Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

NHẬN THỨC CỦA VIỆT NAM VỀ AN NINH TRONG ĐỐI NGOẠI SAU ĐỔI MỚI 1986 ĐẾN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.64 KB, 12 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NGOẠI GIAO

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
-----ššššš-----

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: NHẬN THỨC CỦA VIỆT NAM VỀ AN NINH
TRONG ĐỐI NGOẠI SAU ĐỔI MỚI 1986 ĐẾN NAY

SINH VIÊN:
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:

HÀ NỘI - 2023


MỤC LỤC
I.

Tổng quan tiểu luận...........................................................................................................................2
1.

Tính cấp thiết của vấn đề.................................................................................................................2

2.

Các nghiên cứu trước đây................................................................................................................3

3.


Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu.......................................................................................................3

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................................3

5.

Phương pháp nghiên cứu.................................................................................................................4

II.
1.

Nội dung tiểu luận..........................................................................................................................4
Cơ sở lý luận và thực tiễn................................................................................................................4
1.1

Cơ sở lý luận............................................................................................................................4

1.2

Cơ sở thực tiễn.........................................................................................................................4

2.

Nhận thức của Việt Nam về an ninh trong đối ngoại trước 1986.....................................................5

3.

Nhận thức của Việt Nam về an ninh trong đối ngoại sau đổi mới 1986 đến nay..............................5


4.

3.1

Giai đoạn đại hội Đảng VI (1986 – 1990)...............................................................................6

3.2

Giai đoạn đại hội Đảng VII – IX..............................................................................................6

3.3

Giai đoạn đại hội Đảng X – XIII..............................................................................................8

Kết quả đã đạt được.........................................................................................................................9

III. Kết luận...............................................................................................................................................9
1.

Ưu điểm của nhận thức về an ninh trong đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới................9

2.

Hạn chế nhận thức về an ninh trong đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.....................10

3. Một số kinh nghiệm về nhận thức an ninh trong đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn sau đổi
mới 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................................11


2


I.
Tổng quan tiểu luận
1.
Tính cấp thiết của vấn đề
Từ thời các vua chúa đến nay, “dựng nước đi đôi với giữ nước”. Một quốc gia có
nền an ninh vững chắc sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập
quốc tế và đóng góp tích cực cho hịa bình, ổn định khu vực và thế giới (Lê Công Phụng,
2011). An ninh vững mạnh là nền tảng thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế, đảm bảo lợi ích
quốc gia, nâng cao uy tín và vị thế của đất nước trên thị trường quốc tế. Trong bối cảnh
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, tầm quan trọng của an ninh trong đối ngoại
càng được nâng cao. Các quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trên nhiều lĩnh vực,
do đó, an ninh của một quốc gia không chỉ tác động đến quốc gia đó mà cịn tác động đến
an ninh của các quốc gia khác. Vì vậy, các quốc gia cần hợp tác chặt chẽ với nhau để duy
trì mơi trường hịa bình, ổn định, là nền tảng cho sự phát triển của tất cả các quốc gia.
Việt Nam là một quốc gia có nền an ninh vững chắc. Đảng và Nhà nước Việt Nam
luôn coi trọng công tác bảo vệ an ninh quốc gia, coi đó là nhiệm vụ trọng yếu của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân. Nhờ đó, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn
trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển
đất nước. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cường cơng tác đối ngoại quốc
phịng, hợp tác chặt chẽ với các nước trên thế giới để duy trì mơi trường hịa bình, ổn
định, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
2.
Các nghiên cứu trước đây
Trong thời kỳ đổi mới, các nhà nghiên cứu đã quan sát thực tế kinh tế, chính trị, xã
hội và an ninh quốc phịng, từ đó đưa ra các nhận định về tình hình an ninh trong đối
ngoại của Việt Nam. Từ đó rút ra được điểm mạnh, điểm yếu, kinh nghiệm, giải pháp cho

quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế.
Trong “Đối ngoại đa phương Việt Nam trong thời kỳ chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế” của TS. Nguyễn Thị Cẩm Tú, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Bộ Ngoại giao, tác
giả khẳng định tầm quan trọng của an ninh trong đối ngoại, là nền tảng để thúc đẩy quan
hệ hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia và nâng cao uy tín, vị thế của quốc gia trên
trường quốc tế (N.T.C. Tú, 2017). Thượng tá Trần Đức Tiến (2022) đánh giá rằng Đảng
đóng vai trị quan trọng để đưa ra các quan điểm, chiến lược, nhằm xác định các yếu tố để
thực hiện thắng lợi trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc song song với hội nhập quốc tế. Có
thể thấy rằng, an ninh trong đối ngoại có vai trị quan trọng, ln được Đảng, Nhà nước,
các nhà nghiên cứu quan tâm.
3.
Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu về nhận thức của Việt Nam về an ninh trong đối ngoại sau đổi
mới 1986 đến nay. Từ đó hiểu được chiến lược của Đảng và Nhà nước trong công tác đối
ngoại, chiều hướng phát triển của an ninh trong đối ngoại.
Để làm rõ mục tiêu, kết quả nghiên cứu tiêu luận làm rõ các câu hỏi:

3


- Việt Nam có nhận thức như thế nào về an ninh trong đối ngoại trước đổi mới
(trước năm 1986)?
- Việt Nam có nhận thức như thế nào về an ninh trong đối ngoại sau đổi mới 1986
đến nay?
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: An ninh trong đối ngoại
Phạm vi nghiên cứu:
- Địa lý: Việt Nam
- Thời gian: sau năm 1986 đến nay

5.
Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, phương pháp luận sử học, tiểu luận sử dụng chủ yếu các phương pháp lịch sử,
logic, phân tích, tổng hợp
II.
Nội dung tiểu luận
1.
Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1
Cơ sở lý luận
Quan điểm về đối ngoại
Đặc trưng của chính sách đối ngoại: ranh giới giữa chính trị đối nội và chính trị đối
ngoại, chủ thể trong quan hệ quốc tế, luật quốc tế và chính phủ “siêu quốc gia”. Thực
hiện chính sách đối ngoại có những điểm khác với thực hiện chính sách đối nội: nếu ở
trong nước, việc thực hiện chính sách thơng qua luật pháp và có chính quyền trung ương
thì công việc đối ngoại chủ yếu được thực hiện thông qua việc tác động lên các nước
khác để các nước đó xây dựng và triển khai chính sách – cũng trong khn khổ luật pháp
của các nước đó – theo cách nước mình mong muốn (L.T. Mẫu, 2023)
Quan điểm về mối quan hệ giữa an ninh và đối ngoại
An ninh quốc gia là “trạng thái hịa bình, ổn định, khơng bị đe dọa hoặc xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia” (Luật An ninh quốc
gia, 2004). An ninh quốc gia là mục tiêu tối thượng của mọi quốc gia. An ninh và đối
ngoại là hai mặt của một vấn đề. An ninh là mục tiêu, đối ngoại là phương tiện để bảo
đảm an ninh. An ninh vững chắc là nền tảng để thúc đẩy đối ngoại, ngược lại, đối ngoại
thành cơng góp phần bảo vệ an ninh quốc gia.
An ninh quốc gia là mục tiêu tối thượng của đối ngoại. Mục tiêu của đối ngoại là
bảo vệ lợi ích quốc gia, trong đó lợi ích quốc gia về an ninh là quan trọng nhất. Vì vậy,
bảo đảm an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu của đối ngoại. Mặt khác, đối ngoại là
phương tiện để bảo đảm an ninh quốc gia. Đối ngoại là hoạt động của nhà nước nhằm tạo

dựng và phát triển quan hệ với các quốc gia khác trên thế giới. Thông qua đối ngoại, quốc

4


gia có thể tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia khác, ngăn chặn các mối đe dọa an ninh
từ bên ngồi, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia. An ninh và đối ngoại có mối quan hệ
chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. An ninh vững chắc là nền tảng để thúc đẩy đối ngoại,
ngược lại, đối ngoại thành cơng góp phần bảo vệ an ninh quốc gia
1.2
Cơ sở thực tiễn
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, tầm quan trọng của an
ninh trong đối ngoại càng được nâng cao. Các quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
trên nhiều lĩnh vực, do đó, an ninh của một quốc gia khơng chỉ tác động đến quốc gia đó
mà cịn tác động đến an ninh của các quốc gia khác. Vì vậy, các quốc gia cần hợp tác chặt
chẽ với nhau để duy trì mơi trường hịa bình, ổn định, là nền tảng cho sự phát triển của tất
cả các quốc gia.
Việt Nam là một quốc gia có nền an ninh vững chắc. Đảng và Nhà nước Việt Nam
luôn coi trọng công tác bảo vệ an ninh quốc gia, coi đó là nhiệm vụ trọng yếu của tồn
Đảng, tồn dân và tồn qn. Nhờ đó, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn
trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển
đất nước.
2.
Nhận thức của Việt Nam về an ninh trong đối ngoại trước 1986
Trước năm 1986, Việt Nam chủ yếu theo đuổi mục tiêu an ninh quốc phòng truyền
thống, coi an ninh là sự ổn định của chế độ và lãnh thổ, tập trung vào xây dựng sức mạnh
quân sự (T.Đ. Tiến, 2022). Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, Việt Nam xác định kẻ thù
cơ bản lâu dài là chủ nghĩa đế quốc và bè lũ tay sai, kẻ thù trực tiếp nguy hiểm là Trung
Quốc. Do đó, đối ngoại của Việt Nam chủ yếu tập trung vào việc xây dựng quan hệ với
các nước xã hội chủ nghĩa, chống lại các thế lực thù địch, bảo vệ Tổ quốc.

Theo nhận thức của Việt Nam lúc bấy giờ, an ninh trong đối ngoại được thể hiện
qua các nội dung sau:
 Tăng cường quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa: Việt Nam coi các nước xã hội
chủ nghĩa là bạn bè, đồng minh, chỗ dựa vững chắc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
(Ban Tuyên giáo Trung ương, 2020). Do đó, Việt Nam đã tích cực tăng cường quan hệ
với các nước xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, an ninh,...
 Chống lại các thế lực thù địch. Việt Nam coi các thế lực thù địch là những mối đe
dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia. Do đó, Việt Nam đã kiên quyết đấu tranh chống lại
các thế lực thù địch trên tất cả các lĩnh vực.
 Bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Việt Nam coi bảo vệ vững chắc Tổ quốc là nhiệm vụ
trọng yếu hàng đầu của quốc gia. Do đó, Việt Nam đã tập trung xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân vững mạnh, đủ sức bảo vệ Tổ quốc trước mọi kẻ thù.
Nhận thức của Việt Nam về an ninh trong đối ngoại trước năm 1986 đã có những
hạn chế nhất định, do ảnh hưởng của tư duy "bạn - thù" và bối cảnh Chiến tranh Lạnh.
Tuy nhiên, những nhận thức này cũng đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc
an ninh quốc gia và xây dựng đất nước trong giai đoạn đó.

5


Sự thay đổi của nhận thức về an ninh trong đối ngoại sau năm 1986 là sự phản ánh
của những thay đổi về tình hình thế giới và trong nước. Sự thay đổi này đã góp phần quan
trọng vào việc bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia và xây dựng đất nước trong giai đoạn
hiện nay.
3.
Nhận thức của Việt Nam về an ninh trong đối ngoại sau đổi mới 1986
đến nay
Sau đổi mới, nhận thức của Việt Nam về an ninh đã có sự thay đổi theo hướng tồn
diện, bao gồm cả an ninh quốc phòng, an ninh kinh tế, an ninh chính trị, an ninh xã hội,
an ninh mơi trường,...

Trong đó, an ninh trong đối ngoại được coi là một trong những trụ cột quan trọng
của chiến lược an ninh quốc gia. Việt Nam nhận thức rằng, an ninh quốc gia không chỉ
được bảo đảm bởi sức mạnh quân sự mà còn cần được bảo đảm bởi sức mạnh tổng hợp,
trong đó có sức mạnh đối ngoại.
3.1
Giai đoạn đại hội Đảng VI (1986 – 1990)
Trong giai đoạn 1986 - 1990, nhận thức của Việt Nam về an ninh trong đối ngoại đã
có những thay đổi quan trọng, thể hiện qua những nội dung sau:
Chuyển từ tư duy "bạn - thù" sang tư duy hịa bình, hợp tác. Việt Nam nhận thức
rằng, hịa bình, hợp tác là xu thế chủ đạo của thời đại, là nhân tố quan trọng để bảo đảm
an ninh quốc gia. Do đó, Việt Nam đã chủ trương xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác
với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội.
Đổi mới phương châm đối ngoại. Từ phương châm "ba không" (không liên kết,
không đối đầu, không dựa dẫm), Việt Nam chuyển sang phương châm "đa phương hóa,
đa dạng hóa" quan hệ đối ngoại. Phương châm này thể hiện sự mong muốn mở rộng quan
hệ với tất cả các nước, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau (TS Đinh Thanh Tú, ThS Trần Thị Huyền Trang, 2021).
Tăng cường hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực. Việt Nam đã tích cực tham gia các tổ
chức quốc tế và khu vực, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, an
ninh,... nhằm góp phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi
cho phát triển đất nước.
Những thay đổi trong nhận thức của Việt Nam về an ninh trong đối ngoại trong giai
đoạn này đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy hội nhập quốc tế của Việt Nam, tạo
dựng mơi trường hịa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước.
Cụ thể, trong giai đoạn này, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong
việc tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng và các nước lớn. Việt
Nam đã ký kết nhiều hiệp ước và thỏa thuận hợp tác với các nước láng giềng và các nước
lớn, tạo dựng nền tảng vững chắc cho quan hệ hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển. Việt
Nam cũng đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, tích cực tham gia các hoạt động
hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, an ninh,...


6


Những thành tựu này đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc an ninh
quốc gia và xây dựng đất nước.
3.2
Giai đoạn đại hội Đảng VII – IX
Trong giai đoạn từ Đại hội Đảng VII đến Đại hội Đảng IX, nhận thức của Việt Nam
về an ninh trong đối ngoại tiếp tục được hoàn thiện, thể hiện qua những nội dung sau:
An ninh trong đối ngoại là một trụ cột quan trọng của chiến lược an ninh quốc gia.
Việt Nam nhận thức rằng, an ninh quốc gia không chỉ được bảo đảm bởi sức mạnh quân
sự mà còn cần được bảo đảm bởi sức mạnh tổng hợp, trong đó có sức mạnh đối ngoại. Do
đó, an ninh trong đối ngoại được coi là một trong những trụ cột quan trọng của chiến lược
an ninh quốc gia.
An ninh trong đối ngoại là sự hịa hợp giữa lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế. Việt
Nam coi an ninh là một vấn đề mang tính tồn cầu, khơng thể tách rời với an ninh của các
quốc gia khác. Do đó, Việt Nam ln chủ trương xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với
các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, vì lợi ích
hịa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001).
An ninh trong đối ngoại là sự kết hợp giữa sức mạnh mềm và sức mạnh cứng. Việt
Nam nhận thức rằng, sức mạnh mềm đóng vai trị quan trọng trong việc tạo dựng mơi
trường hịa bình, ổn định và thuận lợi cho phát triển. Do đó, Việt Nam luôn chú trọng
phát triển sức mạnh mềm thông qua các hoạt động ngoại giao văn hóa, giáo dục, khoa
học, cơng nghệ,...
An ninh trong đối ngoại là sự kết hợp giữa chính trị và kinh tế. Việt Nam nhận thức
rằng, kinh tế là nền tảng của an ninh. Do đó, Việt Nam luôn coi trọng phát triển kinh tế,
hội nhập quốc tế, thu hút nguồn lực bên ngoài để tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc
gia.
Những thay đổi trong nhận thức của Việt Nam về an ninh trong đối ngoại trong giai

đoạn này đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an ninh quốc gia và xây dựng đất
nước.
Cụ thể, trong giai đoạn này, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong
việc tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng và các nước lớn. Việt
Nam đã ký kết nhiều hiệp ước và thỏa thuận hợp tác với các nước láng giềng và các nước
lớn, tạo dựng nền tảng vững chắc cho quan hệ hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển. Việt
Nam cũng đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, tích cực tham gia các hoạt động
hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, an ninh,...
Những thành tựu này đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc an ninh
quốc gia và xây dựng đất nước.
Một số ví dụ cụ thể về những thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm an ninh
trong đối ngoại trong giai đoạn này bao gồm:

7


 Việt Nam đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác toàn diện với Trung Quốc
(2001), Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với Lào (2009), Hiệp ước Hữu nghị
và Hợp tác với Campuchia (2015),... tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc cho
quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam và các nước láng giềng.
 Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) (2007), Diễn
đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) (1998), Hiệp hội các
quốc gia Đơng Nam Á (ASEAN) (1995),... tham gia tích cực vào các hoạt
động hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, an ninh,...
 Việt Nam đã thực hiện thành cơng các chiến dịch gìn giữ hịa bình của Liên
Hợp Quốc tại Nam Xu-đăng (2014 - 2015), Cộng hòa Trung Phi (2015 2016), Cộng hòa Trung Phi (2019 - nay),... góp phần vào việc gìn giữ hịa
bình, ổn định ở khu vực và thế giới.
Những thành tựu này đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc an ninh
quốc gia và xây dựng đất nước.
3.3

Giai đoạn đại hội Đảng X – XIII
Trong giai đoạn từ Đại hội Đảng X đến Đại hội Đảng XIII, nhận thức của Việt Nam
về an ninh trong đối ngoại tiếp tục được bổ sung, phát triển, thể hiện qua những nội dung
sau:
 Tăng cường hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả. Việt
Nam coi hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu, là động lực quan trọng để
phát triển đất nước. Do đó, Việt Nam đã tích cực hội nhập quốc tế trên tất cả
các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực an ninh.
 Phát huy vai trò của các nước láng giềng và các nước lớn trong bảo đảm an
ninh quốc gia. Việt Nam coi các nước láng giềng và các nước lớn là những
đối tác quan trọng trong bảo đảm an ninh quốc gia. Do đó, Việt Nam đã tích
cực xây dựng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng
giềng và các nước lớn.
 Ứng phó hiệu quả với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Việt Nam
nhận thức rõ rằng, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đang ngày càng
gia tăng, đa dạng. Do đó, Việt Nam đã chú trọng xây dựng tiềm lực, năng lực
ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Những thay đổi trong nhận thức của Việt Nam về an ninh trong đối ngoại trong giai
đoạn này đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an ninh quốc gia và xây dựng đất
nước.
Cụ thể, trong giai đoạn này, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong
việc hội nhập quốc tế trên lĩnh vực an ninh. Việt Nam đã tham gia nhiều cơ chế, diễn đàn
an ninh khu vực và quốc tế, tích cực đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề an ninh khu
vực và thế giới. Việt Nam cũng đã xây dựng và triển khai nhiều cơ chế hợp tác an ninh
với các nước láng giềng và các nước lớn, góp phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn
định cho phát triển (TS Đinh Thanh Tú, ThS Trần Thị Huyền Trang, 2021).

8



Một số ví dụ cụ thể về những thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm an ninh
trong đối ngoại trong giai đoạn này bao gồm:
 Việt Nam đã tham gia tích cực vào các hoạt động gìn giữ hịa bình của Liên
Hợp Quốc, góp phần vào việc gìn giữ hịa bình, ổn định ở khu vực và thế
giới.
 Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp ước và thỏa thuận hợp tác an ninh với các
nước láng giềng và các nước lớn, tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc cho hợp
tác an ninh.
 Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động hợp tác an ninh với các nước láng
giềng và các nước lớn, góp phần nâng cao năng lực bảo vệ an ninh quốc gia.
Những thành tựu này đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an ninh quốc gia và
xây dựng đất nước.
Tóm lại, nhận thức của Việt Nam về an ninh trong đối ngoại đã có những thay đổi
tích cực, từ tư duy "bạn - thù" sang tư duy hịa bình, hợp tác, từ an ninh quốc phịng
truyền thống sang an ninh tồn diện. Những thay đổi này đã góp phần quan trọng vào
việc bảo đảm an ninh quốc gia và xây dựng đất nước.
4.
Kết quả đã đạt được
Giai đoạn đổi mới, hội nhập quốc tế, Việt Nam luôn quan tâm đến vấn đề an ninh
song song với đối ngoại, qua đó đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật:
An ninh trong đối ngoại là sự hịa hợp giữa lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế. Việt
Nam coi an ninh là một vấn đề mang tính tồn cầu, khơng thể tách rời với an ninh của các
quốc gia khác. Do đó, Việt Nam ln chủ trương xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với
các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, vì lợi ích
hịa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
An ninh trong đối ngoại là sự kết hợp giữa sức mạnh mềm và sức mạnh cứng. Việt
Nam nhận thức rằng, sức mạnh mềm đóng vai trị quan trọng trong việc tạo dựng mơi
trường hịa bình, ổn định và thuận lợi cho phát triển. Do đó, Việt Nam luôn chú trọng
phát triển sức mạnh mềm thông qua các hoạt động ngoại giao văn hóa, giáo dục, khoa
học, cơng nghệ,...

An ninh trong đối ngoại là sự kết hợp giữa chính trị và kinh tế. Việt Nam nhận thức
rằng, kinh tế là nền tảng của an ninh. Do đó, Việt Nam luôn coi trọng phát triển kinh tế,
hội nhập quốc tế, thu hút nguồn lực bên ngoài để tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc
gia.
Căn cứ vào những nhận thức trên, Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động đối ngoại
nhằm bảo đảm an ninh quốc gia. Một số hoạt động tiêu biểu bao gồm:
Tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng và các nước lớn.
Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp ước và thỏa thuận hợp tác với các nước láng giềng và các
nước lớn, tạo dựng nền tảng vững chắc cho quan hệ hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển.
9


Đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế và khu
vực, tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa,
an ninh,...
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh. Việt Nam luôn coi trọng xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Nhận thức của Việt Nam về an ninh trong đối ngoại đã có những thay đổi tích cực,
góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia và xây dựng đất nước.
III. Kết luận
1. Ưu điểm của nhận thức về an ninh trong đối ngoại của Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới
Trong công tác hội nhập quốc tế, vấn đề an ninh quốc phịng ln ln được Việt
Nam quan tâm hàng đầu. Thông qua các chỉ đạo sát sao, nghiên cứu trọng điểm, dễ dàng
nhận thấy rằng, Việt Nam đã thay đổi nhận thức về công tác an ninh trong đối ngoại sau
thời kỳ đổi mới và đã đạt được nhiều thành tựu lớn.
Hầu hết các cơ quan chức năng đều đồng lòng phối hợp thúc đẩy hội nhập quốc tế,
đồng thời đảm bảo an ninh quốc gia. Công tác an ninh trong đối ngoại là công tác tổng
hợp, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, bao gồm Bộ Ngoại giao,
Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an, các cơ quan an ninh,... Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ

quan chức năng đã góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác an ninh trong đối ngoại.
Việt Nam tích cực tham gia các cơ chế an ninh của khu vực, quốc tế, tăng cường
hợp tác an ninh cùng các nước láng giềng như Lào, Cam-pu-chia, Trung Quốc,… Điều
này đã góp phần tăng cường hợp tác an ninh với các nước trong khu vực và trên thế giới,
góp phần bảo vệ an ninh quốc gia và khu vực, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định,
phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển đất nước.
2. Hạn chế nhận thức về an ninh trong đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới
Cơ sở pháp lý cho cơng tác an ninh trong đối ngoại cịn chưa đầy đủ, đồng bộ.
Hiện nay, công tác an ninh trong đối ngoại của Việt Nam được điều chỉnh bởi nhiều
văn bản pháp luật khác nhau, như Luật An ninh quốc gia, Luật Quốc phịng, Luật Cơng
an nhân dân,... Tuy nhiên, các văn bản này vẫn còn một số điểm chưa đầy đủ, đồng bộ,
chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Điều này dẫn đến tình trạng khó khăn trong việc áp dụng
pháp luật vào thực tiễn, gây khó khăn cho công tác bảo đảm an ninh trong đối ngoại.
Công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong công tác an ninh trong đối
ngoại chưa thật sự chặt chẽ.
Công tác an ninh trong đối ngoại là công tác tổng hợp, cần có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan chức năng, bao gồm Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an, các
cơ quan an ninh,... Tuy nhiên, trong thực tế, công tác phối hợp giữa các cơ quan chức
năng này còn chưa thật sự chặt chẽ, chưa phát huy hết hiệu quả. Điều này dẫn đến tình
10


trạng chồng chéo, trùng lắp trong cơng tác, gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện
nhiệm vụ.
Công tác nghiên cứu, dự báo tình hình an ninh trong đối ngoại chưa thật sự
hiệu quả.
Để chủ động, linh hoạt trong ứng phó với các thách thức an ninh, cơng tác nghiên
cứu, dự báo tình hình an ninh trong đối ngoại là rất quan trọng. Tuy nhiên, trong thực tế,
công tác này còn chưa thật sự hiệu quả, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Điều này dẫn

đến tình trạng khơng nắm bắt kịp thời, chính xác tình hình an ninh, gây khó khăn cho
việc triển khai các biện pháp bảo đảm an ninh trong đối ngoại.
3. Một số kinh nghiệm về nhận thức an ninh trong đối ngoại của Việt Nam
trong giai đoạn sau đổi mới
Trong giai đoạn sau đổi mới, từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã có nhiều thay đổi
trong nhận thức về vấn đề an ninh trong đối ngoại, đất nước ta đã có những kinh nghiệm
quan trọng về nhận thức an ninh trong đối ngoại, được đúc kết từ thực tiễn lịch sử và
những bài học từ các nước khác. Những kinh nghiệm này đã góp phần quan trọng vào
việc bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định cho
đất nước. Thứ nhất, Đảng và nhà nước khẳng định nhận thức an ninh quốc gia phải gắn
liền với lợi ích quốc gia - dân tộc. Thứ hai, đối ngoại phải là một trong những giải pháp
quan trọng để bảo vệ an ninh quốc gia. Bên cạnh đó, kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại
chính trị, đối ngoại kinh tế, đối ngoại quốc phòng, an ninh. Đồng thời, chúng ta cần phát
huy vai trò của nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Tuyên giáo Trung ương, 2020. “Những thành tựu nổi bật 75 năm nước Cộng hịa
XHCN Việt Nam”. Tạp chí Ban Tun giáo Trung ương. />Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001. “Văn kiện Đảng tồn tập”, t.47, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.561.
Lê Công Phụng, 2011. “Kết hợp đối ngoại với quốc phòng-an ninh trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay”. Tạp chí Quốc phịng tồn dân.
/>Lê Thế Mẫu, 2023. “Thế giới - nhìn từ khái niệm chính sách đối ngoại mới của Liên
bang Nga”. Tạp chí Quốc phịng tồn dân. />Luật An ninh Quốc gia, 2004. Quốc Hội Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
số 32/2004/QH11 ngày 3/2/2004. />
11


TS. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2017) Đối ngoại đa phương Việt Nam trong thời kỳ chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật (tr.13-56)
TS. Đinh Thanh Tú, ThS Trần Thị Huyền Trang, 2021. “Quá trình đổi mới tư duy đối
ngoại đa phương của Đảng từ Đại hội VI đến nay” Tạp chí điện tử Lý luận Chính

trị.
/>Trần Đức Tiến, 2022. “Tư duy mới về tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng”.
Tạp chí Cộng sản. />
12



×