phát âm như nói ngọng, nói lắp, nói nhanh, nói ngắt quãng hoặc thêm những liên từ
không cần thiết làm cho lời nói lủng củng, trúc trắc khơng rõ ràng. Cho nên, đối với diễn đạt
viết, trong chấm bài kiểm tra của HS hiện nay nhiều GV chỉ quan tâm chấm nội dung để cho
điểm mà ít chú ý hoặc bỏ qua cách hành văn, diễn đạt một vấn đề lịch sử. Một số GV khác đã
chú ý đến những lỗi này của HS để rèn luyện kĩ năng diễn đạt cho các em nhưng lại chưa tìm
được các phương pháp rèn luyện đem lại hiệu quả tốt nhất. Tình trạng này nếu để kéo dài sẽ
không tốt bởi các em có thể hiểu sai lệch các vấn đề lịch sử, nhận thức không đúng hiện thực
lịch sử khách quan và đặc biệt hơn khi thực hành kĩ năng diễn đạt này trong cuộc sống các
em sẽ cảm thấy thiếu tự tin vào khả năng của bản thân.
Thanh Liêm là một huyện của tỉnh Hà Nam - tỉnh cửa ngõ phía Nam thủ đơ Hà Nội.
Trong những năm học vừa qua, số HS dự thi tốt nghiệp và đại học có tỉ lệ đỗ tương đối cao.
Tuy nhiên, ở các kì thi này điểm thi mơn lịch sử mà HS đạt được khơng cao, chủ yếu điểm
trung bình cịn điểm giỏi chiếm số lượng rất ít. Nguyên nhân là do HS dự thi chủ yếu các
khối A, B,và D, có rất ít HS dự thi khối C (20-25 HS/ trường), các em không chú trọng đầu tư
thời gian và công sức học tập các môn xã hội như văn học, lịch sử. Hơn nữa, Thanh Liêm –

Hà Nam là một huyện đồng bằng do văn hóa, lịch sử để lại trong ngơn ngữ của cư dân cịn
mang nặng tính địa phương ở cách phát âm đã ảnh hưởng nhiều đến khả năng diễn đạt của
HS trong học tập. Thực tế này cùng với quan niệm học lịch sử chỉ cần đỗ tốt nghiệp nên GV
cũng chưa chú trọng đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS và bản thân các em cũng
không tự ý thức rèn luyện kĩ năng đó. Diễn đạt viết là một kĩ năng rất cần thiết đối với HS
khơng chỉ khi cịn ngồi trên ghế nhà trường để giúp các em lĩnh hội kiến thức sâu sắc hơn mà
sau này trong cuộc sống dù làm bất cứ cơng việc gì cũng địi hỏi các em phải vận dụng kĩ
năng này.
Để khắc phục tình trạng trên, chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài “Rèn luyện kĩ
năng diễn đạt viết cho HS huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam trong dạy học lịch sử thế giới
cổ đại và trung đại lớp 10 THPT (Chương trình chuẩn)” với mong muốn góp phần bồi
dưỡng cho HS năng lực giao tiếp - giao tiếp bằng ngôn ngữ viết và nâng cao chất lượng dạy
học môn lịch sử ở trường THPT.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Tài liệu nước ngoài
T.A.Ilina trong cuốn “Giáo dục học” tập II, Nxb Giáo dục năm 1973 đã xem thực
hành các kĩ năng như một PPDH tích cực giúp HS hiểu sâu hơn bài học và phát huy được
tính độc lập, sáng tạo của mình. Trong tác phẩm này ơng đã đề cập đến nhiều kĩ năng thực
hành của HS: làm việc với SGK; kĩ năng học tập ở phịng thí nghiệm, thực nghiệm; kĩ năng
luyện tập, ôn tập, làm bài tập… và nhấn mạnh việc luyện tập, ôn tập, làm bài tập bằng sử
dụng ngơn ngữ để diễn đạt chính là một dạng thực hành.
Trong cuốn “Giáo dục học” Nxb Giáo dục năm 1978, tác giả H.V.Savin đã khẳng
định rõ mục đích, ý nghĩa của hoạt động thực hành trong dạy học, song ông lại chưa đi sâu
vào các vấn đề khác của hoạt động thực hành, phân loại các dạng thực hành hoặc làm thế nào
để rèn luyện các kĩ năng này cho HS, đặc biệt là kĩ năng thực hành diễn đạt.
M. A Alecxeep trong cơng trình nghiên cứu “Phát triển tư duy học sinh” -Nxb Giáo
dục, 1976 đã nhấn mạnh QTDH không chỉ bao gồm việc GV truyền thụ tri thức và HS ghi


nhớ tri thức. Tính hiệu quả của việc dạy học đấy không chỉ là kết quả của thông tin mà HS

thu nhận được từ bên ngồi (từ lời nói của GV và từ bài vở trong SGK) mà còn là sản phẩm
của những hành động tìm tịi, mang tính chất thơng tin của riêng HS, của tư duy tích cực của
bản thân các em.
F.Khar-la-mốp trong cuốn: “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế
nào” (1976) cho rằng HS phải tự khám phá kiến thức cho bản thân dù chỉ là “khám phá lại”.
Sự khám phá này phải thông qua việc thực hành giải các bài tập chứ khơng phải chỉ là học
thuộc lịng.Vấn đề đặt ra là GV cần lựa chọn nội dung, tổ chức các hoạt động thực hành ơn
tập sao cho HS có thể phát huy tính sáng tạo và nắm vững kiến thức cơ bản nhất: làm bài tập
thực hành, trả lời câu hỏi, tóm tắt kiến thức cơ bản về sự kiện lịch sử...
Trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?”của tác giả N.G.Đairi do Đặng
Bích Hà dịch đã nêu ra những yêu cầu trong một giờ học lịch sử, một trong những yêu cầu
quan trọng là “Ngôn ngữ chính xác của thầy giáo, đáp ứng một loạt những yêu cầu về sư
phạm (phù hợp với những tiêu chuẩn ngơn ngữ, tính truyền cảm, những qng ngắt hơi, cách
nhấn mạnh, tính xúc cảm, nhịp độ thích hợp…), phát triển ngôn ngữ của học sinh, cùng với
việc làm phong phú vốn từ lịch sử của học sinh” [11; 9].
Như vâ ̣y, các nhà giáo d ục nước ngoài khi nghiên cứu về vấn đề diễn đạt của HS hầu
hết đều quan tâm tới hoạt động thực hành nói chung mà chưa chú trọng nhiều tới việc phát triển
ngôn ngữ diễn đạt cho các em. Các tác giả mới chỉ nhấn mạnh vai trò của hoạt động thực hành
diễn đạt, sự cần thiết phải rèn luyện khả năng ngôn ngữ, kĩ năng diễn đạt cho HS nhưng lại chưa
đề cập cụ thể đến các cách thức, biện pháp rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS như thế nào
cho có hiệu quả.
2.2. Tài liệu trong nước
Các tác giả Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt trong cuốn “Giáo dục học” tập I, Nxb Giáo
dục 1987 nhấn mạnh một trong những nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học là nhất định phải
gắn tri thức HS đã được tiếp nhận với thực tiễn bằng những hoạt động cụ thể, có như vậy mới
đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lí luận với thực tiễn, qua đó tổng hợp được các tri thức,
rèn kĩ năng, kĩ xảo cho HS. Trong quá trình thực hành này kĩ năng diễn đạt phải được rèn
luyện, củng cố thường xuyên thì kiến thức mà các em tiếp nhận được mới tồn tại một cách
vững chắc.
Trong cuốn “Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên” của Nxb Đại học sư phạm,

các tác giả Phạm Trung Thanh, Nguyễn Thị Lý đã đề cập đến vị trí, vai trị, ý nghĩa của việc
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên trong quá trình đào tạo GV và cũng đã nêu ra
những phương pháp giúp sinh viên sư phạm rèn luyện những kĩ năng nghề nghiệp cần thiết,
như kĩ năng nói, kĩ năng diễn đạt viết qua làm bài tập, bài kiểm tra... Song các tác giả lại chưa
đề cập đến vai trò, ý nghĩa và biện pháp giúp HS rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết như thế nào.
Rõ ràng, các tác giả Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt và Phạm Trung Thanh tuy đều đã
quan tâm đến việc rèn luyện kĩ năng thực hành trong QTDH, nhưng lại chưa đề cập đến việc
rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết như thế nào cho HS để đạt được kết quả cao.
Các tác giả Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng và Nguyễn Thị Côi trong cuốn
“Phương pháp dạy học lịch sử”, tập 1 (Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội, 2009) trong phần viết
về mục tiêu của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông đã xác định rõ mục tiêu về kĩ năng và
nhấn mạnh đến mục tiêu phát triển năng lực trình bày viết của HS: “Phải bồi dưỡng kĩ năng
học tập và thực hành bộ môn: tự “làm việc” với sách giáo khoa và các loại tài liệu khác có
liên quan, nâng cao năng lực trình bày nói và viết, làm và sử dụng đồ dùng trực quan, ứng
dụng thành tựu công nghệ thông tin vào học tập, tổ chức và thực hiện những hoạt động ngoại
khóa của môn học” [32;69].
Trong tài liệu học tập chuyên đề “Phát triển tư duy học sinh trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông cấp III – Khoa lịch sử, 1971-1972, tác giả Phan Ngọc Liên với bài viết “Về


phát triển tư duy biện chứng cho học sinh trong khi dạy học lịch sử” đã nhấn mạnh tới vai trị của
ngơn ngữ và lời nói.
Trong cuốn tài liệu “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử” (do GS.TS
Nguyễn Thị Côi chủ biên, Nxb Đại học sư phạm, 2011) các tác giả đã đi sâu trình bày hệ
thống các kĩ năng thực hành cần rèn luyện cho sinh viên sư phạm và cũng đã dành một
chương đề cập đến kĩ năng diễn đạt. Về vấn đề này, các tác giả đã khẳng định vị trí, vai trị, ý
nghĩa của kĩ năng diễn đạt (nói và viết). Tác giả đã định hướng những yêu cầu cụ thể để rèn
luyện kĩ năng diễn đạt viết như phải khắc phục yếu kém thường gặp trong diễn đạt viết, phải
diễn đạt mạch lạc, súc tích, câu văn viết gọn, rõ ràng, đúng ngữ pháp. Ngoài ra, tác giả cũng
chỉ ra cụ thể những biện pháp để giúp sinh viên rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết

Ngoài các ngu ồn tài liệu trên, rèn luyện kĩ năng diễn đạt cho HS trong da ̣y ho ̣c nói
chung và DHLS nói riêng còn được đề cập trong mô ̣t số bài viế t trên ta ̣p chí Giáo dục.
Tác giả Nguyễn Thu Quyên với bài viết: “Tổ chức cho HS thuyết trình - một biện
pháp quan trọng để nâng cao chất lượng DHLS ở trường THPT” trên tạp chí Giáo dục số
233 năm 2010 đã trình bày những đề xuất các biện pháp để rèn luyện kĩ năng thuyết trình cho
HS. Tác giả nhấn mạnh đây là một biện pháp để nâng cao hiệu quả DHLS thơng qua việc
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Đây cũng là một cách để HS tự học tích
cực, biết ăn nói lưu loát, phát biểu ý kiến một cách tự nhiên, rành mạch.
Tiến sĩ Nguyễn Gia Cầu với bài viết “Dạy học phát triển các kĩ năng cơ bản cho học
sinh” in trên tạp chí Giáo dục, số 162 năm 2007, đã khẳng định bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc,
viết là những kĩ năng cơ bản, không chỉ dành cho dạy học tiếng Việt rèn luyện mà nó cịn cần
thiết được rèn luyện ở tất cả các môn học căn cứ vào đặc trưng riêng của mơn học đó.
Trong bài viết “Rèn luyện và phát triển kĩ năng nói cho học sinh THCS” in trên tạp
chí Giáo dục số 131 năm 2006 của tác giả Nguyễn Thúy Hồng đã khẳng định: “Nếu như
nghe, đọc là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thơng tin thì nói và viết là hai kĩ
năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin…” [11;29].
Tác giả Vũ Ánh Tuyết trong bài viết “Phát triển năng lực thực hành cho học sinh
THPT trong dạy học lịch sử” in trên tạp chí Giáo dục số 216 năm 2009 đã khẳng định “Quá
trình hình thành kĩ năng, kĩ xảo chứng tỏ khả năng nắm vững kiến thức của HS, cho phép các
hoạt động tiến dần tới sự tự động hóa làm cho một số thao tác riêng lẻ bị biến mất đi rút
ngắn thời gian nhưng kết quả vẫn tốt” [41;33].
Việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt còn được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu trong các khóa
luận Tốt nghiêp. Trong khố luận mang tên“Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng trình bày miệng
cho học sinh trong dạy học chương Các cuộc cách mạng tư sản từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ
XVIII - lớp 10 THPT- chương trình chuẩn” của tác giả Phan Thị Thanh Loan, Khoa Sử, Đại học
Sư phạm Hà Nội, 2011, đã khẳng định vai trò, ý nghĩa của kĩ năng trình bày miệng đối với HS và
nêu ra các cách trình bày miệng c ủa HS trong học tập mơn lịch sử. Đồng thời, khố luận cũng
đề xuất một số biện pháp để rèn luyện kĩ năng trình bày miệng cho HS trong dạy học chương
“Các cuộc cách mạng tư sản từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII –lớp 10 THPT- chương
trình chuẩn” như … Diễn đạt nói và viết đều có vai trò quan trọng trong giao tiếp đối với HS.

Tuy nhiên, lại chưa có khóa luận, luận văn, luận án nào đề cập tới việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt
viết.
Các cơng trình nghiên cứu trên tuy chưa đề cập cụ thể các biện pháp để rèn luyện kĩ
năng diễn đạt viết cho HS nhưng đã khẳ ng đinh vai trò , tầ m quan tro ̣ng của viê ̣c rèn luyện các
̣
kĩ năng cho HS trong đó có kĩ năng diễn đạt phát triể n tư duy và ngôn ngữ cho HS trong da ̣y
học. Đây nguồn tài liệu quý giá để chúng tôi vận dụng và đề xuất một số biện pháp giúp HS
rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết trong q trình học tập bộ mơn lịch sử ở trường THPT.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu : của đề tài là quá trình rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS
trong DHLS ở lớp 10 THPT.


3.2. Phạm vi nghiên cứu: là khóa trình lịch sử thế giới cổ đại và trung đại lớp 10 THPT
(chương trình chuẩn) vận dụng cho đối tượng HS THPT huyện Thanh Liêm - Hà Nam.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết đối với
HS THPT nói chung, đề tài đi sâu xác định nội dung, tiêu chí của kĩ năng diễn đạt viết và đề
xuất biện pháp rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết phù hợp với HS huyện Thanh Liêm - Tỉnh Hà
Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu lí luận và thực tiễn dạy học ở trường phổ thông làm cơ sở cho
việc đề xuất các biện pháp rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS THPT huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam trong DHLS.
- Nghiên cứu chương trình, SGK để xác định nội dung cơ bản khóa trình lịch sử thế
giới cổ đại và trung đại lớp 10 THPT (chương trình chuẩn) làm căn cứ cho việc xác định nội
dung, tiêu chí rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS nói chung, HS huyện Thanh Liêm - tỉnh
Hà Nam nói riêng.
- Điều tra thực tiễn việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS trong DHLS ở trường
THPT.

- Tiến hành thực nghiệm sư phạm qua một bài kiểm tra lịch sử cụ thể ở trường phổ thơng để
xác định tính hiệu quả, khả thi của các biện pháp đề xuất.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
- Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng ta về giáo dục, và giáo dục lịch sử.
- Cơ sở lí luận về tâm lý học, giáo dục học, phương pháp DHLS của các nhà giáo dục
và giáo dục lịch sử liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng các phương pháp lịch sử, logic, phương pháp tổng hợp, phân tích để nghiên
cứu các tài liệu lí luận có liên quan đến đề tài, các tác phẩm của Đảng ta về giáo dục, các
cơng trình của các nhà khoa học giáo dục và giáo dục lịch sử.
- Điều tra, khảo sát tình hình thực tế của việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS
trong DHLS ở trường THPT thông qua dự giờ, trao đổi với GV, HS, tổng hợp xử lý thông tin
và rút ra nhận xét khái quát.
- Soạn và thực nghiệm một bài kiểm tra cụ thể trong khóa trình lịch sử thế giới cổ trung đại lớp 10 THPT (Chương trình chuẩn) để chứng minh tính hiệu quả của các biện pháp
đề xuất.
- Sử dụng phương pháp toán học thống kê: tập hợp và xử lý các số liệu thu được qua điều
tra thực tế, thực nghiệm bằng cách lập bảng, tính tỉ lệ phần trăm.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả của đề tài góp phần khẳng định tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt
viết cho HS trong quá trình DHLS, mơn lịch sử ở trường phổ thơng hồn tồn có khả năng rèn
luyện các “kĩ năng mềm” cho HS.
7. Giả thuyết khoa học
Nếu rèn luyện tốt các kĩ năng diễn đạt viết cho HS trong DHLS theo các biện pháp
luận văn đề xuất thì sẽ góp phần bồi dưỡng năng lực toàn diện cho HS huyện Thanh Liêm Hà Nam, nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử ở trường THPT.
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của luận
văn được trình bày trong 2 chương:



Chương 1. Rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trường Trung học phổ thơng - Lí luận và thực tiễn
Chương 2. Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho học sinh huyện
Thanh Liêm tỉnh Hà Nam trong dạy học khóa trình lịch sử thế giới cổ - trung đại lớp 10
trường Trung học phổ thơng Chương trình chuẩn.
CHUƠNG1
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG DIỄN ĐẠT VIẾT CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG PHỔ THƠNG –
LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Cơ sở xuất phát của việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho học sinh trong dạy học
lịch sử ở trường phổ thông
* Từ mối quan hệ giữa thầy và trò trong quá trình dạy học
Từ mối quan hệ thầy - trị trong QTDH đã đặt ra yêu cầu cho người GV là phải luôn
chú ý tới việc định hướng diễn đạt cho HS và chú ý sửa lỗi diễn đạt cho các em. Đồng thời
GV phải chú ý cách diễn đạt của mình sao cho khoa học, chính xác và logic để là một tấm
gương sáng cho HS học tập. Các em ln phải là người tích cực, chủ động và sáng tạo trong
khi tìm hiểu kiến thức lịch sử bởi chỉ có vậy HS mới hiểu sâu sắc vấn đề và có khả năng diễn
đạt thành lời một cách trơi chảy, mạch lạc, logic.
* Mục tiêu, nhiệm vụ của bộ môn lịch sử ở trường THPT
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của bộ môn, khi rèn luyện kĩ năng diễn đạt
viết cho HS, GV chỉ nên đóng vai trị là người hướng dẫn, định hướng cho HS, còn HS
phải phát huy tính sáng tạo của mình khi trình bày các sự kiện, hiện tượng lịch sử không
nên viết lại những điều đã có sẵn, viết ngun xi những gì có trong vở ghi và SGK. Đồng
thời, HS cũng phải khơng ngừng nỗ lực, tích cực, tự giác trau dồi và rèn luyện kĩ năng
diễn đạt của mình
* Đặc trưng của tri thức lịch sử
Tính quá khứ : Đặc trưng đ ặt ra yêu cầu khi diễn đạt viết HS phải tìm những từ ngữ
thích hợp diễn đạt những sự kiện , hiê ̣n tươ ̣ng lich sử đã xảy ra trong quá khứ nhưng có thâ ̣t ,

̣
tồ n ta ̣i thâ ̣t tránh viê ̣c “hiê ̣n đa ̣i hóa lich sử” . Đồng thời các em cũng biết phải biết cách trình
̣
bày một vấn đề lịch sử rõ ràng, logic, diễn đạt đúng bản chất và có một vốn từ, thuật ngữ lịch
sử phong phú. Ngoài ra, khi diễn đạt viết một vấn đề lịch sử, HS phải biết phân tích, khái
qt, có cái nhìn so sánh, đối chiếu, liên hệ sự kiện lịch sử đó với những sự kiện tương tự
diễn ra trong những không gian và thời gian khác.
Tính khơng lặp: Chính điều này, buộc GV và HS khi diễn đạt viết một sự kiện, một hiện
tượng lịch sử nào đó thì phải đặt chúng trong một không gian và thời gian cụ thể. Tuy nhiên, phải
nhận thấy các sự kiện lịch sử tuy diễn ra trong một không gian và thời gian cụ thể, riêng biệt song
nó có mối quan hệ kế thừa với các sự kiện lịch sử khác chứ không riêng lẻ, độc lập hồn tồn
Tính cụ thể : Đặc điểm này địi hỏi GV và HS khi trình bày các sự kiê ̣n, hiê ̣n tượng
lịch sử càng cu ̣ thể , càng sinh động bao nhiêu lại càng hấp dẫn bấy nhiêu . GV cũng đồng thời
phải định hướng cho HS trình bày các sự kiện , hiê ̣n tươ ̣ng lich sử mô ̣t cách rõ ràng , cụ thể,
̣
tránh việc nói chu ng chung, đa ̣i khái ; luôn gắ n các sự kiê ̣n , hiê ̣n tươ ̣ng, nhân vâ ̣t lich sử với
̣
không gian và thời gian nhấ t đinh , phân biê ̣t đư ợc các sự kiê ̣n cùng loa ̣i để HS không nhầ m
̣
lẫn các sự kiê ̣n, hiê ̣n tươ ̣ng, nhân vâ ̣t với nhau.
Tính hệ thớ ng (tính logic lịch sử): Nó địi hỏi GV giảng dạy lịch sử phải tích lũy kiến
thức phong phú về các linh vực của đời số ng xã hô ̣i và kèm theo đó là hê ̣ thố ng những thuâ ̣t
̃
ngữ của các linh vực tương ứng . Đặc trưng này cũng đặt ra một yêu cầu đối với HS là khi
̃
trình bày hay diễn đạt bất kỳ một vấn đề nào đó cũng phải chú ý tới tính logic của vấn đề
.


Trình bày vấn đề phải gãy gọn, logic, có đầu, có cuối và các em cũng phải tích lũy một vốn từ

phong phú thì mới có thể diễn đa ̣t tớ t các vấ n đề của lich sử .
̣
Tính thống nhất giữa “sử” và “luận ”: Đặc trưng này cũng đặt ra yêu cầu cho HS khi
trình bày viết một sự kiện lịch sử không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc mơ tả sự kiện, hiện
tượng đó mà phải giải thích ngun nhân của sự kiện đó và phân tích ý nghĩa, hệ quả của sự
kiện đó như thế nào.
* Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lịch sử
Việc đổi mới PPDH đặt ra đòi hỏi GV và HS phải rèn luyện tốt các kĩ năng diễn đạt.
Trong khi rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS, GV phải tạo điều kiện tốt nhất để HS phát
huy được tính chủ động trong việc trình bày các sự kiện, hiện tượng lịch sử chứ không nên
chỉ yêu cầu HS ghi chép lại nguyên xi những gì đã có trong SGK, vở ghi. GV cần bồi dưỡng
cho HS phương pháp tự học, tự khám phá để tự lực chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện các kĩ năng
thực hành và năng lực vận dụng những tri thức vào thực tiễn cuộc sống. HS cũng cần phải
chủ động, tích cực, không ngừng tự rèn luyện và trau dồi ngôn ngữ, kĩ năng diễn đạt của
mình.
* Đặc điểm trong diễn đạt viết của học sinh Thanh Liêm - Hà Nam
Do đặc điểm lịch sử, văn hóa địa phương, HS Thanh Liêm - Hà Nam thường gặp
phải những khó khăn trong diễn đạt viết. Nếu không rèn luyện để khắc phục những lỗi diễn
đạt này sẽ có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến bản thân các em.
1.1.2. Quan niệm
* Kĩ năng
Trong các tài liệu tâm lí học và giáo dục học có những ý kiến khác nhau về quan niệm
kĩ năng. Có thể hiểu kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận
dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với những điều kiện
cho phép.
* Rèn luyện kĩ năng
Việc hình thành kĩ năng tuỳ thuộc vào đặc điểm tâm lý của mỗi cá nhân. Tuy nhiên có thể khái
quát thành những bước sau: Bước 1: Huớng dẫn lí thuyết; Bước 2: Làm mẫu.; Bước 3: Người học xây
dựng kế hoạch thực hiện; Bước 4: Thực hành và luyện tập; Bước5: Tự kiểm tra; Bước 6: Thao tác sáng
tạo.

* Kĩ năng diễn đạt viết
Rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết chính là việc các em thường xuyên sử du ̣ng ngôn ngữ viết
để diễn đa ̣t mô ̣t cách ma ̣ch la ̣c, ngắ n go ̣n, sâu sắ c sự hiể u biế t của mình, cụ thể ở đây là những
kiế n thức lich sử bao gồ m các sự kiê ̣n, hiê ̣n tươ ̣ng, nhân vâ ̣t lich sử, những khái niê ̣m, quy luâ ̣t,
̣
̣
bài học lịch sử mà các em đã lĩnh hội được trong q trình học tập bộ mơn
.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho học sinh ở trường phổ
thông
Đối với giáo viên
Nó giúp GV biết được khả năng nắm kiến thức của HS, hiểu được việc rèn luyện kĩ
năng cũng như khả năng sử dụng ngôn ngữ và nắm vững hệ thống thuật ngữ lịch sử của các
em. Đồng thời, GV cũng có cơ hội nhìn nhận và đánh giá lại kiến thức và PPDH của mình, từ
đó có điều chỉnh kịp thời sao cho phù hợp với trình độ nhận thức của HS cũng như đảm bảo
mục tiêu DHLS ở trường phổ thông.
Đối với học sinh: giúp HS kiểm tra được kiến thức của mình về sự kiện, vấn đề lịch sử. Từ
đó, sẽ định hướng cho các em phương pháp học tập tiếp theo. Ngồi ra, thơng qua đó, tư duy của
HS sẽ ngày càng phát triển và ngôn ngữ của HS ngày càng được gọn rũa, trau chuốt. Việc rèn
luyện kĩ năng kĩ năng này có ý nghĩa to lớn đối với việc học tập bộ môn lịch sử ở trường THPT.
Về giáo dưỡng


Diễn đạt viết là cách tốt nhất hình thành cho các em khả năng ngôn ngữ, cách diễn đạt
logic, mạch lạc để từ đó hồn thiện vốn từ, có được một hệ thống từ ngữ, thuật ngữ phong
phú, góp phần củng cố, hoàn thiện kiến thức đã được tiếp thu vững chắc hơn.
Về giáo dục
Việc HS trình bày viết được những vấn đề lịch sử không chỉ đơn giản là các em diễn đạt
lại những kiến thức có sẵn hay trả lời câu hỏi của GV mà nó cịn chứng tỏ các em đã chú ý,
quan tâm và hiểu được sâu sắc bản chất vấn đề lịch sử đó. Từ đó, các em biết đánh giá, nhận

xét sự kiện, nhân vật lịch sử và sẽ tự nhận thức được cho bản thân những điều cần học và nên
học. Đồng thời, việc trình bày kiến thức lịch sử cịn giúp các em HS bày tỏ được cảm xúc của
mình khi đứng trước một vấn đề, một sự kiện, một nhân vật lịch sử
Về phát triển
Khi HS diễn đạt được nội dung đó thành lời tức là các em đã thực hiện quá trình tự
học đạt hiệu quả, các mức độ đạt được phụ thuộc vào sự hướng dẫn của GV và năng lực tư
duy sáng tạo của các em. Để có thể trình bày được nội dung kiến thức thành lời, HS cần phải
vận dụng các thao tác của tư du. Vì vậy khi HS tìm được ngơn ngữ, từ ngữ diễn đạt hiệu quả
nhất đối với một nội dung lịch sử nào cũng đồng nghĩa với việc HS đã thành thạo ở mức cao
hơn các thao tác tư duy cần thiết.
1.1.4. Những yêu cầu khi rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho học sinh
Về nội dung
Đạt được mục tiêu của việc học tập lịch sử. Trong quá trình DHLS, để rèn luyện kĩ
năng diễn đạt viết cho HS dù GV có sử dụng PPDH nào và vì mục đích gì thì cũng phải đạt
được mục tiêu cả ba mặt kiến thức, kĩ năng và thái độ.
Học sinh phải nắm vững nội dung kiến thức sẽ trình bày. Nếu HS khơng nắm vững
nội dung kiến thức sẽ trình bày thì bài viết của các em chỉ là sự gom nhặt, chắp ghép lại
những nội dung kiến thức có trong SGK hay bài giảng của GV. Do đó, khi rèn luyện kĩ năng
diễn đạt viết cho HS, GV phải định hướng cho HS hiểu nội dung kiến thức sẽ trình bày bằng
những câu hỏi, bài tập rõ ràng, tường minh. Đồng thời, cùng với việc lĩnh hội kiến thức, HS
phải có sự chuẩn bị kĩ càng, trình bày những điều đã hiểu biết một cách khúc chiết với nội
dung phong phú, chính xác cao.
Đảm bảo tính khoa học, logic và chính xác. Khi trình bày một sự kiện, vấn đề lịch sử,
HS phải tuân theo logic của sự nhận thức lịch sử theo trình tự thời gian, theo logic của vấn đề
từ nguyên nhân, diễn biến đến kết quả, không thể và khơng nên trình bày “nhảy cóc”. u cầu
này địi hỏi GV phải luôn chú ý định hướng diễn đạt cho HS và sửa lỗi diễn đạt cho các em.
Song, để làm được điều này trước tiên, GV phải là người có kiến thức chun mơn và năng
lực sư phạm, đặc biệt là năng lực diễn đạt một vấn đề lịch sử (nói hay viết) đều cần chính
xác, khoa học và logic. Việc đặt câu hỏi khi giao bài tập và trong kiểm tra của GV phải có nội
dung rất cụ thể, có tính gợi mở, có định hướng rõ ràng, xác định ngôn ngữ diễn đạt khoa học

nhất để HS lĩnh hội kiến thức ở mức độ nhất định.
Phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Đây được xem là nguyên tắc cơ bản. Đối
với những HS có lực học trung bình thì chỉ nên u cầu các em trình bày nội dung kiến thức
có trong SGK, khơng nên đưa ra những câu hỏi q khó hay khai thác q sâu một vấn đề
nào đó.Cịn đối với những HS khá, giỏi, GV có thể đưa ra những câu hỏi yêu cầu các em
phải phân tích, lập luận giải thích vấn đề.
Rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết phải phát huy tính được tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh trong học tập. Trong quá trình rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS, nếu GV
tạo điều kiện cho các em được chủ động, sáng tạo tìm hiểu, khám phá kiến thức lịch sử thì
các em sẽ hiểu sâu sắc vấn đề để từ đó tự tự hình thành khả năng diễn đạt thành lời hoặc diễn
đạt viết những nội dung này một cách trôi chảy, mạch lạc, logic.
Về hình thức: Để rèn luyện cho HS kĩ năng diễn đạt viết cần khắc phục những yếu
kém thường gặp sau:


Viết sai ngữ pháp, hiểu sai các thuật ngữ… nhiều khi dẫn tới sai kiến thức cơ bản. Do
đó, bảo đảm viết đúng chính tả, đúng ngữ pháp là yêu cầu cơ bản đầu tiên cần phải thực hiện.
Câu văn lủng củng, diễn đạt không sáng sủa, không làm nối bật được ý cần nêu. Lỗi
diễn đạt này do HS nắm nội dung kiến thức không chắc hay diễn đạt kém. Hoặc do HS tuy có
kiến thức chính xác nhưng các em lại nêu lên rất nhiều ý kiến, các ý sắp xếp lộn xộn không
ăn nhập với nhau khiến người đọc khơng thể hiểu người viết muốn nói gì qua câu văn đó.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Địa điểm và thời gian khảo sát: các trường THPT ở Thanh Liêm trong năm học
2012 - 2013.
Đối tƣợng khảo sát: 12 GV lịch sử và 200 HS của các các trường THPT ở Thanh
Liêm
Nội dung khảo sát: tập trung vào vấn đề nhận thức của GV và HS về việc rèn luyện
kĩ năng diễn đạt viết cho HS trong DHLS ở trường THPT.
Các phƣơng pháp điều tra, khảo sát: phỏng vấn; Điều tra bằng ăng két (phát phiếu
điều tra); Dự giờ lịch sử ở trường THPT; Trực tiếp lên lớp giảng dạy một số tiết và xây dựng

đề kiểm tra để tiến hành thực nghiệm về việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS; quan sát
hoạt động dạy học và kiểm tra, đánh giá ở trên lớp của GV và HS.
1.3. Những định hƣớng rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho học sinh
Phải diễn đạt mạch lạc, súc tích. Các ý trong bài viết phải ăn khớp với nhau theo một
trật tự logic nhất định, không nên đang viết ý này lại chuyển ý khác và lại quay lại.
Câu văn viết gọn, rõ ràng, đúng ngữ pháp. Việc HS trình bày theo ý hiểu của mình
những nội dung lịch sử đơi khi sẽ dài dịng, khơng cơ đọng và không đúng trọng tâm của vấn
đề. Cho nên, GV định hướng cho HS sử dụng ngôn ngữ phải chọn lọc ngơn ngữ diễn đạt sao
cho ngắn gọn, súc tích, chính xác và chuyển tải đầy đủ nội dung trọng tâm của bài học, chú ý
tập trung vào vấn đề cần trình bày.
Phải xây dựng được dàn ý trước khi trình bày. Khi trình bày, HS phải xây dựng dàn ý
để đảm bảo tính logic, khoa học của vấn đề sẽ trình bày, tránh tùy tiện, hời hợt, thiếu logic
trong nội dung trình bày. Do đó, khi u cầu HS chuẩn bị một vấn đề nào đó để trình bày
trước lớp, GV phải hướng dẫn các em xây dựng đề cương và đặt ra những yêu cầu về mặt
kiến thức một cách cụ thể, rõ ràng. Những yêu cầu của GV chính là định hướng cho HS
chuẩn bị bài tốt và trình bày vấn đề một cách logic, mạch lạc, rõ ràng.
Phải chú ý một số từ viết hoa, viết phiên âm từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt.
CHƢƠNG 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG DIỄN ĐẠT VIẾT CHO HỌC SINH
HUYỆN THANH LIÊM TỈNH HÀ NAM TRONG
DẠY HỌC LỊCH SỬ THẾ GIỚI CỔ ĐẠI VÀ TRUNG ĐẠI LỚP 10 TRUNG HỌC
PHỔ THƠNG CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung phần lịch sử thế giới cổ, trung đại - lớp 10 THPT (Chƣơng
trình chuẩn)
2.1.1. Vị trí
2.1.2. Mục tiêu
* Về kiến thức:
* Về kĩ năng:
* Về thái độ, tư tưởng, tình cảm:
2.1.3. Nội dung

2.2. Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho học sinh huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam trong dạy học lịch sử thế giới cổ, trung đại lớp 10 trƣờng THPT (Chƣơng
trình chuẩn)
2.2.1. Rèn kĩ năng hành văn, viết đúng ngữ pháp khi diễn đạt viết về một nội dung lịch sử


Ngày nay, do với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đặc biệt là công
nghệ thông tin, HS sử dụng điện thoại, e -mail, yahoo chat là một chuyện rất đỗi bình thường.
Trong q trình trị chuyện, trao đổi với nhau để tiết kiệm thời gian các em thường viết tắt
các kí hiệu, viết hoa khơng đúng hoặc viết mà khơng có dấu chấm câu ngắt nghỉ, viết xen lẫn
ngôn ngữ tiếng Việt với tiếng nước ngồi nên hiện tượng HS viết sai chính tả, viết không
đúng ngữ pháp tiếng Việt diễn ra tương đối phổ biến. Việc lặp đi lặp lại nhiều lần cách viết
tắt đó làm cho HS khi diễn đạt viết thường mắc phải những lỗi diễn đạt về sử dụng bảng chữ
cái, chữ viết tắt không đúng qui định. Một nguyên nhân khác khiến HS thường xuyên mắc lỗi
diễn đạt đó là do các em thường hay nói ngọng giữa n và l…nên khi diễn đạt viết thì viết sai
chính tả. Đây là lỗi thường xảy ra ngay cả đối với một số vùng của thủ đô Hà Nội - nơi được
xem là chuẩn mực của ngữ pháp tiếng Việt. Hành văn khơng trơi chảy, câu văn sai ngữ pháp
(câu khơng có chủ ngữ, câu q dài, câu lủng củng khơng có nghĩa) cũng là một lỗi diễn đạt
viết HS hay mắc phải. Những lỗi diễn đạt sai trên nếu không được sửa và rèn luyện kịp thời
lâu dần sẽ thành nếp trong HS, thành giá trị văn hóa khuyết thiếu khơng chọn vẹn và về lâu
dài sẽ có ảnh hưởng nguy hại lớn đến thế hệ trẻ. Các em sẽ hiểu sai lệch kiến thức lịch sử
hoặc kiến thức của các em hời hợt khơng sâu sắc. Ngồi ra, năng lực giao tiếp –một năng lực
rất cần thiết đối với các em trong cuộc sống sẽ khơng thể hồn thiện và phát triển được.
Để khắc phục những lỗi trên, trong QTDH lịch sử, GV cần kết hợp kiến thức của bộ môn
Ngữ văn để giúp HS nắm vững một số điểm về ngữ pháp tiếng Việt; chủ yếu là cách hành văn,
diển đạt. Ví như, cách chấm câu, cách sắp xếp các mệnh đề trong một câu. Đồng thời, GV cũng
cần chú trọng giảng giải cho HS một số thuật ngữ lịch sử để HS có thể hiểu và sử dụng đúng
những thuật ngữ đó. Tuy nhiên, do thời gian giảng dạy trên lớp là ít vì vậy có những khái niệm,
thuật ngữ lịch sử mà GV không thể cung cấp hết cho HS được nên HS cần trang bị cho mình một
cuốn từ điển lịch sử phổ thơng để có thể tra cứu và hiểu rõ hơn về các khái niệm, thuật ngữ lịch
sử tránh việc diễn đạt sai. Ngoài ra, GV cũng yêu cầu HS cần có một cuốn sổ tay để ghi lại những

lỗi diễn đạt sai mà mình hay mắc và cách sửa chữa những lỗi sai đó như thế nào. Đây chính là
một cách giúp HS ôn tập lại ngữ pháp, cách diễn đạt.
2.2.2. Rèn kĩ năng diễn đạt viết cho học sinh qua đọc sách, báo, tạp chí để chuẩn bị kiến
thức nền
Vì sách báo có vai trị ý nghĩa to lớn nên GV cần khuyến khích HS thường xuyên đọc
sách, báo và giới thiệu các loại sách, báo hay cho HS tham khảo. Bởi đọc sách không chỉ
giúp HS mở rộng, đào sâu, bổ sung những tri thức đã có, tìm kiếm những tri thức mới, tiếp
cận những lí thuyết mới, những quan điểm mới mà nguồn thông tin chứa đựng trong sách là
ổn định đã được lựa chọn, kiểm nghiệm nên có độ chính xác, độ tin cậy và giá trị khá học
cao. Hơn nữa thơng tin đã được sắp xếp có hệ thống, trình bày ngắn gọn, ngơn ngữ được chau
chuốt, văn phong, cú pháp phù hợp với logic nhận thức và logic khoa học, phù hợp với đặc
điểm lứa tuổi HS. Do đó, đọc sách cịn là con đường tốt để HS trau dồi và phát triển năng lực
ngôn ngữ, giúp các em rèn luyện cách diễn đạt viết.
Đọc sách vừa là một khoa học và nghệ thuật. Việc đọc sách báo khơng có một cách
đọc chung, nó phụ thuộc vào nội dung, tính chất, mục đích đọc… Ngày nay trước sự phát
triển của các phương tiện thông tin, truyền thông như ti vi, Inernet cùng với sự phong phú của
các hình thức giải trí như: xem ca nhạc, xem phim hay chơi game thì việc đọc sách đối với
HS đa số cịn hạn chế. Do đó, đối với một bài học cụ thể nào đó, GV nên liệt kê và chuẩn bị
sẵn cho HS những cuốn sách, những nội dung mà các em cần phải đọc. Ngồi ra, khơng nên
giao nhiệm vụ cho HS một cách chung chung là: các em về nhà nhớ đọc trước bài mới và
những tài liệu mà cơ đã phát bởi như vậy có thể một số HS sẽ khơng thực hiện u cầu đó.
GV nên yêu cầu HS đọc tài liệu và chuẩn bị bài tập dựa trên việc đọc tài liệu đó.
2.2.3. Tăng cường luyện tập cách diễn đạt viết qua các bài tập về nhà
Trước hết, cần tăng cường luyện tập cách diễn đạt viết cho HS thông qua các bài tập
về nhà. Cùng với câu hỏi, bài tập lịch sử góp phần quan trọng vào việc phát triển tư duy HS.


Bài tập lịch sử có nhiều dạng khác nhau: bài tập trắc nghiệm khách quan, bài tập nhận thức,
bài tập về thực hành bộ môn, vận dụng kiến thức đã học vào đời sống. Bài tập trắc nghiệm
khách quan có nhiều loại: câu hỏi đúng - sai, điền vào chỗ trống, lựa chọn câu trả lời đúng…

Bài tập nhận thức khi rèn kĩ năng diễn đạt viết cho HS, GV cần tăng cường ra các bài
tập nhận thức cho HS Bài tập nhận thức được xây dựng trên cơ sở một sự kiện quan trọng,
một số bài học hay cả khóa trình, nó vừa mang tính chất kiểm tra kiến thức cơ bản, vừa giúp
HS rèn luyện năng lực độc lập tích cực nhận thức trong việc giải quyết vấn đề và nâng cao
trình độ tư duy. Bài tập này khơng chỉ địi hỏi HS phải nhớ được những dẫn chứng cụ thể,
biết lựa chọn và chứng minh một vấn đề mà còn đòi hỏi khả năng tổng hợp, khái quát cao,
đặc biệt là năng lực trình bày một vấn đề lịch sử. Nội dung chủ yếu của loại bài tập này gồm:
- Nhận biết quá trình phát triển lịch sử và cơ cấu của một sự kiện (hiện tượng, biến cố,
nhân vật…).
- Xác định những mối liên hệ nhân quả của sự kiện.
- Xác định tính kế thừa giữa các sự kiện, thời kì, giai đoạn lớn.
- Nêu khuynh hướng phát triển của sự kiện, một thời kì nói chung.
- Phân tích tính chất của sự kiện (tiến bộ, phản động, bản chất giai cấp…).
- Xác định các giai đoạn, thời kì phát triển của sự kiện hay xã hội.
- So sánh để rút ra điểm giống nhau, khác nhau, nét tiểu biểu và đặc thù của các sự
kiện, thời kì lịch sử.
- Tìm hiểu ý nghĩa, bài học kinh nghiệm, liên hệ đối với ngày nay…
Hệ thống các bài tập được xây dựng ngoài việc phải căn cứ vào mục tiêu, nội dung
của bài học thì cịn cần phải đạt được một số yêu cầu sau:
- Về hình thức diễn đạt: bài tập phải diễn đạt rõ ràng, nêu được vấn đề cần giải quyết
để có thể hiểu đúng và sâu sắc hơn các sự kiện lịch sử, đa dạng về hình thức thể hiện (câu hỏi
trắc nghiệm khách quan hoặc tự luận).
- Về nội dung: câu hỏi, bài tập không chỉ yêu cầu thông tin tái hiện q khứ lịch sử mà cịn
phải giải thích, chứng minh, tìm hiểu bản chất sự kiện lịch sử.
- Về mức độ khó: câu hỏi, bài tập phải vừa sức đối với HS đồng thời cần có yêu cầu
dành cho HS khá giỏi.
- Về mục tiêu nhận thức: câu hỏi, bài tập phải hướng đến các mục tiêu nhớ, hiểu, vận
dụng, phân tích, tổng hợp và đánh giá.
Đồng thời với việc ra bài tập về nhà, GV nên nêu nhiệm vụ cho HS chuẩn bị bài mới
trước ở nhà bởi nếu nghiên cứu trước kiến thức mới một cách chủ động thì đến lớp các em sẽ

tích cực tiếp thu nội dung kiến thức bài mới hơn. Khi giao nhiệm vụ chuẩn bị bài mới cho
HS, GV không nên nêu một cách chung chung mà cần phải rõ ràng, cụ thể, phù hợp với đặc
điểm nhận thức và trình độ của HS.
2.2.4. Xây dựng sổ tay tư liệu lịch sử để rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết
Đọc tài liệu mà khơng ghi chép lại thơng tin thì rất dễ qn. Do vậy, nên sưu tầm tư
liệu và ghi chép tích lũy tư liệu đó để khi cần có thể sử dụng chúng một cách hiệu quả. Thơng
thường ghi chép có các hình thức sau:
Ghi chép kiểu đề cương: là ghi lại những vấn đề cơ bản của nội dung cuốn sách, có
thể ghi sơ lược hoặc đề cương chi tiết tuỳ theo mục đích của việc đọc tài liệu..
Ghi chép kiểu trích dẫn: là ghi chép lại nguyên văn một câu nói, một luận điểm của
tác giả. u cầu trích dẫn phải thật chính xác, ghi rõ tên tác giả, tên tác phẩm, nhà xuất bản,
năm xuất bản, trích trang. Khi chúng ta có địa chỉ chính xác với tài liệu đọc được thì sẽ rất
thuận lợi cho việc sử dụng trong các tài liệu sau này của bản thân.Khi trích dẫn nếu muốn
luợc bớt thì phải dùng dấu ngoặc đơn nhỏ.Đoạn trích dẫn phản ánh tư tưởng của tác giả, phải
để nguyên trong ngoặc kép “…” và phải để nguyên ý của tác giả, không được ngắt giữa
chừng sẽ làm sai lạc ý của nguyên bản.


Ghi chép tự do: trong hình thức ghi chép này chúng ta cũng có thể trích dẫn, có thể
trình bày ngắn gọn tư tưởng của tác giả, các loại đề cương và những suy nghĩ của người đọc
đối với những vấn đề mà tài liệu đề cập đến. Ghi chép để lưu trữ tài liệu là một việc làm cần
thiết và hữu ích.Tuy nhiên, nếu có tư liệu nhiều, phong phú nhưng khơng biết phân loại, sắp
xếp thì cũng rất khó sử dụng, nhiều khi khơng phát huy được tác dụng hoặc mất thời gian tìm
kiếm. Do đó, để tiện cho HS sử dụng, GV nên hướng dẫn HS không nên ghi chép tùy tiện mà
nên ghi theo các chủ đề đã định sẵn. Khi ghi chép, cần lưu ý ghi chép đúng nguyên bản, ghi
đầy đủ nguồn gốc của các loại tư liệu (tác giả, tác phẩm, nhà xuất bản, năm xuất bản, trang,
dịng…) trích từ đâu. Và có thể ghi thêm ý kiến nhận xét của mình hoặc của người khác, mục
đích và cách sử dụng tư liệu đó.
2.2.5. Sử dụng các bài kiểm tra, đánh giá để rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết
Sử dụng các bài kiểm tra, đánh giá chính là biện pháp để rèn luyện kĩ năng diễn đạt

viết cho HS. Trong DHLS ở trường phổ thơng, việc kiểm tra, đánh giá có vai trị quan trọng.
Trước hết, nó giúp GV nắm được tình hình học tập của HS, là cơ sở để đánh giá kết quả học
tập của các em và phát hiện những thiếu sót trong kiến thức, kĩ năng để kịp thời sửa chữa, bổ
sung. Nó góp phần củng cố những kiến thức đã học của HS. Đồng thời qua kiểm tra, đánh giá
HS cũng tự khẳng định được mình. Mặt khác, qua việc kiểm tra, đánh giá, GV tự đánh giá kết
quả công tác giảng đay của bản thân, thấy được những thành công, những vấn đề cần rút kinh
nghiệm, hiểu rõ mức độ kiến thức và kĩ năng của HS để từ đó có những biện pháp thích hợp
nhằm nâng cao chất lượng dạy học.Thứ hai, khi việc kiểm tra được tiến hành nghiêm túc có thể
đánh giá HS một cách chính xác, đồng thời nó có tác dụng động viên, khuyến khích tinh thần học
tập tích cực, giáo dục thái độ, phương pháp học tập đúng đắn cho HS.
Việc đánh giá, kiểm tra kết quả học tập của HS được tiến hành với nhiều hình thức tổ
chức và phương pháp tiến hành.Về cơ bản, trong DHLS nói riêng, dạy học nói chung có hai
hình thức kiểm tra: kiểm tra miệng và kiểm tra viết. Và để rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho
HS, GV nên tăng cường hình thức kiểm tra viết. Bởi vì, nó giúp GV cùng một lúc nắm được
trình độ của tất cả HS trong lớp. Đồng thời, kết quả kiểm tra viết thường phản ánh khách
quan trình độ của HS về mọi mặt nội dung kiến thức, phương thức diễn đạt, trình độ tư duy
Khi tiến hành kiểm tra viết, GV nên ra các loại câu hỏi tự luận cho HS vì câu hỏi tự
luận là câu hỏi yêu cầu phải trả lời theo dạng mở, tức là HS phải tự trình bày ý kiến trong bài
làm của mình để giải quyết vấn đề mà câu hỏi tự luận nêu ra. Kiếm tra, đánh giá bằng câu hỏi
tự luận khơng chỉ địi hỏi HS phải nhận biết chính xác sự kiện, nhận thức đúng bản chất lịch
sử mà còn đòi hỏi HS thể hiện trình độ lập luận, diễn đạt.
Để phát huy ưu điểm của bài kiểm tra, GV cần lưu ý các điểm sau:Đề tự luận phải
phù hợp với mục tiêu học tập và nội dung giảng dạy;Câu hỏi tự luận cần rõ ràng và xác định;
cho HS biết mức điểm của từng câu;Nên có những câu hỏi để phân hóa được HS khá, giỏi;
Có đáp án và biểu điểm chấm rõ ràng cho từng câu.
Xây dựng câu hỏi tự luận theo các mục tiêu đánh giá năng lực của HS theo các mức
độ sau:
Câu hỏi nhằm kiểm tra khả năng nhớ kiến thức của HS.
Câu hỏi nâng cao (suy luận) nhằm kiểm tra khả năng hiểu kiến thức và biết đánh giá
hoặc liên hệ, vận dụng kiến thức của HS.

Vì kiểm tra, đánh giá có vai trị quan trọng như vậy nên GV nên thường xuyên tiến
hành hoạt động kiểm tra, đánh giá và nhận xét HS. Khi đánh giá HS địi hỏi GV phải khách
quan, cơng bằng, cơng khai, dân chủ, khuyến khích những suy nghĩ riêng, độc lập của HS
chứ khơng phải là u cầu HS trình bày đúng kiến thức trong SGK hay của thày giảng. Việc
nhận xét và cho điểm công khai kết quả kiểm tra giúp HS tự đánh giá đúng, cố gắng phấn đấu
học tập tốt hơn.Một lưu ý khác khi GV tiến hành kiểm tra viết đối với HS đó là khi nhận xét
bài kiểm tra của HS, GV cần nhận xét một cách chi tiết và rất cụ thể những mặt tích cực và
hạn chế trong bài làm của HS đối với từng câu hỏi. Và nếu như HS có mắc lỗi diễn đạt nào khi


viết, GV cần phải suy nghĩ và đặt ra câu hỏi vì sao HS lại mắc phải lỗi diễn đạt viết này? Cách
thức giúp HS sửa chữa lỗi diễn đạt sai đó như thế nào?Ngồi ra, cần lập một cuốn sổ theo dõi kết
quả học tập của HS trong đó ghi chép thật chi tiết, tỉ mỉ về những lỗi sai mà HS hay mắc phải khi
trình bày viết một vấn đề lịch sử. Từ đó sẽ giúp GV theo dõi sự tiến bộ của HS để có những lời
động viên khuyến khích kịp thời.
2.3. Thực nghiệm sƣ phạm
2.3.1. Mục đích thực nghiệm
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và xác định một số biện pháp nhằm rèn luyện kĩ năng
diễn đạt viết cho HS, chúng tôi tiến hành thực nghiệm một bài kiểm tra lịch sử 45 phút ở
chương trình lớp 10 để kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của đề tài. Kết quả thực nghiệm là
cơ sở để chúng tôi rút ra những bài học bổ ích vận dụng vào thực tiễn giảng dạy và rèn luyện
kĩ năng diễn đạt viết cho HS.
2.3.2. Đối tượng thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm tại lớp 10A1 - Trường THPT Thanh Liêm B - Hà
Nam.
2.3.3. Nội dung thực nghiệm
Để tiến hành thực nghiệm, chúng tôi chuẩn bị đề kiểm tra 45 phút dành cho cả hai
lớp 10A1 và 10 A2.
2.3.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm
Tiến hành thực nghiệm với HS lớp 10 của trường THPT Thanh Liêm B - Hà Nam,

trên tổng số 80 em.
Trước khi tiến hành thực nghiệm chúng tôi đã tiến hành điều tra tình hình của GV
và HS trong việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS để nắm tình hình và lựa chọn các lớp
thực nghiệm cho phù hợp.
Lớp thực nghiệm là lớp 10A1 (42 HS), lớp đối chứng là lớp 10A2 (38 HS). Đây đều
là hai lớp chọn của trường, trình độ nhận thức tương đương nhau.Ở lớp thực nghiệm (10A1)
trong q trình giảng dạy, chúng tơi đã chú trọng rèn luyện các kĩ năng diễn đạt theo các biện
pháp đề xuất của đề tài. Dựa vào đặc trưng của bài học chúng tôi lựa chọn một số biện pháp
rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS như sau: Hướng dẫn HS đọc sách, báo;Lập sổ văn học
tích luỹ tư liệu; Yêu cầu HS về nhà làm bài tập và chuẩn bị bài mới; Tiến hành đánh giá,
nhận xét HS.Ở lớp đối chứng (10A2), chúng tôi tiến hành giảng dạy theo phương pháp cũ. Giáo
án được soạn theo phương pháp giảng dạy truyền thống, chỉ sử dụng câu hỏi đối với HS.
2.3.5. Kết quả thực nghiệm
Để đánh giá kết quả nhận thức của HS và có cơ sở để so sánh, đánh giá những biện
pháp đã nêu sau khi thực nghiệm, chúng tôi đã tiến hành kiểm tra hoạt động nhận thức của
HS qua bài kiểm tra 45 phút (đề kiểm tra xem trong phần phụ lục). Phân loại HS như
sau:Điểm giỏi: 9-10; Điểm khá: 7-8; Điểm trung bình: 5-6; Điểm yếu kém: dưới 5
Bảng 2.1.Tổng hợp kết quả thực nghiệm
Điểm
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm yếu
trung bình

Lớp
số
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ

Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
lƣợng
%
lƣợng
%
lƣợng
%
lƣợng
%
Thực
45
0
0
35
77,8
8
17,8
2
4,4
Nghiệm
Đối
47
0
0
20
42,6
24

51,1
3
6,3
chứng
Từ bảng tổng hợp kết quả thực nghiệm, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Về khả năng hành văn diễn đạt: Ở lớp thực nghiệm,ngôn ngữ diễn đạt trong sáng, mạch
lạc, hành văn trôi chảy. Các em đã biết cách lập luận vấn đề chặt chẽ và loogic hơn so với lớp
đối chứng.


Về nhận thức, sự hiểu biết của HS đối với các nội dung, vấn đề lịch sử: Ở lớp thực
nghiệm, các em hiểu sâu sắc các nội dung và vấn đề lịch sử hơn HS ở lớp đối chứng
Về sửa những lỗi sai thường gặp:Ở lớp thực nghiệm, các lỗi sai về viết sai chính tả hầu
như khơng có, cách hành văn của các em cũng trôi chảy và mạch lạc hơn nhiều
KẾT LUẬN
Chúng ta đang sống trong xã hội với sự bùng nổ của tri thức khoa học và công nghệ.
Đứng trước sự phát triển mau lẹ của khoa học, công nghệ, sự bùng nổ về lượng thông tin trên
toàn cầu, ngành giáo dục và nhà trường phải đào tạo và bồi dưỡng thế hệ những con người có
được những năng lực mới đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới mà đời sống xã hội đặt ra.
Năng lực là cơ sở hình thành kĩ năng, muốn phát triển năng lực đòi hỏi phải thuần thục các kĩ
năng, như tự học, làm việc theo nhóm, đặc biệt là kĩ năng giao tiếp… Con người khi sinh ra
không phải ai cũng đã có sẵn những kĩ năng mà nó là kết quả của một quá trình rèn luyện,
trau dồi trong hoạt động và phải thông qua giao tiếp mà trước tiên là diễn đạt. Đây là một
trong những kĩ năng không thể thiếu đối với mỗi người trong cuộc sống và mơi trường giáo
dục chính là một trong những nơi hình thành và phát triển kĩ năng cho HS.
Đối với mỗi con người nói chung, HS nói riêng, kĩ năng diễn đạt có vai trị rất quan
trọng giúp truyền tải thông tin đến người khác dễ hiểu và thuyết phục hơn. Rèn luyện kĩ năng
diễn đạt viết cho HS không chỉ giúp các em lĩnh hội tri thức lịch sử sâu sắc và có hiệu quả
hơn mà nó cịn là một cách có hiệu quả để HS thể hiện năng lực học tập, rèn luyện tư duy và
bộc lộ cảm xúc. Đây sẽ là bước chuẩn bị về mặt kiến thức và kĩ năng cho HS trong học tập và

khi bước vào cuộc sống.
Trong thực tế DHLS, GV và HS đều nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc rèn
luyện kĩ năng diễn đạt viết. Tuy nhiên, việc giúp HS rèn luyện kĩ năng này còn ở mức độ
hạn chế do những nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động. Vấn đề đặt ra ở đây là
phải khắc phục những mặt hạn chế, những nguyên nhân tác động tới việc rèn luyện kĩ
năng cho HS, đặc biệt là phải xác định được các biện pháp tích cực, có tính khả thi giúp
HS rèn luyện kĩ năng này trong q trình học tập bộ mơn lịch sử.
Rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết phải thực hiện theo những yêu cầu nhất định về nội
dung như : đạt được mục tiêu bài học, đảm bảo tính khoa học, logic và chính xác, phù hợp
với trình độ nhận thức của HS, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập và
hình thức như: khắc phục những yếu kém thường gặp trong diễn đạt viết như viết sai ngữ
pháp, các thuật ngữ; câu văn lủng củng, diễn đạt không sáng sủa, khô khan.
Trong giới hạn phạm vi của đề tài, trên cơ sở lí luận và thực tiễn dạy học lịch sử ở các
trường phổ thông, đề tài đã đề xuất một số biện pháp giúp HS rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết
cho HS như: Rèn kĩ năng diễn đạt trong cách hành văn, viết đúng ngữ pháp; Rèn kĩ năng
diễn đạt thông qua việc đọc sách, báo chuẩn bị kiến thức nền; Tăng cường luyện tập cách
diễn đạt viết qua các bài tập về nhà ;Xây dựng sổ tay tư liệu lịch sử để rèn luyện kĩ năng diễn
đạt viết; Sử dụng các bài kiểm tra, đánh giá để rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết. Những biện
pháp mà đề tài đề xuất vừa có tác dụng giúp HS lĩnh hội tri thức một cách tích cực, chủ
động vừa giúp các em hình thành rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết. Tuy nhiên, GV cần lưu
ý sử dụng một cách linh hoạt, kết hợp khéo léo các biện pháp để gây hứng thú cho HS
trong quá trình dạy học để tránh việc làm chỉ mang tính hình thức.
Việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS phải thực hiện trong một thời gian lâu
dài ở các cấp học và lớp học, tất cả là do tâm huyết của người thầy cùng với sự nỗ lực của
bản thân mỗi HS. Thời lượng học trên lớp có hạn, do đó các em phải tự rèn luyện và hồn
thiện bản thân mình. GV đóng vai trị là người định hướng và uốn nắn các em trong quá trình
rèn luyện.
Để rèn luyện cho HS kĩ năng diễn đạt viết đạt hiệu quả, trước hết, GV cũng phải tự
hoàn thiện kĩ năng diễn đạt viết của bản thân, thầy sẽ là tấm gương cho trò noi theo. Tự bản



thân GV phải ý thức trước tiên về ý nghĩa của việc rèn luyện kỹ năng cho HS. Bên cạnh đó,
GV phải áp dụng các biện pháp dạy học tích cực vừa giúp phát triển toàn diện HS vừa tạo
hứng thú cho các em trong quá trình học tập. Giờ học gây hứng thú cho HS sẽ giúp GV áp
dụng những biện pháp mới hiệu quả và tạo được sự ủng hộ từ phía HS.
Để rèn luyện các kĩ năng nói chung và việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt viết cho HS
nói riêng trong DHLS, bên cạnh việc GV phải áp dụng những PPDH tích cực, nhà trường và
xã hội cũng cần quan tâm tới bộ môn lịch sử, và đầu tư có hiệu quả cho việc giảng dạy môn
lịch sử ở trường phổ thông.

References
1. Đặng Đức An (2002), Những mẩu chuyện về lịch sử thế giới, Nxb Giáo dục.
2. Nguyễn Ngọc Bảo, Phát triển tính tích cực, tính tự lực của học sinh trong quá trình
dạy học (Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kì 1993 – 1996 cho giáo viên PTTH, Bộ
GD-ĐT, Vụ giáo viên).
3. Bộ GD&ĐT – Vụ THPT (11/1999), Tài liệu Hội nghị Đổi mới phương pháp giảng dạy
và học tập môn lịch sử ở trường THPT và THCS – Tập 1, Hà Nội.
4. Nguyễn Gia Cầu (2007), “Dạy học phát triển các kỹ năng cơ bản cho học sinh”, Tạp
chí Giáo dục (162).
5. Nguyễn Thị Côi (2006), Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử
ở trường phổ thông, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Côi (cb) (2009), Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử, Nxb
Đại học sư phạm Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Cơi – Trịnh Đình Tùng – Nguyễn Mạnh Hƣởng (2009), Hướng dẫn sử
dụng kênh hình trong SGK LS lớp 10 THPT, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Dự án Việt - Bỉ nâng cao chất lượng giáo dục 14 tỉnh miền núi phía Bắc.
9. Nguyễn Thị Hằng (2008), “Một số biện pháp nhằm gây hứng thú học tập lịch sử cho
học sinh trường trung học phổ thông”, Luận văn Thạc sĩ khoa học Giáo dục, Hà Nội.
10. Hội giáo dục lịch sử (1996), Đổi mới việc dạy học lịch sử lấy học sinh làm trung tâm,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

11. Lê Văn Hồng – Lê Ngọc Lan – Nguyễn Văn Thàng (2001), Tâm lý học lứa tuổi và
tâm lý học sư phạm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
12. Nguyễn Thúy Hồng (2006), “Rèn luyện và phát triển kỹ năng nói cho học sinh trung
học cơ sở”, Tạp chí Giáo dục (131).
13. Kiều Thế Hƣng (1999), Hệ thống thao tác sư phạm trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thông trung học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
14. Nguyễn Thị Hƣơng (2007), “Một số biện pháp nhằm nâng cao tính biểu cảm của
ngơn ngữ trong dạy học lịch sử ở trường THPT”, Luận văn Thạc sĩ khoa học Giáo dục,
Hà Nội.
15. . Khoa Lịch sử, Trường Đại học sư phạm Hà Nội (1971-1972), Tài liệu tập huấn chuyên
đề “Phát triển tư duy học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông cấp III”.
16. Phan Thị Thanh Loan (2011), “Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng trình bày miệng
cho HS trong dạy học chương Các cuộc Cách mạng tư sản từ giữa thế kỉ XVI đến cuối
thế kỉ XVIII – Lớp 10 THPT- Chương trình chuẩn”, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Sử, Đại
học sư phạm Hà Nội.
17. Phan Ngọc Liên – Phạm Kỳ Tá (1975), Đồ dùng trực quan trong việc dạy, học lịch sử
ở trường phổ thông cấp II (Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Phan Ngọc Liên (cb) (2000), Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.


19. Phan Ngọc Liên – Trịnh Đình Tùng – Nguyễn Thị Côi – Trần Vĩnh Tƣờng (2000), Một số
chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
20. Phan Ngọc Liên (cb) (2003), Nhập môn sử học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Phan Ngọc Liên (cb) (2006), Kiến thức Lịch sử 10, Nxb Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí
Minh.
22. Phan Ngọc Liên (Tổng cb) (2007) , SGK Lịch sử 10, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Phan Ngọc Liên (cb) (2008), Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch sử ở
trường phổ thông, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
24. Phan Ngọc Liên - Trịnh Đình Tùng - Nguyễn Thị Cơi (2009), Phương pháp dạy học

lịch sử - Tập 1, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
25. Phan Ngọc Liên - Trịnh Đình Tùng - Nguyễn Thị Côi (2009), Phương pháp dạy học
lịch sử - Tập 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
26. Luật giáo dục 2010, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt (1987), Giáo dục học- Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội
28. Lƣơng Ninh - Nghiêm Đình Vỳ - Trần Văn Trị (2002), Lịch sử 10 - Sách giáo viên, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
29. Lƣơng Ninh- Đinh Ngọc Bảo - Đặng Quang Minh -Nguyễn Gia Phu - Nghiêm Đình Vỳ
(2001), Lịch sử thế giới cổ đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội
30. Nguyễn Thị Nƣơng (2011), “Vai trò của sách và đổi mới giáo dục”, Hội thảo “Sách và chấn
hưng Giáo dục”, Hà Nội
31. Phạm Trung Thanh (cb), Nguyễn Thị Lí (2008), Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
thường xuyên, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
32. Nguyễn Thu Quyên (2010), “Tổ chức cho HS thuyết trình – một biện pháp quan trọng
để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thơng”, Tạp chí Giáo
dục (233).
33. Trịnh Đình Tùng (cb) (2010), Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn lịch sử lớp
10, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
34. Vũ Ánh Tuyết (2009), “Phát triển năng lực thực hành cho HS trung học phổ thông
trong dạy học lịch sử”, Tạp chí Giáo dục (216).
35. Phạm Hồng Việt (2009), Dạy – học lịch sử 10 qua các nhân vật (Phần lịch sử thế
giới), Nxb Giáo dục Việt Nam.
36. M.Alecêep – V.Onhisuc – M.Crugliăc – V.Zabôtin – X.Vecxcle (1976), Phát triển tư
duy học sinh, Nxb Giáo dục.
37. Charles Maccio (4/1999), Thực hành diễn đạt (Tài liệu dịch), Dự án Việt – Bỉ, hỗ trợ
học từ xa, Bản đánh máy lưu tại Thư viện trường Đại học sư phạm Hà Nội.
38. H.V. Savin (1978), Giáo dục học, Nxb Giáo dục.
39. Iakovlev (1983), Phương pháp và kĩ thuật lên lớp trong trường phổ thơng, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
40. I.F.Kharlamốp (1978), Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào, Nxb Giáo

dục, Hà Nội
41. I.Ia. Lecne (1982), Phát triển tư duy học sinh trong dạy học lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
42. M.A.Đanilôp & M.N. Xcatkin (1980), Lý luận dạy học ở trường phổ thông, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
43. M.N.Sacđacov, (Phan Ngọc Liên, Phạm Hồng Việt, Dƣơng Đức Niệm dịch) (1970),
Tư duy của học sinh, Nxb Giáo dục, Hà Nội
44. N.A.Êropheep (1981), Lịch sử là gì? Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. N.G. Đairi, ( Đặng Bích Hà - Nguyễn Cao Luỹ dịch) (1980),Chuẩn bị giờ học lịch sử
như thế nào?, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. T.A.Ilina (1973), Giáo dục học tập 2, Nxb Giáo dục.



×