Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận môn lịch sử báo chí sự ra đời và phát triển của tờ báo “dân chúng”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707.39 KB, 32 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ BÁO CHÍ

SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỜ BÁO “DÂN CHÚNG”.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
NỘI DUNG BÁO DÂN CHÚNG...................................................................3
Chương I LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỜ BÁO DÂN
CHÚNG.........................................................................................................3
1.Hoàn cảnh ra đời......................................................................................3
2. Các giai đoạn phát triển của tờ báo Dân chúng......................................6
3. Đặc điểm của tờ báo..............................................................................12
4. Hình thức tờ báo....................................................................................14
5. Nội dung tờ báo.....................................................................................14
Chương II.BÁO DÂN CHÚNG TRONG CÁCH MẠNG VÀ VẬN
DỤNG VÀO THỰC TIỄN NỀN BÁO CHÍ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI....23
1. Báo Dân chúng trong Cách mạng.........................................................23
2. Báo Dân chúng và vận dụng vào thực tiễn nền báo chí Việt Nam hiện
đại..............................................................................................................25
KẾT LUẬN....................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................30


LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn 1925 - 1945, báo chí cách mạng Việt Nam mà đại diện
là báo chí của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ.
Dòng báo cách mạng này đã gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực
dân, đòi quyền độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam, được coi là vũ khí tư
tưởng - lý luận của cách mạng Việt Nam, giáo dục lòng yêu nước, nâng cao


nhận thức chính trị của quần chúng. Có thể thấy báo chí cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã góp phần quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng của dân tộc.
Báo chí đã phát triển mạnh mẽ trong những năm 1936-1939. Một nét
đặc biệt của giai đoạn này là báo chí cách mạng chiếm lĩnh trận địa công khai.
Nếu như giữa năm 1936 trở về trước, báo chí cách mạng xuất bản bí mật,
khơng hợp pháp, tuyệt đối cấm lưu hành trong nước, không kể báo tiếng Việt
hay tiếng Pháp, thì đến thời kỳ này đã xuất bản công khai ở cả ba miền: Bắc,
Trung, Nam. Nội dung cơ bản của báo chí cách mạng giai đoạn 1936-1939
gắn liền với phong trào vận động dân chủ, đồng thời tuyên truyền cho chủ
nghĩa Mác- Lê Nin.
Ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã đánh giá cao vai trị
của báo chí và chủ trương kêu gọi tự do báo chí. Năm 1938 có thể coi là đỉnh
cao của phong trào Dân chủ ở Đông Dương với sự ủng hộ mạnh mẽ của Mặt
trận Bình dân Pháp nên đã giành được nhiều thắng lợi trên nhiều mặt, trong
đó báo chí có vai trị rất quan trọng. Cùng thời điểm đó, ngày 22-7-1938, Báo
Dân chúng số 1 chính thức ra đời, bước lên Vũ đài chính trị cơng khai ở Sài
Gòn, lên tiếng chiến đấu và bảo vệ quyền lợi cho nhân dân lao động Đông
Dương.
Từ những số đầu tiên, Báo “Dân chúng” đã là bức tranh sống động
phản ánh trung thực về đời sống tối tăm của dân thuộc địa và tình hình chính
trị- xã hội rối ren, phức tạp ở Đông Dương, thông tin nhanh nhạy về tình hình
1


thế giới trong “đêm trước” chiến tranh thế giới lần thứ hai, nên đã được đón
nhận nồng nhiệt. Vấn đề thời sự sôi động vè vận mệnh dân tộc trước diễn biến
chính trị trên thế giới được báo đặc biệt quan tâm. Mỗi bài viết đều đứng trên
lập trường chính trị, “nghệ thuật vị nhân sinh” của Đảng. Dân chúng là đại
biểu trung thành nhất cho tiếng nói của quần chúng nhân dân. Đồng thời cổ

vũ, động viên họ dũng cảm đi đầu trogn cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do
cho dân tộc và giai cấp.
Giản dị, chân thật và gần gũi trong cách thể hiện, Báo đã góp phần làm
cho tiếng Việt ngày càng trở nên phong phú, trong sáng, Dân chúng còn là
cầu nối giữa lý luận Mác - Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng Việt
Nam, giữa Đảng Cộng sản và người lao động, giữa nhân dân Việt Nam với
nhân dân Đông Dương và các lực lượng tiến bộ thế giới… Điều đó làm cho
Dân chúng thực sự trở thành cơ quan ngôn luận của nhân dân Đông Dương, là
phát súng tấn công mạnh mẽ vào chủ nghĩa thực dân Pháp cũng như âm mưu
xâm lược của phát-xít Nhật ở Đơng Dương những năm 1936-1939. Trong
hơn một năm, Báo Dân chúng đã giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh
địi tự do ngơn luận và có một sứ mệnh lịch sử trong cuộc đấu tranh tư tưởng
của Đảng, đóng góp những trang rực rỡ trong lịch sử báo chí cách mạng Việt
Nam. Đây là một trong những tờ báo tiêu biểu, ghi dấu son trong lịch sử báo
chí cách mạng Việt Nam.
Nghiên cứu về lịch sử Báo chí Việt Nam để thấy được những bài học
giá trị, những kinh nghiệm sáng tạo của thế hệ những người làm báo đi trước,
họ đã tác nghiệp trong những hồn cảnh đặc biệt, vơ cùng khó khăn, thiếu
thốn nhưng rất thành công. Để làm rõ hơn về những giá trị, đóng góp của Báo
chí Cách mạng Việt Nam giai đoạn trước năm 1945, em chọn tờ báo “Dân
chúng” làm đề tài tìm hiểu, nghiên cứu cho bài Tiểu luận kết thúc Mơn học:
Lịch sử Báo chí Việt Nam.

2


NỘI DUNG BÁO DÂN CHÚNG
Chương I
LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỜ BÁO DÂN CHÚNG.
1.Hoàn cảnh ra đời.

Ngày 29.7.1881 Chính phủ Pháp đã ra sắc lệnh thủ tiêu quyền tự do
báo chí ở Nam Kỳ, trước hết là báo chí xuất bản bằng tiếng Việt! Sắc lệnh
ngày 30.12.1898 quy định:
“Tất cả những tờ báo in bằng quốc ngữ (Việt Nam), bằng Hoa ngữ, hay
bằng bất cứ một thứ tiếng nào khác ngồi tiếng Pháp phải có sự cho phép của
quan Toàn quyền sau khi Toàn quyền hội ý với ban thường trực Thượng Hội
đồng Đông Dương. Sắc luật giao cho viên Tồn quyền có quyền cho phép hay
khơng cho phép, làm khó dễ hay cấm chỉ các báo chí tiếng Việt. Làm trái lại
sắc luật thì tờ báo phải ra tồ tiểu hình.
Điều 5 và điều 6 của sắc luật 1898 còn chứa đựng những biện pháp
nhằm ngăn cấm những vụ “phỉ báng” những tờ báo Pháp chống lại chính
quyền của họ. Bởi vì, họ cho rằng như vậy sẽ tạo cho những người Á Châu có
những cơ hội tốt để "vùng dậy" đấu tranh.
Chính vì sự hà khắc này mà báo giới và các nhà yêu nước liên tục đấu
tranh địi tự do báo chí, tự do ngôn luận. Càng đấu tranh bọn Pháp càng đàn
áp dữ dội. Chúng tịch thu báo, theo dõi, khủng bố, bắt giam… Những người
làm báo đành phải co cụm, thúc thủ!
Trước tình hình căng thẳng như thế, nhằm xúc tiến việc tuyên truyền
đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc, Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương đã tiên phong đẩy mạnh cơng cuộc đấu tranh cho tự do báo chí. Đảng
đã dũng cảm trực diện với quân Pháp trên mặt trận văn báo (báo chí và văn
học): hiên ngang xuất bản công khai tờ báo "Dân chúng" bằng tiếng Việt mà
không xin phép quan Toàn quyền (chỉ báo cho họ biết đúng theo luật của
Quốc hội nước Pháp). Vì thế, khi Báo ra, chính quyền thực dân buộc phải làm
ngơ!
3


Lúc bấy giờ cuộc đấu tranh cho tự do báo chí đã dấy lên mạnh mẽ khắp
3 Kỳ, tạo được tiếng vang ở Pháp, nên thực dân không thể không nhượng bộ.

Ngày 30.8.1938 chính quyền Pháp buộc phải ban hành nghị định tự do báo
chí ở Nam Kỳ. Trong lúc, Trung ương Đảng và các Xứ ủy chủ trương vừa tiếp
tục xuất bản những tờ báo tiếng Pháp (do không phải xin phép) như: Notre
voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), Enavant (Tiến lên), vừa
tìm mọi cách cho ra đời những tờ báo tiếng Việt (cơ quan ngơn luận của Đảng
và các tổ chức, đồn thể). Việc làm đó nhằm mở rộng thơng tin trong các tầng
lớp nhân dân, vừa gây tiếng vang lớn cho toàn xứ Đông Dương. Ở Bắc kỳ
xuất hiện thêm một số tờ báo mới như: Đời nay, Tin tức, Thế giới…; Trung
kỳ có Nhành lúa, Dân, Sơng Hương tục bản…; Nam kỳ có báo Lao động,
Mới, Phổ thơng… Chớp thời cơ trong lúc báo chí đang “nở rộ” như vậy,
Trung ương Đảng đã kêu gọi: “Các Đảng bộ quyên góp tiền cho Đảng để ra
một tờ báo có tính chất và ảnh hưởng khắp toàn xứ và xuất bản nhiều kỳ, đặc
biệt thông tin tin tức về thế giới và trong xứ để đối phó kịp với thời cuộc cho
kịp”.
Sau 3 tháng chuẩn bị khẩn trương, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng
Bí thư Hà Huy Tập, tiếp đó là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, ngày 22-7-1938,
báo Dân chúng số 1 chính thức ra đời, bước lên vũ đài chính trị cơng khai ở
Sài Gịn, lên tiếng chiến đấu và bảo vệ quyền lợi cho nhân dân lao động Đông
Dương. Thời gian đầu, (từ số 1 đến số 33), tòa soạn Báo Dân chúng đặt tại số
43 đường Hamelin (nay là đường Lê Thị Hồng Gấm), phường Nguyễn Thái
Bình, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, sau chuyển đến 51E đường Colonel
Grimaud (nay là đường Phạm Ngũ Lão). Sự ra đời của báo Dân chúng là nét
son quan trọng trong trang sử truyền thống của nền báo chí Cách mạng Việt
Nam.

4


Báo Dân Chúng, số 1 ra ngày 22/7/1938.
Dân chúng là tờ báo của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (nhưng

xưng là: “cơ quan của lao động và dân chúng Đông Dương”). Người sáng lập,
trực tiếp chỉ đạo và viết nhiều cho Dân chúng là Tổng bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Nguyễn Văn Cừ.

Ảnh đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ và là Tổng biên tập tờ báo
Dân chúng của Đảng
5


Sau khi báo Dân chúng ra đời ngày 22.7.1938, một số báo của các đồn
thể cách mạng theo đó đã tiếp tục xuất bản, khơng xin phép nhà cầm quyền.
Đó là tờ Lao động, cơ quan của Tổng Công hội Nam Kỳ, số 1 ra ngày
29.11.1938; báo Mới, cơ quan của Đoàn thanh niên dân chủ Nam Kỳ, số 1 ra
ngày 1.5.1939.
2. Các giai đoạn phát triển của tờ báo Dân chúng.
Báo Dân Chúng tồn tại từ ngày 22-7-1938 đến 30-8-1939, ra được 81
số (có tài liệu cho rằng 80 số). Những nội dung được phản ánh, trình bày trên
báo giúp chúng ta hiểu được đầy đủ không chỉ diện mạo, mà cả chiều sâu của
xã hội Việt Nam những năm 1938-1939. Qua báo Dân Chúng ta còn thấy rõ
đường lối, sự lãnh đạo cách mạng của Đảng nói chung và chỉ đạo báo chí
trong phong trào dân chủ nói riêng. Trong những năm 1936-1939, báo Dân
Chúng thực sự là một hiện tượng độc đáo trong lịch sử báo chí Việt Nam nói
chung và báo chí cách mạng nói riêng. Tờ báo này là cơ quan ngôn luận của
Đảng Cộng sản Đông Dương, được xuất bản công khai hợp pháp, khơng cần
xin phép trước, đã buộc chính quyền thuộc địa phải thừa nhận, trong khi Đảng
lại chưa hoạt động được công khai

Báo Dân Chúng - Cơ quan của Lao động và Dân chúng Đơng Dương,
xuất bản tại Sài Gịn năm 1938-1939.
6



Dân Chúng là tờ báo giữ vai trò tiên phong trong phong trào đòi các
quyền tự do dân chủ, mà trước hết là quyền tự do báo chí. Q trình đấu tranh
địi tự do báo chí trên Dân Chúng có thể chia thành hai giai đoạn chính:
Giai đoạn 1: Giai đoạn đấu tranh công khai, nửa hợp pháp và kết
quả là địi được tự do báo chí ở Nam Kỳ (từ số 1 đến số 15).
Với mục tiêu đó, ngay từ số đầu tiên, Dân Chúng đã phát động phong
trào đấu tranh địi tự do báo chí với dịng tít chữ đậm: “Trong lúc nầy… hơn
lúc nào hết toàn thể nhân dân trong nước đều muốn có tự do báo chí”. Đồng
thời báo cịn đăng bài bình luận dài nhan đề “Tự do xuất bản báo chí. Luật 29
Juillet 1881”. Bài báo này dẫn chứng: “Đạo luật ngày 29 Juillet 1881 mà
người ta hay gọi là Luật thuộc về báo giới” đã được Nghị viện Pháp thông
qua, công nhận nhân dân Pháp được hưởng hồn tồn quyền tự do ngơn luận
và tự do xuất bản báo chí. Tiếp đó bài báo trích dẫn “Điều khoản thứ năm của
đạo luật ấy đã tuyên bố: Tất cả các nhật báo hay các phẩm trước thuật có kỳ
hạn sau khi đã nạp lời khai chiếu theo điều khoản thứ 7 đã định, đều được
xuất bản khỏi phải xin phép trước hay là đóng tiền quí”. Và “điều khoản 69…
khẩn khoản tuyên bố: Luật này sẽ thi hành ở các thuộc địa. Và nó cũng được
chánh thức ban hành ở Nam Kỳ do nghị định đề ngày 27 Septembre 1881”.
Trong bài, Dân Chúng lý luận một điều hiển nhiên là “nước Pháp chiếu theo
Hòa nghị đã hoàn toàn được hưởng tự do xuất bản từ năm mươi sáu năm nay.
Huống chi thổ nhơn An Nam, sanh trưởng, cư trú tại Nam Kỳ là “Phờ-răn-xe”
kia mà!”. Tiếp đó, Dân Chúng đưa ra một dẫn chứng về sự vi phạm đạo luật
trên thông qua Huấn lệnh ngày 30 Décembre 1898 và khẳng định Huấn lệnh
này khác hẳn với tôn chỉ của luật 1881, đã thủ tiêu điều khoản 5 của luật 1881
và cho rằng Huấn lệnh mà có thể thủ tiêu một đạo luật thì cịn gì là dân chủ?
Cịn gì là nhân quyền?
Cuối bài báo, mượn lời của nhà báo Diệp Văn Kỳ, báo Dân Chúng bày
tỏ hy vọng Thống đốc Nam Kỳ Pagès, Toàn quyền Brévié sẽ chính thức tuyên

bố “từ đây dân Nam Kỳ được hồn tồn tự do xuất bản báo chí chiểu theo
7


điều khoản của luật năm 1881” và khẳng định rằng hy vọng đó cũng là “hy
vọng chung của dân xứ này”.
Từ số 2, báo có thêm “Nhân dân xứ nầy đối với tờ Dân Chúng”, chuyên
trích đăng những lời động viên cổ vũ của quần chúng nhân dân đối với tờ báo
nói riêng và phong trào địi tự do báo chí nói chung. Đứng trước phong trào
địi tự do dân chủ ở Pháp và phong trào đấu tranh đòi tự do báo chí mà Dân
Chúng đi tiên phong đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, Tổng thống Pháp A.
Lơbrông đã ban hành sắc lệnh cho thực thi tự do báo chí ở Đơng Dương vào
ngày 30-8-1938. Ngày 7-10-1938, Tồn quyền Đông Dương Brévié lại ra
nghị định cho riêng: Nam Kỳ được hưởng quyền tự do báo chí theo sắc lệnh
của Tổng thống.
Như vậy chỉ sau hơn một tháng ra đời và phát động phong trào địi tự
do báo chí, Dân Chúng đã giành lại được quyền tự do báo chí mà chính quyền
thuộc địa ngăn cấm trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Tuy nhiên, ta mới chỉ
giành được quyền tự do báo chí ở Nam Kỳ, cịn phải tiếp tục đấu tranh thực
hiện ở Bắc và Trung Kỳ. Tự do báo chí đã đem lại cho Đảng một vũ khí lợi
hại, chống lại sự áp bức của chính quyền thực dân, đòi quyền lợi cho nhân
dân. Từ đấu tranh địi tự do báo chí tiến tới địi tự do ngôn luận, tự do hội họp.
Ra được 8 số, thấy nhà cầm quyền “làm ngơ” trước sự xuất bản không
xin phép của báo, nên đến số 9, Dân Chúng quyết định khuếch trương hơn và
kể từ số 10 thì khơng cịn lo lắng với những bài báo “chưa nói được hết lời”
như những số trước.
Đến số 15 ra ngày 10-9-1938, tin vui thắng trận đã được Dân Chúng
đăng nổi bật lên trang nhất: “Từ đây nhân dân Đông Dương được hưởng hồn
tồn luật tự do báo chí”. Ngay sau tin thắng trận, theo Hồi ký “Chúng tôi làm
báo” của Nguyễn Văn Trấn thì “Ở trong viết ra một bài phi lộ thật thay cho

lời phi lộ dừa điếc ở số báo đầu”. Với tiêu đề “Mấy lời cùng độc giả” bài phi
lộ giới thiệu sự ra đời của Dân Chúng, mục đích và tơn chỉ của tờ báo

8


Giai đoạn 2: Giai đoạn đấu tranh công khai, hợp pháp, tiếp tục địi
tự do báo chí trên cả nước và Đông Dương.
Từ số 16 đến số cuối cùng là thời kỳ hoạt động công khai hợp pháp của
báo Dân Chúng vì quyền tự do báo chí đã được ban hành ở Nam Kỳ. Dân
Chúng tiếp tục đòi tự do báo chí cho Bắc Kỳ, Trung Kỳ và tiến tới địi tự do
báo chí cho tồn xứ Đơng Dương: “Chúng ta cần phải đấu tranh cho được luật
tự do báo chí thi hành khắp xứ Đơng Dương” (Dân Chúng, số 30, ngày 16-111938). Đặc biệt, Dân Chúng đã nhận thức được một vấn đề mang tầm vóc
thời đại: “Chúng tơi vẫn luôn luôn tuyên bố rằng ở chế độ tư bản nầy, một tự
do dân chủ nào mà nhân dân chinh phục được cũng chỉ là tương đối và còn rất
eo hẹp. Chỉ có đến chủ nghĩa xã hội mới hồn tồn được tự do mà thơi”, mà
cụ thể ở đây là quyền tự do báo chí (Dân Chúng, số 30).

Báo "Dân Chúng"đã ghi lại chiến cơng có ý nghĩa lịch sử, mở đường
cho tự do báo chí
Khơng cấm được báo Dân Chúng xuất bản thì thực dân Pháp cấm báo
không được bày bán, tàng trữ, lưu hành ở Bắc và Trung Kỳ, do đó đã làm ảnh
9


hưởng khá lớn đến số lượng báo phát hành, đồng thời lấy cớ báo đăng những
bài có tư tưởng phản động, chính quyền thực dân liên tục tiến hành khám xét,
bắt bớ những người quản lý báo nhằm gây khó khăn cho báo. Vượt lên trên
những khó khăn đó, báo Dân Chúng đã hồn thành xuất sắc nhiệm vụ của
mình. Với bài “Phản đối việc cấm lưu hành báo ở Trung Kỳ”, Dân Chúng

vạch trần chính sách phản động về báo chí của chính phủ Trung Kỳ và chỉ
trích một chính sách bóp nghẹt dư luận như thế khơng hợp thời đối với sự tiến
bộ và đã lớn tiếng kêu gọi quần chúng can thiệp, phản đối Nghị định trên của
chính phủ Trung Kỳ và yêu cầu thủ tiêu Nghị định ấy.
Từ đấu tranh địi tự do báo chí, Dân Chúng tiến lên địi tự do ngơn luận.
Có tự do báo chí mà khơng có tự do ngơn luận thì tính chất sắc bén và mạnh
mẽ của báo chí khơng cịn nữa. Nhà báo cũng khơng thể phản ánh một cách
trung thực cuộc sống bị áp bức, bóc lột của nhân dân và bênh vực quyền lợi
của người dân lao động được. Vấn đề này được báo Dân Chúng đưa ra trong
số 12 (ngày 31-8-1938) trong mục “Quyền hạn của nhà làm báo xứ nầy”. Bài
này viết “Quyền hạn của nhà làm báo xứ nầy hết sức hẹp hòi? Hay là nhà cầm
quyền ở xứ nầy có quyền hạn vơ tận?”. Đồng thời Dân Chúng cịn cơng khai
chống bọn Tờrốtkít đang rêu rao “Tự do báo chí là tự do bn bán nhật trình”
nhằm cố ý che đậy tính chất của tự do báo chí. Trong báo Dân Chúng số 76
(ngày 2-8-1939), tác giả Nguyễn Văn Trấn viết: “Ai cũng đã biết rằng ở xứ
nầy (Nam Kỳ), tuy đã có tự do xuất bản nhưng quyền hạn và hình thức tự do
ngôn luận của các nhà viết báo luôn luôn vẫn bị hăm dọa và xâm phạm với
những hình luật về báo chí hết sức gắt gao”. Dân Chúng cịn cổ vũ phong trào
Hội nghị báo giới toàn quốc, nhằm tranh thủ đoàn kết các nhà báo tiến bộ
cùng đấu tranh địi tự do báo chí, tự do ngơn luận.
Báo Dân chúng đấu tranh quyết liệt chống các phe nhóm Trosky với
bài viết nổi bật “Tơrốtkít đối với tự do, hịa bình, cơm áo” đăng trên 3 số báo
25, 26, 27, phát hành vào các ngày 15,19,22/10/1938.

10


Sau khi Anh, Pháp ký Hiệp ước Munich ngày 30/9/1938 đầu hàng phát
Đức, Đảng ta ra tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời
cuộc và đã đăng toàn văn trên báo Dân chúng số 28, ngày 29/10/1938.

Ngày 7/3/1939: Thực dân Pháp thẳng tay đàn áp báo chí cách mạng
tiến bộ bằng vụ khủng bố báo Dân chúng.
Ngày 10/3/1939 Trung ương Đảng đăng tải Thông báo khẩn cấp nhằm
tố cáo thực dân Pháp “Chính phủ khủng bố từ Nam chí Bắc, kịch liệt lên án
vụ khủng bố Dân chúng” và kêu gọi “các đảng phái cần phải tổ chức nhiều
cuộc mít tinh quần chúng phản đối khủng bố để tiêu biểu lực lượng quần
chúng xứ này ủng hộ Đảng ta và tờ báo Dân chúng...Đó là yêu cầu của dân
chúng để phịng thủ Đơng Dương”.
Ra đời và họt động được 13 tháng, ngày 7/9/1939, khi cuộc Chiến tranh
Thế giới lần thứ 2 sắp bùng nổ, nhà cầm quyền Pháp tại Sài Gịn đã ra lệnh
đóng cửa báo Dân Chúng, tịch thu toàn bộ tài sản của báo và cho mật thám
truy lùng Ban biên tập cũng như những người đã từng là cộng tác viên của
báo.
Vượt qua những khó khăn về tài chính, vượt qua sự kiểm duyệt, khủng
bố của chính quyền thực dân. Với 81 số phát hành, báo Dân Chúng đã phải 4
lần thay đổi vị trí người quản lý để “qua mắt” mật thám thực dân Pháp liên
tục tìm cách đe dọa, khủng bố, truy lùng rất gắt gao. Từ số đầu tiên đến số 43,
đồng chí Dương Trí Phú quản lý; từ số 44 - 52, đồng chí Trần Văn Kiết quản
lý; từ số 53 - 69 đồng chí Huỳnh Văn Thanh quản lý; từ số 70 - 80 đồng chí
Hồng Hoa Cương quản lý. Việc lựa chọn nhà in cũng phải thay đổi từ nhà in
Sati đến nhà in Bảo Tồn, sau cùng là nhà in Xưa & Nay, nhằm đảm bảo sự
“an tồn” và phát hành “đúng kỳ hạn” đến với cơng chúng.
Với sự ra đời của báo "Dân Chúng" đã đánh dấu một mốc son trong
lịch sử và sự nghiệp báo chí cách mạng của Đảng ta trước Cách mạng Tháng
8/1945, tờ báo công khai đầu tiên của Đảng cộng sản Đơng Dương, mang
tiếng nói của nhân dân và Đảng cộng sản Đông Dương. Ngày 16/11/1988, di
11


tích trụ sở của báo "Dân chúng" đã được Bộ Văn hóa-Thơng tin (tên cũ) cơng

nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia, tại trung tâm TP. Hồ Chí Minh.
3. Đặc điểm của tờ báo.
Đội ngũ những người làm báo: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chỉ đạo
trực tiếp và tham gia xây dựng tờ báo. Thành phần Ban Biên tập của báo là
các đồng chí trí thức có tầm am hiểu sâu rộng trong Đảng tại địa bàn Sài Gòn,
như: Trần Văn Kiết, Lê Văn Kiệt, Nguyễn Văn Kỉnh, Bùi Văn Thủ, Hoàng
VănThanh, Hoàng Hoa Cương, Nguyễn Văn Trấn... Điểm đặc biệt của Báo
Dân chúng là hầu hết những bài viết trên mặt báo đều không ký tên tác giả
hoặc nếu có chỉ là những ký tự viết tắt (ví dụ như: D.C. Lin - bút danh của
Nguyễn Ái Quốc; Trí Thành - bút danh của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ…),
vì các tác giả của nó là những người cộng sản, những người đã mang án tù
đày, khổ sai chung thân. Chính điều đó đã ảnh hưởng rất lớn về giá trị tư
tưởng và uy tín của tờ báo. Báo "Dân chúng" đã khôn khéo, dũng cảm chèo
lái cho tờ báo trụ vững trong thời gian dài 13 tháng, xuất bản được 81 số.
Báo Dân chúng- cơ quan chủ quản là Đảng cộng sản Đông Dương. Tôn
chỉ mục đích là chủ trương phất cao hơn nữa ngọn cờ Mặt trận Dân chủ Đơng
Dương thơng qua những hình thức hoạt động phong phú, đa dạng, phát triển
mạnh cả bề rộng lẫn chiều sâu, nhằm thu hút quần chúng và đẩy mạnh các
phong trào đấu tranh. Tờ báo đại diện tiêu biểu cho bản lĩnh, khí phách cũng
như phong cách làm báo cách mạng. Mỗi bài viết đều đứng trên lập trường
chính trị, “nghệ thuật vị nhân sinh” của Đảng. Dân chúng là đại biểu trung
thành nhất cho tiếng nói của quần chúng nhân dân, chỉ cho họ thấy con đường
cách mạng chân chính để tự giải phóng bản thân; đồng thời cổ vũ, động viên
họ dũng cảm đi đầu trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc và
giai cấp.
Ra đời một cách bất hợp pháp trước sự ngăn cấm và kiểm tra gắt gao
của chính quyền thực dân Pháp. Nhưng là tờ báo cơng khai trong thời kỳ Mặt
trận dân chủ Đông Dương. Đây là tờ báo thứ 3 của Đảng ta ra được nhiều số
nhất ở thời kỳ trước Cách mạng Tháng 8/1945.
12



"Dân chúng" cũng là tờ báo vinh dự được đồng chí Nguyễn Ái Quốc dưới danh nghĩa một nhà báo đang hoạt động ở Trung Quốc - gửi bài đăng
với nhan đề "Những sự hung tàn của đế quốc Nhựt", ký tên P.C.Lin. Bài này
được đăng tải trong ba số liên tiếp, đó là số 46 (ra ngày 21/1/1939), số 47 (ra
ngày 24/1/1939) và số 48 (ra ngày 28/1/1939), sau đó được báo "Notre Voix"
đăng lại trong hai số ra ngày 12/2 và 5/3/1939. Như vậy, báo "Dân chúng" là
một trong hai tờ báo công khai của Đảng ta lúc đó được tác giả P.C.Lin gửi
bài về đăng.
Cùng với tờ báo Le Peuple (Dân chúng) bằng tiếng Pháp, việc xuất bản
Báo Dân chúng bằng tiếng Việt là một sự cổ vũ lớn cho giới cần lao và các
tầng lớp nhân dân có tinh thần đấu tranh cho tự do dân chủ, tự do báo chí.
Tịa soạn báo Dân chúng cùng chung với báo Le Peuple (Dân chúng)
bằng tiếng Pháp tại số nhà 43 đường Hamelin ( nay là đường Lê Thị Hồng
Gấm, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Sau đó chuyển về số 51E, đường
Colonel Grimand (nay là đường Phạm Ngũ Lão- Quận 1- Thành phố Hồ chí
Minh
Tờ báo xuất bản tương đối đều, 1 tuấn 2 số, sau đó ra hàng ngày, sau lại
1 tuần 2 số. Tuy nhiên do hồn cảnh khó khăn, bị địch kiểm sốt gắt gao, vật
liệu thiếu thốn nên tờ báo phải chuyển qua nhiều địa điểm đặt trụ sở cũng như
nhiều điển in ấn.
Dân chúng trở thành tờ báo của Đảng trước năm 1945 có số lượng in
cao nhất, có nhiều bạn đọc nhất trên cả xứ Đông Dương ở thời điểm đó.
Nội dung tờ báo phong phú về loại hình và nội dung, đảm bảo được
tính thời sự và mục đích của tờ báo.
Ngôn ngữ ngắn gọn, lời văn giản dị, chân thật, dễ hiểu.
Tờ báo đã để lại nhiều kinh nghiệm q cho nhiệm vụ lãnh đạo cơng tác
báo chí cách mạng của Đảng trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội và trogn thời kỳ đổi mới hiện nay.


13


4. Hình thức tờ báo.
Dân Chúng là tờ báo in ốp-sét đẹp. Hình thức bài trí đã thể hiện quan
điểm, nội dung xuyên suốt của từ báo. Phía trên là dịng chữ to in đậm: DÂNCHÚNG. Phía dưới bên trái có dịng chữ:
TRONG LÚC NÀY…HƠN LÚC NÀO HẾT
TỰ - DO BÁO- CHÍ
Phía trên bên trái tờ báo là dịng chữ Tự-do xuất- bản báo-chí
Là tờ báo khơng định kỳ, từ số 1 đến số 12 là nửa hợp pháp, từ số 13
trở đi là hợp pháp.
Thông thường mỗi tuần báo ra hai số vào thứ tư và thứ bảy (riêng thời
gian từ số 58 đến số 64, báo ra hàng ngày, sau đó lại ra một tuần hai số).
Tờ báo có khổ báo khơng đều, từ số 1 đến số 9 in trên giấy khổ 30cm x
44,5cm. Từ số 10 đến số cuối cùng in trên giấy khổ 37cm x 54cm.
Số trang nhiều, ít của mỗi số báo cũng có thay đổi, không ổn định.
5. Nội dung tờ báo.
Trong số báo đầu tiên, Dân chúng đã đưa ra tôn chỉ, mục đích hoạt
động là: “Dân chúng nguyện làm cơ quan chung cho tất cả những ai muốn
cho xứ Đông Dương khỏi phải chìm đắm trong vịng tối tăm cùng khổ”. Đây
được coi là bước đi thành công đầu tiên của Dân chúng, mở ra sự phát triển
mới cho tờ báo mà chính quyền Pháp ở Đơng Dương khi đó khơng có lý do gì
để phản đối.
Với chủ trương phất cao hơn nữa ngọn cờ Mặt trận Dân chủ Đông
Dương thông qua những hình thức hoạt động phong phú, đa dạng, phát triển
mạnh cả bề rộng lẫn chiều sâu, nhằm thu hút quần chúng và đẩy mạnh các
phong trào đấu tranh, báo "Dân chúng" đã góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh về lý luận, tư tưởng, chống xu hướng cải lương, Tờ-rốt-kít; đồng thời là
phương tiện chuyển tải đường lối và lý luận của Đảng Cộng sản Đông Dương
trong giai đoạn mới của cách mạng.


14


Là người chỉ đạo và trực tiếp tham gia xây dựng nội dung, Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Cừ đã viết một số bài có tính chất hướng dẫn, định hướng lớn về
các nhiệm vụ của Đảng thời kỳ này. Bên cạnh việc nêu rõ nhiệm vụ "tơn chỉ
mục đích" của báo "Dân chúng", các bài viết sắc sảo của đồng chí Nguyễn
Văn Cừ cịn thể hiện rõ định hướng về cơng tác tư tưởng của Đảng, trong đó
đặc biệt nhấn mạnh đến việc phải đấu tranh giành lại quyền tự do xuất bản...
Ngay từ những số đầu tiên, Báo Dân chúng đã là bức tranh sống động
phản ánh trung thực về đời sống tăm tối của dân thuộc địa và tình hình chính
trị - xã hội rối ren, phức tạp ở Đơng Dương, thơng tin nhanh nhạy về tình hình
thế giới trong “đêm trước” chiến tranh thế giới lần thứ hai, nên đã được đón
nhận rất nồng nhiệt. Vấn đề thời sự sôi động và vận mệnh dân tộc trước diễn
biến chính trị trên thế giới được báo đặc biệt quan tâm. Nhiều bài bình luận
sắc sảo về chủ nghĩa phát-xít với nguy cơ chiến tranh đang được đăng tải, thể
hiện quan điểm của Đảng Cộng sản Đông Dương về chống chiến tranh, bảo
vệ hịa bình, ca ngợi cuộc đấu tranh của nhân dân u chuộng hịa bình trên
thế giới, trong đó Liên Xơ là nước khởi xướng. Dân chúng đã nhanh chóng
trở thành diễn đàn sắc sảo về tự do, dân chủ và nhận được sự quan tâm đặc
biệt của độc giả. Ra đời một cách bất hợp pháp trước sự ngăn cấm và kiểm tra
gắt gao của chính quyền thực dân Pháp, để tồn tại, phát triển, những người
làm báo phải có cách viết thơng minh, khéo léo để vừa che mắt được kẻ thù,
vừa tuyên truyền, cổ vũ cho phong trào cách mạng.
Nội dung các bài đăng trên báo Dân Chúng phản chiếu trung thực sinh
hoạt chính trị ở Đông Dương và trên thế giới trước thềm chiến tranh thế giới
lần thứ II, những vấn đề thời sự liên quan đến vận mạng dân tộc và thế giới,
chủ nghĩa phát xít với nguy cơ đại chiến đang tới gần và cuộc đấu tranh của
nhân dân yêu chuộng hịa bình thế giới chống chiến tranh, bảo vệ hịa bình,

địi tự do dân chủ. Bên cạnh đó, báo đăng tải nhiều bài phổ biến, giải thích
chủ trương, đường lối của Đảng trong từng thời kỳ, động viên và hướng dẫn
quần chúng tổ chức đấu tranh địi chính quyền thuộc địa thực hiện những yêu
15


cầu tự do, dân chủ, địi cơm áo, hịa bình. Báo cũng có nhiều bài địi tự do lập
các Hội ái hữu và nghiệp đoàn, tự do hội họp và biểu tình, địi thả tù chính trị,
cải cách chế độ tuyển cử, Hội đồng dân biểu và đòi cải thiện đời sống cho
nhân dân, đấu tranh chống phát - xít và phản đối chiến tranh.
Ngoài ra, Báo cũng là diễn đàn tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tuyên truyền đường lối cách mạng của Đảng trong quần chúng, tập hợp một
lực lượng chính trị hùng hậu cho thời kỳ sau đó. Dân Chúng là một trong hai
tờ báo Đảng ở trong nước thời kỳ 1936-1939 được Nguyễn Ái Quốc từ nước
ngoài gửi bài về đăng.
Trong hơn một năm hoạt động cơng khai tại Sài Gịn, báo "Dân Chúng"
đã đăng tải được nhiều bài viết có tính chiến đấu mạnh mẽ - đả kích chính
sách cai trị của đế quốc, thực dân gây nên những khổ cực, chết chóc cho nhân
dân các nước thuộc địa. Cùng với đó là những nội dung như: tuyên truyền lý
luận, đường lối quan điểm, chính sách cách mạng của Đảng ta; cổ động và tổ
chức quần chúng đấu tranh thực hiện các khẩu hiệu dân chủ và chống chiến
tranh phát xít; đấu tranh chống bọn Tờ-rốt-kít; cổ vũ cho Mặt trận Dân chủ
Đơng Dương; ủng hộ Mặt trận Dân chủ ở các nước đấu tranh chống chủ nghĩa
phát xít như Tây Ban Nha, Trung Quốc, Liên bang Xơ-Viết; ủng hộ Mặt trận
bình dân Pháp.v.v..
Báo Dân chúng đã giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh địi tự do
ngơn luận và có một sứ mệnh lịch sử trong cuộc đấu tranh tư tưởng của Đảng,
đóng góp những trang rực rỡ trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam. Dân
chúng còn là cầu nối giữa lý luận Mác - Lênin và thực tiễn phong trào cách
mạng Việt Nam, giữa Đảng Cộng sản và người lao động, giữa nhân dân Việt

Nam với nhân dân Đông Dương và các lực lượng tiến bộ thế giới… Điều đó
làm cho Dân chúng thực sự trở thành cơ quan ngôn luận của nhân dân Đông
Dương, là phát súng tấn công mạnh mẽ vào chủ nghĩa thực dân Pháp cũng
như âm mưu xâm lược của phát-xít Nhật ở Đơng Dương những năm 19361939.
16


Trong đó Tờ Báo Dân Chúng số Xuân năm 1939 gồm 28 trang, kích
thước 27 x 38cm là số thể hiện rõ nét đặc trưng của tờ báo này. Đây được coi
là tờ báo “mở cửa đột phá đánh vào chế độ báo chí của Pháp, mở ra một thời
kỳ mới: ra báo tiếng Việt không phải xin phép".
Đây cũng là tờ báo từng được in số lượng lớn, có số lên đến 1,5 vạn
bản, xuất bản không xin phép, cơng khai tại Sài Gịn, mặc nhiên chống lại các
sắc lệnh và Nghị định về xuất bản báo chí tiếng Việt. Tuy tầm ảnh hưởng của
tờ báo không lan rộng trong cả nước, nhưng đã làm cho báo chí Nam Kỳ được
tự do xuất bản sau ngày 10/8/1938 khi chính quyền thuộc địa buộc phải thừa
nhận tự do xuất bản báo chí ở Nam Kỳ.

Bìa báo Dân Chúng, số Xn 1939.
Tờ Báo Dân Chúng số Xuân trang bìa của báo nổi bật với 2 gam màu:
đỏ, tím than, trong đó vẽ hình một người đàn ơng cầm cờ đỏ đang chạy lên
phía trước, trên lá cờ có in các khẩu hiệu:
"Hịa bình - Tự do - Cơm áo
17


Mặt trận Dân chủ Thống nhứt Đông Dương muôn năm!".
Đặc biệt, phía sau người đàn ơng này là đơng đảo các tầng lớp đang
biểu tình theo khẩu hiệu in trên lá cờ mà người đàn ông đang kêu gọi.
Trong số báo này, có nhiều chun mục như: Tình hình thế giới, văn

hóa nghệ thuật (phim truyện, thơ, văn chương), chuyên mục bình luận về các
vấn đề tơn giáo, xã hội, địi ân xá chính trị phạm, dừng hành động khủng bố
và các chuyên mục quảng cáo. Trong mục Nhắc lại chuyện cũ, bàn qua
chuyện mới lược lại những vấn đề trên thế giới năm vừa qua, tình hình kinh
tế, chính trị của các nước tư bản; Tình hình Đơng Dương từ 1938 - 1939 về
kinh tế, chính trị hay những vụ cải cách thuế má dật lùi. Về kinh tế "Năm
1938 là năm mà nhà băng Đông Dương và bọn đại tư bổn đầu cơ phát tài,
năm mà quảng đại quần chúng bị thua thiệt, bị khổ sở" (trang 5).

Bài viết của Nhà báo Trần Huy Liệu với bút danh Hải Khách trên báo
Dân Chúng
Cịn về chính trị "Dựa vào lực lượng tranh đấu của dân chúng đòi tự do
báo chí, tự do ngơn luận, căn cứ Đạo luật 1881 về tự do báo chí, những người
18



×