Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận môn lịch sử báo chí việt nam tìm hiểu về nam phong tạp chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.19 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ BÁO CHÍ
TÊN TIỂU LUẬN: TÌM HIỂU VỀ NAM PHONG TẠP CHÍ


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU...................................................................................................2
CHƯƠNG I: SỰ PHÁT TRIỂN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NAM PHONG
TẠP CHÍ............................................................................................................3
I. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NAM PHONG TẠP CHÍ.................................3
1.1. Bối cảnh ra đời.....................................................................................3
1.2. Đội ngũ tác giả......................................................................................4
1.3. Sự phát triển của Nam Phong tạp chí...................................................6
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA NAM PHONG TẠP CHÍ.........................................10
2.1. Thể loại chủ yếu..................................................................................10
2.1.1. Du ký................................................................................................10
2.1.2. Truyện ngắn......................................................................................12
2.1.3. Nghiên cứu lý luận và phê bình văn học..........................................13
2.2. Nội dung..............................................................................................15
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH SỐ BÁO TẾT CỦA NAM PHONG TẠP
CHÍ SỐ XUÂN MẬU NGỌ 1918...................................................................17
CHƯƠNG III: VAI TRÒ, Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CỦA NAM PHONG TẠP CHÍ.......................................................................20
I. VAI TRỊ CỦA NAM PHONG TẠP CHÍ ĐỐI VỚI VĂN HỌC..........20
II. Ý NGHĨA CỦA NAM PHONG TẠP CHÍ............................................21
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA NAM PHONG TẠP CHÍ ĐỐI VỚI
BÁO CHÍ HIỆN ĐẠI........................................................................................23
KẾT LUẬN......................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................25

P


PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

2


LỜI NĨI ĐẦU
Sau cuộc chiến “bình định” bằng súng đạn (từ 1858 đến 1897), thực
dân Pháp bắt đầu chuyển sang tấn cơng nước ta trên mặt trận văn hố. Thời kì
1865 - 1945 đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của báo chí Nam Kỳ với sự nở
rộ của nhiều tờ báo viết bằng chữ Pháp, chữ quốc ngữ, chữ Hán kết hợp chữ
quốc ngữ.
Ở Bắc Kỳ, do một vài yếu tố khách quan, sự hình thành và phát triển
của báo chí diễn ra chậm hơn. Tờ Đại Việt Tân Báo là tờ báo quốc ngữ đầu
tiên xuất bản ở Bắc Kỳ năm 1905, rồi tờ Đăng Cổ Tùng Báo là diễn đàn kêu
gọi canh tân của biên tập viên trẻ Nguyễn Văn Vĩnh và cơ quan ngôn luận của
hội “Đông Kinh Nghĩa Thục” (03-11/1907) với nhiều bài báo mang tính chính
trị và chống Pháp. Rồi tiếp theo là tờ Trung Bắc Tân Văn, Đơng Dương Tạp
Chí (1913 - 1916), Nam Phong Tạp Chí (1917 - 1934).
Đặc biệt, tờ Nam Phong Tạp Chí do Phạm Quỳnh làm chủ bút đã đóng
vai trị quan trọng như một “bách khoa thư” sống động; cung cấp, phân tích
và khái qt hóa các tư tưởng học thuật Đông Tây, kim cổ, nhằm đem tới cho
nhiều đối tượng bạn đọc lúc bấy giờ những tri thức từ căn bản tới chuyên sâu
trong các lĩnh vực văn hóa đa dạng, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức của
người Việt về dân tộc mình và thế giới chung quanh. Nhiều bài viết trong tạp
chí cho đến nay vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị “khai dân trí” của nó, do đó
thường được nhiều trí thức tìm tới để soi chiếu các vấn đề của xã hội đương
đại. Nam Phong tạp chí đã góp phần quan trọng đưa nền văn học nghệ thuật
của Việt Nam hòa nhập với nền văn học nghệ thuật hiện đại của thế giới, nhất
là của văn học nghệ thuật Pháp, và góp phần đáng kể vào sự phát triển của
văn học nước nhà.

Vì vậy em xin chọn đề tài tiểu luận Tìm hiểu về Nam Phong tạp chí để
hiểu rõ hơn về q trình hình thành và phát triển, qua đó cho thấy vai trò, ý
nghĩa và những kinh nghiệm rút ra từ Nam Phong tạp chí cho nền báo chí
hiện đại.

P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

3


Do kiến thức cịn hạn chế, trong q trình thực hiện khơng tránh khỏi
sai sót. Rất mong nhận được sự góp ý của cơ và các bạn đọc để bài làm hoàn
chỉnh hơn.
CHƯƠNG I. SỰ PHÁT TRIỂN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA
NAM PHONG TẠP CHÍ
I. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NAM PHONG TẠP CHÍ
1.1. Bối cảnh ra đời
Xã hội Việt Nam trước khi Tạp chí Nam Phong ra đời là một thời kỳ có
nhiều biến đổi sâu sắc về lịch sử chính trị, văn hóa, giáo dục.
Năm 1904, gần như cùng một lúc xuất hiện hai phong trào Đông Du và
Duy Tân. Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo. Phong trào Duy
Tân do Phan Chu Trinh đề xướng. Cả hai phong trào cuối cùng đều bị Pháp
dẹp năm 1908 sau các cuộc biểu tình chống thuế của dân chúng miền Trung
và cuộc đầu độc lính Pháp ở Hà Nội xảy ra năm 1908.
Tháng 4 năm 1913, Việt Nam Quang phục Hội đã tổ chức hai cuộc tấn
công tại Hà Nội, đều bị Pháp triệt tiêu ngay.
Năm 1914, Đại chiến Thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Người Việt Nam
phải chia sẻ gánh nặng chiến tranh cùng với Pháp. Thanh niên trẻ bị đơn qn
bắt lính phải tham chiến với Pháp ở châu Âu.

Nam kỳ là thuộc địa nên sự hịa hợp văn hóa cũng sớm hơn. Tại Trung
kỳ và Bắc kỳ, phong trào Duy Tân do Phan Chu Trinh đề xướng từ năm 1905,
kêu gọi cải cách văn hóa, được giới trí thức cấp tiến hưởng ứng mạnh mẽ.
Thời điểm này là thời điểm chữ Nho, văn tự chính thức của triều đình Huế sử
dụng qua nhiều thế kỷ sắp bị thay thế bằng chữ Quốc ngữ. Thời kỳ này hàng
loạt báo chí bằng chữ Quốc ngữ ra đời ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
Năm 1915, kỳ thi Hương tại Nam Định được coi như kỳ thi Nho học
cuối cùng ở Bắc kỳ. Riêng ở Trung kỳ, các kỳ thi Hương năm 1918 là tận số
và thi Hội năm 1919 mới là lần cuối.

P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

4


Tạp chí Nam Phong đã xuất bản bằng hai loại chữ, chữ Quốc ngữ và
chữ Nho, dung hòa người Việt trên con đường hịa nhập văn hóa Á - Âu;
Phạm Quỳnh đã kính cáo bạn đọc tại số đầu tiên ra ngày 1 tháng 7 năm 1917.
Việc thành lập tạp chí Nam Phong là chủ trương của chính phủ Liên
bang Đơng Dương do tồn quyền Albert Sarraut đề xướng với mục tiêu đẩy
mạnh vai trị văn hóa và chính trị của nhà nước Bảo hộ. Kinh phí của báo là
do chính phủ trang trải. Cùng đứng tên là Giám đốc Sở Mật thám Đông
Dương Louis Marty.
Đồng thời với việc cho ra báo Nam Phong ở ngồi Bắc thì ở Nam Kỳ
Toàn quyền Sarraut cũng cho phát hành báo Tribune Indigène cũng một mục
đích nhưng khác với tờ Nam Phong in bằng tiếng Việt, tờ Tribune
Indigène chỉ dùng tiếng Pháp.
1.2. Đội ngũ tác giả
Louis Marty, Giám đốc Phịng An ninh chính trị của phủ Tồn quyền

Đơng Dương là người đứng ra sáng lập tạp chí, Phạm Quỳnh (hàn lâm viện
trước tác) làm chủ bút phần chữ Quốc ngữ, Nguyễn Bá Trác (hàn lâm viện thị
giảng) làm chủ bút phần chữ Hán và ông Lê Văn Phúc - chủ nhà in Đông
Kinh làm quản lý kiêm ln việc phát hành báo. Tịa soạn đóng tại số 80 phố
Hàng Gai, Hà Nội.
* Albert Pierre Sarraut (1872-1962), quan cai trị, chính khách đương
nhiệm Tồn quyền Đông Dương lần hai (1917-1919), đã chỉ đạo Louis Marty,
Giám đốc Phịng An ninh và chính trị Đơng Dương, làm người sáng lập Nam
phong tạp chí cùng học giả 25 tuổi Phạm Quỳnh làm chủ bút kiêm chủ nhiệm.
Ông trực tiếp xác lập tư tưởng chính trị và định hướng tơn chỉ, mục đích của
Tạp chí như sau: “Mục đích báo Nam phong là thể cái chủ nghĩa khai hóa của
Chính phủ, biên tập những bài bằng Quốc văn, Hán văn, Pháp văn để giúp sự
mở mang tri thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân An Nam, truyền bá các
khoa học của Thái Tây, nhất là học thuật tư tưởng Đại Pháp, bảo tồn quốc túy
của nước Việt Nam ta, cùng bênh vực quyền lợi người Pháp người Nam trong
trường kinh tế… Báo Nam phong lại chủ ý riêng về sự tập luyện văn quốc
P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

5


ngữ cho thành một nền quốc văn An Nam”. Trong suốt 17 năm tồn tại, Nam
phong tạp chí đã hồn thành xuất sắc sứ mệnh của mình, đặc biệt trên phương
diện văn hóa - văn học (riêng sứ mệnh “cùng bênh vực quyền lợi người Pháp
người Nam trong trường kinh tế” vượt ra ngoài khả năng của một tờ tạp chí
chuyên về khoa học xã hội và nhân văn).
* Phạm Quỳnh (1892 - 1945), người được coi là linh hồn của tờ báo
(cịn có các bút danh Thượng Chi, Hoa Đường, Hồng Nhân). Ơng q ở Bình
Giang, Hải Dương, nhưng sinh ra ở phố Hàng Trống, Hà Nội. Chín tháng sau

khi sinh, mẹ ơng lâm bệnh qua đời; chín năm sau, bố ơng cũng đột ngột qua
đời ngay tại phịng thi khi dự kỳ thi Hương năm 1901. Ông được ông bà nội
nuôi, cho đi học tại trường tiểu học Pháp Việt, rồi trường trung học Bảo hộ
(trường Bưởi), đỗ đầu kỳ thi Thành chung năm 16 tuổi (1908), về làm việc tại
trường Viễn Đông Bác Cổ.
Năm 1913, cộng tác với Đơng Dương tạp chí, 1917 thành lập Nam
Phong tạp chí,1922 thành lập Hội Khai trí tiến đức, 1924 kiến nghị thành lập
trường tiểu học học bằng tiếng Việt ở Đông Dương, từ 1924 - 1932 làm giảng
sư khoa Văn chương và ngôn ngữ Hán Việt tại trường Cao đẳng Hà Nội, Hội
trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ. Năm 1932, Bảo Đại về nước làm vua, ông được cử
chức Ngự tiền Văn phịng, rồi Thượng thư Bộ Học, sau đó là Thượng thư Bộ
Lại, 1939 cùng vua Bảo Đại sang Pháp xin trả lại Bắc Kỳ như Hiệp ước 1884
nhưng khơng thành. Tháng 3/1945, Nhật đảo chánh Pháp, chính phủ Trần
Trọng Kim thành lập, ông xin rút lui. Sau Cách mạng tháng Tám, ông bị bắt
và qua đời tại Hiền Sĩ, Phong Điền, Thừa Thiên Huế.

P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

6


Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí
Phạm Quỳnh là người đề xướng thuyết quân chủ lập hiến, một chủ
trương lỗi thời trong tình hình nước ta bị thực dân Pháp xâm lược, đó là sai
lầm về chính trị. Nhưng đóng góp về văn học và báo chí của ơng vào đầu thế
kỷ XX thì khơng thể phủ nhận được. Là người am hiểu sâu rộng về nhiều lĩnh
vực văn hóa Đông Tây: văn học, triết học, khoa học, tôn giáo, ngôn ngữ,
phong tục, tập quán… được người đương thời suy tơn đứng đầu trong “tứ trụ”
là bốn nhà văn hóa tiêu biểu của đất nước: Quỳnh, Vĩnh, Tốn, Tố. Nói đến

Phạm Quỳnh là nói đến trữ lượng văn hóa tích tụ từ Nam Phong.
Phạm Quỳnh là tác giả của một khối lượng đồ sộ với hàng trăm tác
phẩm sáng tác, nghiên cứu, biên khảo và dịch thuật gồm nhiều lĩnh vực như
triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý, văn học, nghệ thuật, báo chí, trong đó có
những tác phẩm chủ yếu như Văn minh luận, Lịch sử thế giới, Chính trị nước
Pháp, Văn học sử Pháp, Phật giáo lược khảo, Người quân tử trong đạo Nho,
Tục ngữ ca dao, Việt Nam thi ca, Khảo về Truyện Kiều, Khảo về chữ quốc
ngữ, Hán Việt văn tự… Về nghiên cứu lý thuyết văn chương, có thể coi Khảo
về tiểu thuyết (in rải rác trên báo, mà chủ yếu là Nam Phong, từ năm 1922, in
thành sách 1925) là cơng trình lý luận văn học đầu tiên của nước ta; các tác
phẩm Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam Kỳ, Pháp du hành trình nhật ký là
những phóng sự đầu tiên của văn học hiện đại. Sai lầm của ông là khi đề ra
P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

7


một học thuyết “Pháp Việt đề huề” và yên tâm với lý tưởng về một nền quân
chủ lập hiến, mà “sự thực hiện lý thuyết này khơng ích lợi gì cho đồng bào,
nó càng làm tổn thương cho văn nghiệp của ông. Bây giờ người ta không thấy
hậu quả của việc làm ấy. Điều hiển nhiên là từ khi ông chủ nhiệm ra đi, ai nấy
đều nhận rằng giá trị văn chương của Nam Phong trở nên sa sút”. Tất nhiên,
ơng có sai lầm về chính trị, và sai lầm khi thiếu trách nhiệm với cả Nam
Phong, nhưng không thể nói rằng ơng khơng u nước, khơng có tinh thần tự
tơn dân tộc, khi ơng kêu gọi gìn giữ quốc hồn quốc túy, gìn giữ nền văn hóa
lâu đời để phát triển đất nước. Năm 1922, khi phát biểu tại Ban Ln lý và
chính trị Viện Hàn lâm Pháp, ơng đã khẳng định nền văn hóa dân tộc với tất
cả bầu nhiệt huyết: “Dân Việt Nam chúng tôi không thể ví như một tờ giấy
trắng. Chúng tơi là một quyển sách dày đầy những chữ viết bằng một thứ mực

không phai từ mấy mươi thế kỷ.”
1.3. Sự phát triển của Nam Phong tạp chí
Với ý tưởng “Nam Phong là ngọn gió nước Nam”, ngay từ đầu, tơn
chỉ của tờ nguyệt san đã nêu rõ:
- Diễn đạt truyền bá tư tưởng, học thuật đông tây kim cổ;
- Luyện quốc văn trở nên hoàn thiện, bồi dưỡng Việt ngữ phong phú,
uyển chuyển, sáng sủa và gãy gọn;
- Lấy đó làm nền tảng dân tộc rồi phát triển thành tinh thần dân tộc.
Dưới sự chỉ đạo mềm dẻo và thâm thúy của Phạm Quỳnh, các tơn chỉ
đó được thể hiện sinh động trên cơ sở các chuyên mục của tạp chí, như: Lý
thuyết, Văn hóa bình luận, Khoa học bình luận, Triết học bình luận, Văn
uyển, Tạp văn, Thời đàm, Tiểu thuyết…
Mục đích của Nam Phong tạp chí:
- Dùng chữ quốc ngữ để diễn tả, giải thích các tư tưởng, học thuật Âu Á để mang những kiến thức này đến cho người không biết tiếng Pháp hoặc
chữ Nho.
- Truyền bá chữ quốc ngữ vào Việt Nam, nâng cao trình độ chữ quốc
ngữ thành một nền ngôn ngữ so sánh được với tiếng Pháp và chữ Nho.
P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

8


Để thực hiện mục đích trên, nhóm biên tập tạp chí Nam Phong đã:
- Khảo cứu và viết bài về triết học, khoa học, văn chương, lịch sử của Á
Đông và Âu Tây
- Đăng những sáng tác đương đại: truyện ngắn, du ký, tùy bút, v.v.
- Dịch các tác phẩm triết học, văn học từ tiếng Pháp hoặc chữ Nho
- Sưu tầm và đăng tải thơ văn cổ của Việt Nam, kể cả chữ Nho và chữ
Nôm

- In lại các sách cũ của Việt Nam, như bộ Lịch triều hiến chương loại
chí
Nam Phong mỗi tháng ra một kỳ, khổ lớn, dày 100 trang, có sức mạnh
cạnh tranh với các báo khác.
Tạp chí Nam phong trải qua ba giai đoạn chính: giai đoạn thành lập và
phát triển (1917-1925); giai đoạn đề cao mục đích giáo huấn, khai hóa quốc
dân (1925-1932); giai đoạn suy yếu (1932-1934).
Giai đoạn 1917-1925: giai đoạn này tạp chí Nam Phong hoạt động
trong khn khổ hội Khai trí Tiến đức. Ở giai đoạn này Phạm Quỳnh chủ yếu
dựa vào Nguyễn Bá Trác, Lê Dư. Tạp chí khơng chỉ tán dương các chính sách
của thực dân mà cịn ca tụng vua Khải Định. Giai đoạn này mới thành lập nên
có sự giám sát chặt chẽ của người Pháp, hoạt động dưới sự chỉ đạo của người
Pháp. Ông chủ bút Phạm Quỳnh phải làm theo người Pháp để lấy lòng người
Pháp.
Giai đoạn 1925-1932: bên cạnh xu hướng chính trị quốc gia cải lương,
tạp chí Nam Phong cịn phát triển mạnh sang địa hạt nghiên cứu học thuật,
mở
rộng cánh cửa Âu - Tây trong tư tưởng văn hóa, tạo ra một thế lực chính trị
theo chủ thuyết lập hiến do Phạm Quỳnh đứng đầu.
Giai đoạn 1932 - 1934: giai đoạn này Phạm Quỳnh chủ yếu chuyển
sang hoạt động chính trị nên báo giảm chất lượng, mất bạn đọc và tự đình
bản. Sau khi Phạm Quỳnh được vua Bảo Đại triệu vào Huế giữ chức Thượng
thư vào tháng 11-1932 thì Nguyễn Trọng Thuật đứng ra làm chủ biên được
P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

9


vài số thì Lê Văn Phúc đứng ra canh tân. Tiếp theo Nguyễn Tiến Lãng đứng

ra kế thừa song không làm thỏa mãn được thị hiếu độc giả, hơn nữa chính
quyền bảo hộ Pháp lúc này cắt nguồn hỗ trợ kinh phí cho tờ báo nên đến
tháng 8 năm 1934 thì Nam phong đình bản. Trong quá trình phát triển của
mình, tạp chí Nam phong đã cung cấp cho bạn đọc những kiến thức cơ bản về
khoa học xã hội nhân văn, những thơng tin về thời sự chính trị, do đó đã phần
nào đáp ứng được nhu cầu tiếp cận thông tin của một bộ phận người Việt
trong bối cảnh báo chí lúc bấy giờ cịn khá ít ỏi.
Từ lúc ra đời, Nam Phong đã khiến tầng lớp nhà văn, trí thức ở Việt
Nam say sưa theo dõi. Người ta có thể học được trên mặt báo nền văn minh
phương Đông, văn minh Pháp, tư tưởng nước Nhật, Tàu, và âm hưởng thi phú
Hán ngữ đầy sinh khí thời cuộc. Giới phê bình đánh giá Nam Phong như một
bách khoa tồn thư, giữ vai trị của một Viện Hàn Lâm; các nhà biên tập của
Nam Phong là những nhà văn hóa, đã nỗ lực xây dựng tờ báo trở nên một cơ
quan ngơn luận có tầm ảnh hưởng và có đóng góp hết sức quan trọng trong
nhiều lĩnh vực, nhất là trong q trình hiện đại hóa văn học và ngơn ngữ.

Số đầu của Nam Phong tạp chí
P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

10


Số đầu Nam Phong tạp chí ra ngày 1/7/1917, tính đến nay đã hơn 100
năm. Đây là tờ báo bách khoa nguyệt san, khổ 19x27,5cm, gồm hai phần: chữ
Quốc ngữ và chữ Hán, mỗi phần có khoảng từ sáu mươi đến bảy mươi trang.
Bắt đầu từ năm 1923 trở về sau, tạp chí có thêm phần phụ trương bằng chữ
Pháp và từ số 195, ra ngày 1/5/1934, Nam Phong chuyển thành bán nguyệt
san, nhưng chỉ tồn tại đến cuối năm thì đình bản và số cuối cùng vào ngày
16/12/1934.

Nam Phong tạp chí ra được 210 số và có một số nữa là số Tết năm
1918 gồm tồn văn thơ có giá trị.
Qua 17 năm tồn tại, nhân sự của ban biên tập cũng có sự vận động thay
đổi: Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Dương Bá Trạc, Nguyễn Bá Học,
Nguyễn Hữu Tiến, Phan Khơi, Tản Đà, Hồng Tích Chu, Nguyễn Mạnh Bổng
(1917 - 1922); Phạm Quỳnh, Lê Dư (phụ trách phần chữ Hán thay cho
Nguyễn Bá Trác), Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Đơn
Phục, Nguyễn Triệu Luật, Hồng Ngọc Phách, Trần Trọng Kim, Phạm Duy
Tốn, Vũ Đình Long (1922 - 1925), Nguyễn Trọng Thuật (thay Phạm Quỳnh),
Lê Dư, Nguyễn Hữu Tiến, Bùi Kỷ, Vũ Đình Long, Nguyễn Tường Tam và
một số văn nhân thi sĩ phương Nam như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Văn
Kiêm, Trúc Hà (1925 - 1932); Nguyễn Tiến Lãng, Lê Văn Phúc, Nguyễn
Trọng Thuật, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đơn Phục, Đỗ Đình Thạch.
Bên cạnh tạp chí Nam Phong, ban biên tập còn thành lập nhà xuất
bản Nam Phong tùng thư, cho in sách nhằm cung cấp tài liệu cần thiết giúp
cho việc học chữ quốc ngữ được dễ dàng. Trong tạp chí Nam Phong, số 114
(1927), có nêu rõ mục đích của việc làm này: “Chữ quốc ngữ ngày nay đã phổ
thơng khắp trong nước, có thể dùng để làm cái lợi khí để truyền bá cái sự học
trong nhân gian. Kể sách quốc ngữ gần đây xuất bản cũng nhiều, nhưng ngoài
những sách giáo khoa để dùng trong các trường sơ học, phần nhiều là những
sách thơ văn, tiểu thuyết, tuy cũng có quyển có giá trị, bổ ích cho quốc văn,
song vẫn là sách văn chương “chơi” khơng giúp gì cho việc truyền bá sự học.
Mà việc này chính là cần cấp ngày nay/ Nho học mỗi ngày một tàn, Tây học
P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

11


dẫu có lấn tới mà ngơn ngữ bất đồng, văn tự sai biệt, cũng khó lịng phổ cập

trong dân gian. Phổ cập tri thức trong nước ta gần đây có phần sút kém cũng
là bởi cái lẽ đó. Vậy ngày nay thể tất phải dùng chữ quốc ngữ làm cái lợi khí
để giới thiệu các học thuật tư tưởng Đơng Tây cho phần nhiều quốc dân được
biết, ngõ hầu giúp cho cái trình độ trí thức trong nước ngày một lên cao/ Bộ
phận Nam Phong tùng thư này mở ra là muốn theo địi cái mục đích đó/ Cái
chí chúng tôi là muốn giúp cho phần nhiều người Việt Nam ta, không cần
phải đọc sách Tây, chỉ biết chữ quốc ngữ cũng có thể thơng hiểu được cái
điều nghĩa lý làm gốc cho văn hóa đời xưa đời nay/ Chúng tôi ao ước rằng sau
này người An Nam chỉ học bằng tiếng An Nam có thể trở nên được người
thơng hiểu, chỉ đọc bằng sách quốc ngữ cũng đủ bổ ích được cho trí khơn,
ngày ấy thời sự khai hóa trong nước mới thật là có kết quả vậy.”
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA NAM PHONG TẠP CHÍ
2.1. Thể loại chủ yếu
Qua hơn 17 năm phát triển, mảng sáng tác đã ghi dấu ấn sắc nét trên
Nam phong tạp chí, đặc biệt khi đặt trong tương quan đời sống văn học trên
báo chí giai đoạn cùng thời (1917-1934). Thực tế cho thấy, mặc dù có thời
gian hai năm tồn tại song song và giao thoa với phong trào Thơ mới (19321934) nhưng thơ ca trên Nam phong tạp chí chủ yếu thuộc dịng thơ cũ gắn
với thể Đường luật và khơng để lại dấu ấn nào đáng kể. Nhà thư mục học
Nguyễn Khắc Xuyên đã phân các bài viết trên Tạp chí Nam Phong thành 7
chủng mục cơ bản: - văn học, văn hóa, văn minh; - văn gia, thi gia; - văn
phẩm; - văn thể; - văn học thế giới; - văn học Pháp; - văn học Trung Hoa. Tuy
nhiên, có thể cho rằng, thành tựu sáng tác trên Nam phong tạp chí chủ yếu lại
là văn xi với hai thể loại chính là du ký và truyện ngắn.
2.1.1. Du ký
Trong nền văn học trung đại Việt Nam đã có nhiều sáng tác thuộc thể
tài du ký (như thơ ca đề vịnh phong cảnh Thăng Long, núi Bài Thơ, Yên Tử,
Hoa Lư, sông Hương núi Ngự, Gia Định, Hà Tiên...). Bước sang thế kỷ XX,
thể tài du ký có bước phát triển mạnh mẽ. Trong Nam Phong tạp chí, phải kể
P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN


12


bài Hạn mạn du ký của Nguyễn Bá Trác, Lại tới Thần kinh của Nguyễn Tiến
Lãng; Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ, và nhất là Pháp du hành trình
nhật ký của Phạm Quỳnh.
Đọc du ký trên Nam Phong tạp chí, độc giả được mở rộng tầm mắt
cũng như mở rộng tấm lịng để gắn bó thân thiết với con người ở nhiều vùng
miền của tổ quốc.
Xét về nội dung các tác phẩm du ký trên Nam Phong tạp chí thường
được viết trong hoặc sau những chuyến đi, kể về những điều tai nghe mắt
thấy. Đó là những điều đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả. Các tác
giả Nam Phong tạp chí có ý thức trong việc giới thiệu địa danh con người
phong tục tập quán cảnh quan thiên nhiên với mục đích giới thiệu lại cho
nhiều người cùng biết thỏa mãn nhu cầu được kể được tả của mình hoặc lưu
lại kỷ niệm về vùng đất mà mình đã đặt chân đến, những con người đã gặp
qua, khung cảnh thiên nhiên để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng. Nội dung của
du ký Quốc ngữ trên Nam Phong tạp chí thường mơ tả cảnh kẽ, tỉ mỉ hành
trình đến một di tích danh thắng, một địa phương nào đó mơ tả lịch sử, kiến
trúc, quang cảnh lễ hội,… Cũng có khi đó là một bài điều tra xã hội học hoặc
điền giả dân tộc học có cứ liệu và số liệu cụ thể kèm theo những trang khảo
cứu một miêu tả kỹ lưỡng về phong tục tập quán về trang phục hay sinh hoạt
văn hóa của một dân tộc
Thơng qua các chuyến đi, các cuộc giao lưu mà mỗi tác giả tăng thêm
nhận thức và niềm tự hào dân tộc, vừa chiêm nghiệm và chứng nghiệm được
đầy đủ tình nghĩa đồng bào.
Xét trên phương diện hình thức, thể tài du ký thu nạp nhiều phong cách
thể loại, Nam Phong tạp chí chịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của chính
quyền đương thời nên buộc phải phát ngơn tiếng nói quan phương. Tuy vậy,

các bài du ký này vẫn thể hiện được niềm tự hào dân tộc và cảm xúc chân
thành trước vẻ đẹp non sông đất nước. Hơn nữa, nhiều bài du ký (như Cùng
các phái viên Nam Kỳ, Một tháng ở Nam Kỳ, Mười ngày ở Huế, Pháp du
hành trình nhật ký; Tổng thuật về việc phái bộ Bắc Kỳ đi quan sát đường xe
P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

13


lửa Vinh - Đơng Hà...) lại thực sự có giá trị sử liệu để xem xét nhiều sự kiện,
hiện tượng văn hoá - xã hội và định vị hoạt động tổ chức hành chính của giai
tầng cơng chức thượng lưu dưới thời thực dân phong kiến.
Có bài du ký viễn du ghi lại những chuyến du hành vượt biên giới, u
cầu cơng việc và ý chí của người ham hoạt động. Các bài du ký này đã mở ra
những chân trời nhận thức mới, đưa lại niềm phấn khích. Đó là những bài du
ký dài hơi, phong phú, hấp dẫn như Hạn mạn du ký (kể lại cuộc đi chơi phiếm
qua Bangkok - Hương Cảng - Nhật Bản - Thượng Hải - Nam Kinh - Quảng
Tây - Quế Lâm - Bắc Kinh - Tứ Xuyên - Quảng Đông và trở về nước); Pháp
du hành trình nhật ký (kể về chuyến đi trong sáu tháng, từ khi dời bến Sài
Gòn ngày 15-3-1922, qua những ngày lênh đênh trên biển và ở lại thăm thú
nước Pháp văn minh hoa lệ, cho tới ngày 11-9 về tới cảng Hải Phịng).
Có bài du ký thiên về khảo cứu danh nhân lịch sử, truyền thuyết và sự
tích liên quan tới một địa điểm, địa danh cụ thể. Loại du ký này thường là kết
quả sau một chuyến picnic giới hạn trong thời gian ngắn. Ví dụ, đó là Ba Bể
du ký (Nhạc Anh Hồng Văn Trung), Du Ngọc Tân ký, Du Tử Trầm Sơn ký,
Bài ký chơi Cổ Loa, Cuộc đi chơi năm tầng núi,...
Có bài du ký hướng tới khảo sát, giới thiệu cả một vùng văn hoá sinh
thái rộng lớn. Các bài du ký tiêu biểu kiểu này có: Mười ngày ở Huế, Một
tháng ở Nam Kỳ, Chơi Lạng Sơn, Cao Bằng (Phạm Quỳnh), Bài ký phong thổ

tỉnh Tuyên Quang (Nguyễn Văn Bân), Hành trình mạn ngược,...
Có bài du ký mà yếu tố “vị nghệ thuật” chiếm phần quan trọng, ở đó
người viết chấm phá một vài nét phong cảnh thiên nhiên, cuộc sống đời
thường bình dị hay thống qua niềm vui văn hố lễ hội, đình đám. Đó là các
bài: Trảy chùa Hương (Thượng Chi), Cuộc đi quan phong làng Thượng
Cát (Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục), Một buổi đi xem đền Lý Bát Đế (Phạm
Văn Thư),…
Sự phát triển của chữ Quốc ngữ, báo chí và kinh tế - xã hội đã cho phép
thể tài du ký có điều kiện hưng khởi. Các tác giả viết du ký vừa thoả mãn
hứng thú nội tâm, trình bày những cảm xúc, cảm nhận riêng tư, vừa giới thiệu
P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

14


những điều trải nghiệm tai nghe mắt thấy liên quan tới mỗi thắng cảnh và di
tích lịch sử. Đó cũng là nhu cầu tự nhiên kết nối giữa chủ thể sáng tác và phía
tiếp nhận. Bạn đọc cũng được hướng dẫn đi tham quan, du lịch, hành hương
về xứ đẹp và cội nguồn dân tộc, góp phần nâng cao nhận thức và niềm tự hào
cho người đọc trước lịch sử ngàn năm và thắng cảnh non sông đất nước.
2.1.2. Truyện ngắn
Theo thống kê của Nguyễn Đức Thuận, Nam phong tạp chí đã in tổng
cộng 73 truyện ngắn (bên cạnh cách duy danh thể loại “đoản thiên tiểu
thuyết”). Sau này nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Hào đã in Tồn tập truyện
ngắn Nam phong với tổng cộng 64 truyện. Trong Lời mở đầu sách này, Lê
Chí Dũng cho rằng: “các tác giả truyện ngắn, như Nguyễn Bá Học (18571921), Phạm Duy Tốn (1881-1924), Hoàng Ngọc Phách (1896-1973), Nguyễn
Mạnh Bổng (1879-1951), Nguyễn Tiến Lãng (1909-1976)…, đều đề cao tinh
thần dân tộc, phản ánh hiện thực đời sống xã hội và con người giai đoạn
đương thời, khơng tun truyền và phục tịng chế độ thực dân Pháp.

Trong hoàn cảnh như vậy, việc phát triển truyện ngắn, đương nhiên
cũng đứng trước hai khả năng: đổi mới dần dần truyện ngắn truyền thống;
hoặc nương theo thể loại truyện ngắn phương Tây, mau lẹ tạo ra truyện ngắn
hiện đại Việt Nam.
Các tác giả của những truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí đã cố gắng
kể lại cho hệt những điều tai nghe, mắt thấy hoặc nếm trải trong cuộc sống xã hội đời thường, một cuộc sống- xã hội.
Một điều đáng chú ý ở những truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí là:
những truyện ngắn này đã lọc qua chủ trương “điều hoà tân cựu”, “thổ nạp ÁÂu”. Có thể thấy rõ điều này nơi những tác giả các truyện ngắn: Đông Châu
Nguyễn Hữu Tiến và Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục là những người cựu học;
những người cựu học chuyển sang tân học: Nguyễn Bá Học và Hoàng Ngọc
Phách; những người tân học: Phạm Duy Tốn và Lê Đức Nhượng. Ở truyện
của Đông Châu và Tùng Vân khơng có chút gì gọi là truyện ngắn. Ở truyện
ngắn Nguyễn Bá Học là sự mô tả khách quan, nhưng khơng vượt thốt được
P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

15


quan niệm văn học cũ; vừa làm quen với lối kể chuyện, mô tả, đối thoại của
truyện ngắn hiện đại, vừa sử dụng văn biền ngẫu và chưa ra khỏi cách xây
dựng hình tượng của văn học trung đại. Lê Đức Nhượng, không chỉ viết được
nhiều truyện ngắn hơn, mà còn viết khéo hơn so với Nguyễn Bá Học. Về
Phạm Duy Tốn, có nhà nghiên cứu đánh giá rằng lấy một truyện của Phạm
Duy Tốn đem đặt cạnh một truyện cổ điển, ta thấy có một sự ly dị, một sự
gián cách đột ngột, bất ngờ cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật”. Quả là truyện ngắn
của Phạm Duy Tốn là một bước tiến về phía trước so với truyện ngắn của
Nguyễn Bá Học, nhưng vẫn có thể nói đó là “một sự ly dị, một sự gián cách
đột ngột, bất ngờ về cả tư tưởng lẫn nghệ thuật” so với “truyện cổ điển” được.
Truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, kể cả truyện ngắn nổi tiếng của ông Sống

chết mặc bay, vẫn chưa đạt tới truyện ngắn hiện đại.
Có thể nói bản lĩnh nhà văn, tinh thần hướng về quốc gia, dân tộc,
thượng tôn bản chất thực tại cuộc sống và ý nghĩa khách quan của hình tượng
nghệ thuật đã tạo nên tính nhân dân trong các tác phẩm truyện ngắn của Nam
Phong tạp chí.
2.1.3. Nghiên cứu, lý luận và phê bình văn học
Bên cạnh các lĩnh vực tư tưởng chính trị và khoa học xã hội (vốn là
định hướng chủ yếu của tạp chí), phạm vi hoạt động khảo cứu, giới thiệu, dịch
thuật, bình luận, trao đổi, tranh luận đều diễn ra tương đối khách quan,
khoa học, công khai, dân chủ, thẳng thắn, phản ánh rõ nét chính kiến tiếng nói
của người đương thời, người trong cuộc, khơng q trái ngược so với sáng
tác.
Nhà thư mục học Nguyễn Khắc Xuyên đã phác họa diện mạo, đặc
điểm và nhấn mạnh vị thế bộ phận văn khảo cứu, phương pháp nghiên cứu, lý
luận và phê bình như sau: “Đây là mục phong phú hơn cả. Chúng tôi
buộc phải phân chia ra làm nhiều tiểu đề mục. Sau mục bàn giải tổng quát
về văn hóa, văn học, văn minh, hoặc so sánh hai văn hóa Âu - Á, chúng tơi
xếp đặt tiểu đề về các thi nhân và văn gia. Các nhà văn lớp cũ như tác giả
Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Trãi... đã được nghiên cứu
P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

16


tới, cũng như lớp nhà văn mới như Đông Hồ, Phan Kế Bính. Người ta phải
chú trọng đến Nguyễn Du và Truyện Kiều. Có thể nói đây là nhân vật và tác
phẩm được suy tơn hơn cả. Khởi điểm chính là ngày lễ kỷ niệm cụ Tiên
Điền và những bài diễn văn trong dịp này, có ơng Trần Trọng Kim tham gia
tích cực. Có thể đây là lần đầu tiên trong văn học sử nước nhà, một tác phẩm

thơ văn chữ Nơm được trọng q, suy tơn và phân tích bằng những phương
pháp mới. Mục tiêu duy trì và cổ động nền học cũ một phần nào đã được thực
hiện ở đây”.
Đặt trong tương quan với định hướng tư tưởng chính trị cũng như xu
thế chung của q trình hội nhập, giao thoa Đông - Tây và qui luật canh tân,
đổi mới, phát triển, hiện đại hóa “thổ nạp Á - Âu”, “điều hòa tân cựu” nền
văn học dân tộc đương thời, việc các tác giả Nam phong tạp chí quan tâm
nhiều đến các vấn đề thời sự (như ở các bài: Bảo thủ với tiến hóa, Luận về
phương pháp, Văn hóa Pháp đối với tiền đồ nước Nam, Bàn về tiểu thuyết,
Khảo về diễn kịch, Một thí nghiệm về diễn kịch, Quốc túy và văn minh, Thơ
mới với thơ cũ...) là điều hồn tồn hợp lý.
Có thể khẳng định rằng, tinh thần tranh biện, phản biện, luận thuyết,
hướng đến đổi mới, đề cao cái mới “thổ nạp Á - Âu”, “điều hịa tân cựu”
trên Nam Phong tạp chí là thực sự phù hợp với bước đi thời đại, phù hợp với
q trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Xét trên phương diện “thổ nạp Á Âu”, các tác giả của Nam phong tạp chí tập trung phiên dịch, tổng thuật,
giới thiệu nhiều hiện tượng văn học Pháp xuất sắc (Bàn về hý kịch của
ông Molière, Lịch sử và học thuyết của Montesquieu, Lịch sử và học thuyết
của Montesquieu, Bàn về nhà văn sĩ Pháp Guy de Maupassant, Văn
chương Pháp, Lược khảo về văn học sử nước Pháp, Một nhà văn hào nước
Pháp: Anatole France, Baudelaire tiên sinh, Tuồng Hịa Lạc, Tuồng Lơi
Xích...). Điều này đưa đến cho người đọc nguồn tri thức văn học phong
phú, tạo chất xúc tác và tác động tích cực đến q trình hiện đại hóa quốc
văn trên tồn hệ thống báo chí, xuất bản, kiểu tác giả, đề tài, trào lưu, thể loại
và các thủ pháp nghệ thuật. Trong yêu cầu “điều hòa tân cựu”, “tồn cổ lục”,
P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

17



“tổ quốc túy ngôn”, những người viết Nam Phong tạp chí đã tập trung bảo
tồn di sản văn hóa - văn học truyền thống, đi sâu khảo cứu chữ Hán, chữ
Nơm, tiếng Việt, chữ Quốc ngữ; khởi động tìm hiểu từ cội nguồn ngữ văn dân
gian đến trung đại và hiện đại; tổ chức kỷ niệm và đề cao vị thế danh nhân tác
gia văn học (như Trần Nhân Tông, Chu Văn An, Vũ Quỳnh, Nguyễn Trãi, Lê
Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Gia Thiều,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Lê Quý Đôn...), dịch và giới thiệu nhiều tác
phẩm tiêu biểu mà con cháu ngày nay vẫn còn được thừa hưởng như thơ
văn thời Lý - Trần, (Lĩnh Nam chích quái, Quân trung từ mệnh tập, Hồng
Đức quốc âm thi tập, Bạch Vân thi tập, Hà Tiên thập cảnh, Thượng kinh
ký sự, Văn tế thập loại chúng sinh...). Khi điểm danh và kiểm định toàn bộ
phần sáng tác cũng như khảo cứu, lý luận, phê bình, dịch thuật văn học
trên Nam Phong tạp chí, thật khó qui kết cực đoan rằng, Nam phong tạp
chí là tác hại, phản dân tộc, ru ngủ thanh niên, xa rời cuộc đấu tranh, phục
vụ cho mưu đồ cướp nước, làm lợi cho thực dân...
2.2. Nội dung
Về nội dung, những số đầu Nam Phong gồm có tám mục: luận thuyết,
văn học bình luận, triết học bình luận, khoa học bình luận, văn tuyển, tạp trở,
thời đàm và cuối cùng là tiểu thuyết. Về sau, tạp chí có thêm những mục như
tùng đàm, hài văn kỷ yếu, tồn danh thần lục, yếu lược về kinh tế. Nhưng làm
nên hồn cốt, diện mạo đặc sắc và khẳng định vị trí của Nam Phong là các
chuyên mục văn học, triết học và khoa học.
Về triết học, tạp chí chủ trương truyền bá tư tưởng triết học của phương
Tây, nhằm cải biến nhận thức truyền thống của người Việt thoát khỏi ảnh
hưởng tư tưởng triết học Nho giáo, dịch và đăng những cơng trình triết học
của Déscartes, Bezson, Voltaire, Julessimon, J.Rousseau, Montesquieu…
(Chẳng hạn, Phạm Quỳnh dịch và giới thiệu học thuyết của Voltaire in trên số
114, hoặc Thượng Chi (bút danh của Phạm Quỳnh) dịch thuyết Tự do
luận của Julessimon in trên số 121).


P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

18


Về văn học, tạp chí dịch và giới thiệu văn học Hy La, các tác giả văn
học Pháp như thơ của Charles Pierre Baudelaire, truyện ngắn của Guy de
Maupassant… Văn học trong nước được giới thiệu ở mục văn tuyển, chọn
đăng thơ của các tác giả thành danh trong quá khứ (Bạch Vân thi tập của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Khóc quan thượng thư Vân Đình Dương Kh, Đùa
ơng bạn điếc của Nguyễn Khuyến…), thơ của các tác giả đương thời (Đông
Dương tổng ca của Tôn Thất Pháp, Chơi chùa Ngũ Hành, Tới Ải Vân không
gặp bạn của Trần Hữu Giương…), hoặc văn xi, mà chủ yếu là truyện ngắn
(Lịng u nước của Mân Châu Nguyễn Mạnh Bổng, Đồng tiền nói
chuyện của Điếu Hồng…).
Về khoa học, tạp chí giới thiệu những phát minh/ kiến thức mới mẻ của
phương Tây, như bài viết về kỹ thuật đóng tàu ngầm của kỹ sư người Pháp
Laubeuf, bài Tâm lý học-định lệ của cảm giác (Nguyễn Triệu Luật dịch), hoặc
các bài viết về khoa học thường thức như Mấy lời về phép vệ sinh (Phan Khôi
dịch), Bệnh lao có chữa được khơng của Phạm Quỳnh, Cái hại thuốc lá của
Mã Nhân…
Nhìn chung, nội dung tạp chí đã đề cập đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh
vực khác nhau trong cuộc sống của con người, xứng đáng với sự tơn vinh
là bách khoa tạp chí đương thời. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan cho rằng:
“Muốn hiểu biết những vấn đề tôn giáo hay văn học, những thơ văn Việt Nam
từ xưa cho đến thế kỷ thứ XIX, để hiểu hơn lịch sử hay cuộc đời của những
nhân vật lịch sử Việt Nam, những vấn đề chính trị hay xã hội Âu châu…
chúng ta chỉ cần đọc theo dõi tạp chí này. Chỉ cần đọc tạp chí Nam
Phong cũng có thể mở mang kiến thức được”.

Về hình thức, tùy thuộc vào nội dung phản ánh và khuôn khổ của các
chuyên mục mà các tác giả lựa chọn một thể tài để chuyển tải thông tin đến
với người đọc, trong đó đáng chú ý là những bài bình luận hoặc những phản
ánh có tính chất phóng sự, đã cung cấp một nội dung chuyên sâu về một vấn
đề tư tưởng, văn hóa - xã hội.

P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

19


Về tin trong nước, tạp chí đăng tải những sự kiện liên quan đến các
hoạt động và công việc của các chính khách Pháp ở nước ta và các quan lại
triều Nguyễn. Tất nhiên, tin thời kỳ này còn hạn chế về kết cấu, thiếu sự cơ
đọng, súc tích, đơi khi tối nghĩa.

P
PHAN THỊ HIỀN LƯƠNG - K41 - BÁO IN

20



×