Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

SỬ DỤNG CHẾ PHẨM SINH HỌC TRONG NUÔI TÔM docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.97 KB, 4 trang )

SỬ DỤNG CHẾ PHẨM SINH HỌC TRONG NUÔI
TÔM

Sự phát triển nhanh chóng của hoạt động nuôi tôm đã kéo theo việc suy
giảm sản lượng trên toàn thế giới mà nguyên nhân chính là việc bùng
phát dịch bệnh, chủ yếu là vi khuẩn phát sáng Vibrio và vi khuẩn đốm
trắng.
Tình trạng này gần như chắc chắn có sự trợ giúp của những việc
như nuôi tôm với mật độ quá cao, sử dụng kháng sinh và hóa chất với
liều cao.
Ngày nay chế phẩm sinh học là một công cụ quản lý đã có được
nền tảng vững chắc cho phần lớn hoạt động nuôi tôm trên thế giới. Chế
phẩm sinh học đã được chấp thuận rộng rãi để khống chế các nguồn dịch
bệnh trong nuôi tôm, tăng sức đề kháng và chống lại bệnh dịch. Ngoài
ra, còn giúp hạn chế việc sự dụng kháng sinh hay hóa chất mà vẫn còn
được cho phép tại một vài khu vực. Ngược lại với các kháng sinh, chế
phẩm sinh học cung cấp một phương thức an toàn và bền vững đối với
người nuôi và người tiêu dùng.
Chế phẩm sinh học lần đầu tiên được Giáo sư Fuller R. (1989) định
nghĩa như sau: thành phần thức ăn có cấu tạo từ những vi khuẩn sống và
có tác động hữu ích lên vật chủ qua việc làm cải thiện sự cân bằng vi
khuẩn đường ruột của nó. Định nghĩa này có thể mở rộng thêm như sau:
sự nuôi dưỡng các vi sinh vật hoàn toàn tự nhiên và có tác động tích cực
khi được đưa vào điều kiện ao nuôi. Từ chế phẩm sinh học (probiotics)
có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp bao gồm hai từ pro có nghĩa là dành cho
và biosis có nghĩa là sự sống. Thay cho việc tiêu diệt các bào tử vi
khuẩn, chế phẩm sinh học được sản xuất với mục đích kích thích sự gia
tăng các loài vi khuẩn có lợi trong ao.
Các kháng sinh thường được sử dụng để điều trị bệnh, nhưng
không diệt được tận gốc vấn đề. Ngoài ra, việc điều trị bằng kháng sinh
và hóa chất, đặc biệt khi dùng quá nhiều hóa chất sẽ tiêu diệt phần lớn


các vi khuẩn có lợi trong nước ao, chứ không chỉ các vi khuẩn gây bệnh,
Các kháng sinh và hóa chất không thể sử dụng để phục hồi sự suy giảm
chất lượng nước và môi trường sinh thái.
Ngược lại, có rất nhiều phương cách khác nhau tham dự vào quá
trình sinh học trong ao nuôi. Nhiều lợi ích cho toàn bộ hệ thống có thể
đạt được khi sử dụng những chế phẩm sinh học có chất lượng tốt. Hiệu
quả của một chế phẩm sinh học được đánh giá theo số lượng vi khuẩn có
ích trong 1 gr; khả năng vi khuẩn sống lại và số lượng vi khuẩn sống lại;
và thời gian vi khuẩn tái hoạt động khi được đưa vào ao nuôi.
Các chế phẩm sinh học trong nuôi tôm có một vai trò cực kỳ quan
trọng để phân hủy các chất hữu cơ và tác động làm giảm đáng kể lớp
bùn và nhớt trong ao. Kết quả là cải thiện chất lượng nước, giảm lớp bùn
đáy, giảm tỷ lệ mắc bệnh, tăng số lượng vi sinh vật phù du, giảm mùi
hôi và sau cùng tăng sản lượng nuôi.
Qua việc gia tăng sự phân hủy các chất hữu cơ, acids amino và
glucose được giải phóng sẽ cung cấp nguồn thức ăn cho các vi sinh vật
có ích. Thành phần vô cơ của nitrogen như ammonia, nitrite và nitrate
sẽ giảm thiểu. Khi chất lượng nước và hệ số chuyển đổi thức ăn được cải
thiện, sức khỏe và hệ miễn dịch của tôm sẽ tăng lên về tổng thể.
Chế phẩm sinh học làm việc theo những quá trình sau: khống chế
sinh học (những dòng vi khuẩn có ích tác động đối kháng lên dòng vi
khuẩn lây bệnh); tạo ra sự sống (các vi khuẩn sẽ phát triển trong nước)
và xử lý sinh học (phân hủy các chất hữu cơ trong nước bằng các vi
khuẩn có ích).
Các khuyến cáo đề xuất sử dụng chế phẩm sinh học phải được thực
hiện cả trong ao nuôi, trong ao chứa và toàn bộ chu kỳ sản xuất con
giống. Chế phẩm sinh học được sử dụng liên tục trong ao nuôi sẽ tạo ra
sự khác biệt đáng kể về chất lượng nước và khống chế nguồn bệnh lây
lan. Chế phẩm sinh học có tác dụng tốt trong một hệ thống kín, lượng
nước thay đổi không vượt quá 20% đối với ao nuôi và không vượt quá

40% đối với bể giống (Chế phẩm sinh học rất thích hợp trong toàn bộ
giai đoạn sản xuất giống PL). Cần linh hoạt trong khi sử dụng chế phẩm
sinh học, khi rủi ro lây bệnh cao thì cần tăng liều sử dụng định kỳ.
Chế phẩm sinh học có tác dụng ngăn ngừa nguồn gây bệnh hơn là
điều trị bệnh và bao gồm các lợi ích như: tăng sản lượng; tăng trọng
lượng con tôm; giảm các bệnh nguy hại và khả năng mắc bệnh; loại bỏ
việc sử dụng kháng sinh; cải thiện tác động môi trường; cải thiện hệ số
chuyển đổi thức ăn; giảm việc thay nước; phân hủy các chất hữu cơ; loại
bỏ ammonia và các hợp chất của nitrogen và giảm mùi hôi.
Trong quá trình liên tục tăng trưởng kinh tế sự cần thiết bảo vệ môi
trường không chỉ ở từng vùng mà còn trên phạm vi toàn cầu. Hoạt động
nuôi tôm cùng với việc tăng sản lượng và số vụ nuôi trong năm thì phải
đảm bảo hạn chế tối thiểu những tác động lên môi trường sinh thái.
Sử dụng chế phẩm sinh học là việc áp dụng công nghệ sinh học
giúp nâng cao và đảm bảo sản lượng nuôi mà đã được công nhận rộng
rãi như phương thức điều trị tốt hơn, rẻ hơn và hiệu quả hơn so với việc
sử dụng các kháng sinh. Các sản phẩm sinh học hoạt động như một phần
trong tổng thể quản lý hoạt động nuôi tôm bền vững nhằm chống lại
nguồn gây bệnh trong qui trình nuôi.
Bảng tóm lược lợi ích của chế phẩm sinh học đối với tính chất
nước ao nuôi tôm:

Tính chất nước

Lợi ích của BZTÒ

Độ mặn 0 40 ppt
pH 6.5 9.0
Nhiệt độ 25
O

C 35
O
C
Độ kiềm > 80 ppm
Độ trong 30 40 cm
Màu sắc Xanh lạt xanh nâu
DO > 3.5 ppm
Tổng Ammonia < 1.0 ppm
Nitrate < 0.2 ppm
P > 0.5 ppm
Tổng vi khuẩn và Vibrio
spp.
Khống chế
Tổng vi khuẩn phát sáng Khống chế
Tảo có ích


×