Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Một số vấn đề pháp lý về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 53 trang )

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

BÀI KIỂM TRA ĐỊNH KỲ
TƯ PHÁP QUỐC TẾ

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM

HÀ NỘI – 2023


HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

BÀI KIỂM TRA ĐỊNH KỲ
TƯ PHÁP QUỐC TẾ

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn : TS. Mai Hải Đăng
Chủ nhiệm đề tài

: Lưu Hữu Thắng - 2105TTRB055

Thành viên nhóm

: Danh kèm theo ở cuối bài

Mã lớp học phần



: SLF2015_2105TTR_D1_HK2_2223_21.1_LT

HÀ NỘI - 2023


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học môn Tư pháp quốc tế nhóm tác giả đã được thầy TS.
Mai Hải Đăng truyền đạt cho những kiến thức lý luận nhưng chưa có nhiều cơ hội
va chạm thực tiễn, qua bài kiểm tra đánh giá định kỳ, nhóm tác giả đã có cơ hội tìm
hiểu sâu hơn về học phần Tư pháp quốc tế, mơn đem lại nhiều lợi ích cho quá trình
thi và phục vụ cho chúng em sau khi ra trường làm việc.
Nhóm tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến TS. Mai Hải Đăng đã
chỉ bảo tận tình giúp đỡ chúng em trong quá trình học và thi kết thúc học phần.
Nhưng do chưa có nhiều kinh nghiệm nên bài vẫn cịn nhiều thiếu sót trong
q trình tìm hiểu, nghiên cứu và trình bày, chúng em mong nhận được sự đóng góp
ý kiến của thầy để bài nhóm em hồn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 23 tháng 01 năm 2023
TM. NHÓM TÁC GIẢ

Lưu Hữu Thắng


LỜI CAM ĐOAN
Nhóm tác giả xin cam đoan đề tài nghiên cứu khoa học “Một số vấn đề pháp lý
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế Việt Nam” là cơng trình

nghiên cứu của riêng chúng tôi. Nội dung của đề tài dựa trên quan điểm cá nhân và
sự thống nhất giữa các thành viên nhóm tơi, trên cơ sở lý luận, khảo sát thực tiễn với
sự hướng dẫn của TS. Mai Hải Đăng giảng viên bộ môn Tư pháp quốc tế.

Các số liệu được trình bày trong đề tài là nguồn số liệu mà nhóm chúng tơi
khảo sát thực tiễn để có được. Khơng sao chép bất kì cơng trình nghiên cứu của tác
giả nào. Các số liệu kết quả trong đề tài đều trung thực và rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 23 tháng 01 năm 2023
TM. NHÓM TÁC GIẢ

Lưu Hữu Thắng


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 2
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................... 2
5. Đóng góp của đề tài ................................................................................................... 3
6. Kết cấu của đề tài ...................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN VỀ
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG ....................................................... 4
1.1. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu trong nước .............................................. 4
1.2. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu nước ngồi .............................................. 4
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................................. 5
CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ ............................. 6
2.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................................ 6
2.1.1. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng .............................................................. 6
2.1.2. Bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có yếu tố nước ngồi .......................... 7

2.2. Đặc điểm bồi thường thiệt ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế ................... 9
2.3. Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt ngoài hợp đồng
trong tư pháp quốc tế ...................................................................................................... 16
2.4. Ý nghĩa bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có yếu tố nước ngồi ................ 17
2.5. Cơ sở pháp lý điều chỉnh bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có yếu tố nước
ngồi ở Việt Nam ............................................................................................................. 19
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................................ 20
CHƯƠNG 3. QUY ĐỊNH VÀ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM ................... 21
3.1. Quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hợp ngoài hợp đồng
trong tư pháp quốc tế Việt Nam ..................................................................................... 21


3.1.1. Quy định của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên ................ 21
3.1.2. Quy định của Việt Nam ................................................................................. 26
3.2. Thực trạng giải quyết về bồi thường thiệt hợp ngoài hợp đồng trong tư pháp
quốc tế Việt Nam.............................................................................................................. 35
3.2.1. Thực trạng pháp luật ..................................................................................... 35
3.2.2. Thực tiễn giải quyết về bồi thường thiệt hợp ngoài hợp đồng trong tư pháp
quốc tế Việt Nam ............................................................................................................... 37
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................................ 39
CHƯƠNG 4. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM ................... 39
4.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý .................................................................................. 39
4.2. Nâng cao năng lực của cán bộ trong các cơ quan áp dụng pháp luật Việt Nam
........................................................................................................................................... 40
4.3. Nâng cao cơ sở vật chất .................................................................................... 41
Tiểu kết chương 4 ............................................................................................................ 41
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................... 44

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1
2
3
4
5
6

UDHR
ECHR

Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
Hiến chương Châu âu về quyền con người

ICCPR
ICESCR
BLHS
BLDS

Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị
Cơng ước quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa

Bộ luật Hình sự
Bộ luật Dân sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại, hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay mối quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi là một tất yếu. Hiện nay, đa số quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi được giao
dịch thơng qua hợp đồng, thực tế q trình thực hiện hợp đồng khơng phải lúc nào cũng
thuận lợi mà sẽ có những thiệt hại pháp sinh ngồi nội dung hợp đồng. Vì vậy, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã trở thành một vấn đề pháp lý mang tính chất quốc
tế, là một nội dung quan trong thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế.
Khoản 2 Điều 30 Hiến pháp 2013 quy định: “Người bị thiệt hại có quyền được bồi
thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật”. Với cơ
sở pháp lý cao nhất được quy định tại Hiến pháp thì bất kỳ chủ thể nào cũng phải khi xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền lợi hợp pháp
của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho những thiệt đã gây ra khơng phụ
thuộc vào chủ thể đó là ai. Hơn thế nữa, Việt Nam và một số quốc gia có ký kết Hiệp định
tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự, cũng có các điều khoản quy
định liên quan tới vấn đề giải quyết các tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trong Tư pháp quốc tế
Xuất phát từ nguyên tắc mang tính nền tảng được quy định trong Hiến pháp, bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế đã được Bộ luật Dân sự 2015 và
các Điều ước quốc tế đề cập tương đối chi tiết. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng đã bộc
lộ ra những hạn chế làm cho quá trình giải quyết quan hệ này tỏ ra khó khăn và cần khắc
phục tình trạng này nhằm đảm bảo các quan hệ dân sự quốc tế được thuận lợi, đảm bảo
được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể của Tư pháp quốc tế, góp phần hồn thiện
các quy định của Tư pháp quốc tế Việt Nam.
Chính vì những lý do trên, thúc đẩy nhóm tác giả chọn vấn đề “Một số vấn đề pháp
lý về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế” làm đề tài nghiên cứu.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực trạng về quyền tự do ngơn luận qua đó đề xuất
giải pháp nâng cao quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
1


- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng có yếu tố nước ngồi
- Đánh giá thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
có yếu tố nước ngồi.
- Đề xuất giải pháp hồn thiện quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong Tư pháp quốc tế Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc
tế.
3.2. Phạm vị nghiên cứu:
- Thời gian: 2013-2023
- Nội dung: tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp luật và thực trạng pháp luật
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học xã hội để
giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Cụ thể:
Chương 1. Nhóm tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp tổng
hợp và phương pháp phân tích. Qua thống kê và tổng hợp các cơng trình nghiên trong nước
và người nước về những vấn đề liên quan đến đề tài. Nhóm tác giả phân tích các cơng trình
nghiên cứu đó và đưa ra đánh giá về tình hình nghiên cứu.
Chương 2. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh để đưa ra các khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và giải quyết xung đột

pháp luật về bồi thường thiệt ngồi hợp đồng trong tư pháp quốc tế.
Chương 3. Nhóm tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp
tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh để đánh
giá quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hợp ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế;
đặc biệt đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hợp ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế Việt Nam.
Chương 4. Đề tài sử dụng phương pháp phân tích - dự báo, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử và phương pháp thống kê; làm rõ những yêu
cầu đặt ra từ đó đưa ra các giải pháp hồn thiện quy định về thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong tư pháp quốc tế Việt Nam.
2


5. Đóng góp của đề tài
- Về lý luận: Đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế.
- Về thực tiễn:
Cung cấp cái nhìn khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong
tư pháp quốc tế, làm cơ sở cho việc tiếp tục nâng cao hiệu quả giải quyết xung đột ngoài
hợp đồng trong tư pháp quốc tế.
Chỉ ra những thực trạng đang tồn tại để thấy được những ưu điểm và hạn chế trong
pháp luật và áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong
tư pháp quốc tế ở Việt Nam.
Trên cơ sở lý luận và thực trạng, đề xuất giải pháp thiết thực góp hồn thiện quy định
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài có kết cấu 4 chương:
Chương 1. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng
Chương 2. Những vấn đề lý luận, pháp lý về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

trong tư pháp quốc tế
Chương 3. Quy định và thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong tư pháp quốc tế Việt Nam
Chương 4. Giải pháp hoàn thiện quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trong tư pháp quốc tế Việt Nam

3


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN VỀ
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
1.1. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu trong nước
Pháp luật về bồi thường thiệt hại có yếu tố nước ngồi là một chế định quan trọng của
tư pháp quốc tế nên đã có nhiều nhà luật học, nhà nghiên cứu quan tâm và có các đề tài
nghiên cứu, bài viết trên tạp chí, khóa luận có đề cập tới vấn đề này, tiêu biểu như:
- Luận văn, khóa luận tốt nghiệp:

Đề tài “Một số vấn đề về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế
Việt Nam”, của Nguyễn Thị Gấm, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học luật Hà Nội năm
2010. [1]
- Đề tài nghiên cứu khoa học

Trường Đại học Luật Hà Nội, Trần Thị Huệ (chủ nhiệm), “Trách nhiệm dân sự do
tài sản gây thiệt hại – vấn đề lý luận và thực tiễn”, Đề tài khoa học cấp trường năm 2009.
[2]
- Các bài viết trên tạp chí:
Bài viết “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có yếu tố nước ngồi theo
quy định của pháp luật Việt Nam - Những bất cập và hướng hoàn thiện” của TS. Nguyễn
Hồng Bắc và Lê Thị Bích Thủy đăng trên Tạp chí luật học số 04/2014. [3]
Bài viết “Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc

tế hiện đại” của PGS. TS. Nguyễn Bá Diến đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện
Nhà nước và pháp luật số 04/2007. [4]
Bài viết “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của tác giả Nguyễn Văn Cương –
Chu Thị Hoa, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ tư pháp đăng trên Tạp chí nghiên cứu
lập pháp số 4/2005. [5]
Bài viết “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự
của Cộng hòa Pháp” của ThS. Trần Ngọc Dương đăng trên Tạp chí luật học số 01/2009.
[6]
1.2. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu nước ngồi
Do phạm vi và thời gian nghiên cứu của đề tài tư pháp quốc tế Việt Nam nên nhóm
tác giả chỉ tìm thấy các các cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam nghiên cứu về vấn đề này.

4


Tiểu kết chương 1
Tóm lại, chương 1 nhóm tác giả đã trình bày tổng quan các cơng trình nghiên cứu
liên quan đến bồi thường thiệt ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế. Đó là các cơng trình
trong và ngồi nước. Qua các phương pháp thống kê phân tích đánh giá tổng hợp những
nội dung có liên quan đến đề tài từ đó cho thấy cái nhìn khách quan đa dạng phong phú
hơn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế.

5


CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
2.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Theo định nghĩa nêu trong Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và bồi thường thiệt hại

ngồi hợp đồng thì “trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó khơng có
quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi của chủ thể gây thiệt hại
không thuộc về nghĩa vụ thi hành hợp đồng đã ký”1 [7], hay như trong Giáo trình Luật dân
sự Việt Nam, tập 2 định nghĩa như sau “một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa
trên các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ thể có hành vi gây hại cho các lợi ích
được pháp luật bảo vệ”2 [8]
Có thể thấy, với khái niệm được đưa ra trong Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và
bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng thì khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng được đưa ra dựa trên cơ sở có hợp đồng liên quan tới thiệt hại được gây ra; định
nghĩa này không bao hàm tới những yếu tố liên quan tới bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng như yếu tố lỗi, yếu tố đối tượng bị xâm phạm. Còn trong cách đưa ra định nghĩa
trong Giáo trình luật dân sự tập 2, thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng
khơng đưa ra một cách chi tiết về điều kiện phát sinh mà chỉ nêu rằng “điều kiện do pháp
luật quy định”, ở đây tác giả chỉ tập trung về khía cạnh đối tượng bị xâm phạm có thuộc
các đối tượng được pháp luật bảo vệ hay khơng; vì thế đối với định nghĩa này, khi áp dụng
để tìm hiểu về mặt lý luận của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng thì cần phải
tìm hiểu thêm nữa về việc pháp luật có quy định thế nào về các điều kiện được coi là cơ
sở để xác định yếu tố ngoài hợp đồng cũng như các yếu tố khác của loại hình trách nhiệm
này.
Về mặt bản chất, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một
chế định của pháp luật dân sự có tính cưỡng chế đối với đối tượng gây thiệt hại có đủ năng
lực hành vi dân sự được áp dụng trong trường hợp các thiệt hại phát sinh không dựa trên
cơ sở tự do thỏa thuận giữa các bên; theo đó, các thiệt hại phát sinh phải được bồi thường
1

Xem Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng- Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam,

của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2013 – Trang 434
2


Xem Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2 - , Nhà xuất bản Giáo dục của TS. Lê Đình Nghị (chủ biên) năm 2009 – Trang 191.

6


toàn bộ và kịp thời bởi đối tượng gây thiệt hại. Tuy nhiên, trên cơ sở tôn trọng thỏa thuận
của các bên, pháp luật có quy định các bên trong quan hệ pháp luật dân sự này (cụ thể là
chủ thể bị thiệt hại và chủ thể gây thiệt hại) được quyền thỏa thuận về mức bồi thường,
hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức
bồi thường một lần hoặc nhiều lần.
Các quan hệ dân sự trong xã hội hiện tại rất phong phú, đa dạng về chủ thể, khách
thể, nội dung, cách thức phát sinh, quyền, lợi ích và nghĩa vụ của các bên. Thông thường
một quan hệ pháp luật dân sự sẽ không gặp phải những “rắc rối” về mặt pháp luật nếu các
quyền và nghĩa vụ đều được các bên trong quan hệ đó thực hiện đầy đủ. Tuy nhiên, trên
thực tế, một quan hệ dân sự ln có thể phát sinh những thiệt hại vì nhiều nguyên nhân
khách quan (như thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh), hoặc cũng có thể do nguyên nhân chủ
quan (như bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trên cơ
sở hợp đồng dân sự).
Về mặt pháp luật, theo quy định tại khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì
trường hợp được coi là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
là khi một chủ thể có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của một chủ thể khác mà việc gây thiệt hại này phải
bồi thường. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rằng trong
trường hợp thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi của chủ thểbị thiệt hại
thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng sẽ khơng phát sinh; và tại khoản 3
Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ
sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Có thể thấy
đây là các trường hợp ngoại lệ trong vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Và đặc
biệt theo quy định tại khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì đây là một điểm mới
so với các quy định trong bộ luật dân sự trước đây, thể hiện cách nhìn nhận vấn đề cơng

bằng hơn, đặt quyền, lợi ích và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong vấn đề bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng cân bằng và bình đẳng hơn bởi lẽ theo quy định trước kia, các quy
định của pháp luật không đề cập tới trường hợp do sự kiện bất khả kháng và thiệt hại do
lỗi của chủ thể bị thiệt hại thì khơng phải bồi thường, mà mặc nhiên thừa nhận rằng cứ
trường hợp có hành vi gây ra thiệt hại ngồi hợp đồng thì chủ thể gây ra thiệt hại phải bồi
thường.
2.1.2. Bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có yếu tố nước ngoài
7


Theo quy định tại khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài.
Căn cứ nội dung của quy định này, thì việc xác định yếu tố nước ngoài cần phải dựa
trên cơ sở quốc tịch của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự nói chung và trong quan
hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng nói riêng.
Ví dụ: một bên trong quan hệ dân sự có quốc tịch Việt Nam, bên cịn lại trong quan
hệ dân sự có quốc tịch Nhật Bản; hoặc đối với trường hợp pháp nhân thì một bên trong
quan hệ dân sự đó là cơng ty được thành lập và có trụ sở chính tại Việt Nam, bên cịn lại
trong quan hệ dân sự đó là một cơng ty được thành lập và có trụ sở chính tại Pháp.
Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác
lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài.
Trường hợp này được hiểu là nếu các cá nhân hoặc pháp nhân đều có quốc tịch Việt
Nam nhưng có quan hệ bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng tại nước ngồi thì được coi
là một trong những trường hợp bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có yếu tố nước ngồi.
Ví dụ: anh Nguyễn Văn A – cơng dân Việt Nam, du lịch tại Thái Lan, do uống q
nhiều rượu dẫn đến tình trạng mất kiểm sốt hành vi đã gây thiệt hại tới sức khỏe của chị
Trần Thị B – công dân Việt Nam, cũng đang du lịch tại Thái Lan; theo đó ở trường hợp
này, cả anh A và chị B đều là công dân Việt Nam, nhưng phát sinh quan hệ dân sự tại Thái
Lan nên được coi là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, mà cụ thể ở đây là quan hệ bồi

thường thiệt hại ngồi hợp đồng có yếu tố nước ngoài do xâm phạm sức khỏe của chị B.
Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng
của quan hệ dân sự đó ở nước ngồi.
Ở đây yếu tố nước ngồi được xác định dựa vào đối tượng của quan hệ dân sự chứ
không dựa vào quốc tịch của chủ thể hay nơi tồn tại quan hệ dân sự bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng như hai trường hợp kể trên.
Ví dụ: công ty A – quốc tịch Việt Nam bán sản phẩm tại thị trường Hàn Quốc, công
ty B – quốc tịch Việt Nam cũng bán sản phẩm có mẫu mã tương tự sản phẩm của công ty
A tại thị trường Hàn Quốc nhưng chất lượng kém hơn, điều này gây ảnh hưởng tới danh
tiếng của công ty A ở thị trường Hàn Quốc, do đó hai bên phát sinh tranh chấp liên quan
đến việc tiêu thụ sản phẩm của mình tại thị trường Hàn Quốc.

8


Có thể thấy định nghĩa về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi theo Bộ luật Dân sự
năm 2015 về cơ bản cũng tương tự với định nghĩa về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi
theo Bộ luật dân sự năm 2005, đó là đều xác định trên cơ sở quốc tịch, nơi tồn tại quan hệ
dân sự, nơi có đối tượng của quan hệ dân sự. Tuy nhiên, phạm vi chủ thể theo Bộ luật Dân
sự năm 2015 hẹp hơn so với Bộ luật dân sự năm 2005, cụ thể là theo Điều 758 Bộ luật dân
sự năm 2005 thì các chủ thể trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi là “cơ quan, tổ
chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngồi,… cơng dân, tổ chức Việt
Nam”, cịn theo Bộ luật Dân sự năm 2015 thì chủ thể ở đây là “cá nhân, pháp nhân”.
Theo tác giả, có sự điều chỉnh về quy định liên quan tới các chủ thể trong quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015 xuất phát từ thực trạng của
pháp luật Việt Nam, mà theo đó khơng có bất kỳ điều khoản nào đưa ra định nghĩa hoặc
giải thích về khái niệm “cơ quan, tổ chức”, vì vậy khi áp dụng trên thực tế, để xác định tư
cách chủ thể thì khơng có căn cứ để xác định đó là cơ quan hay tổ chức hay pháp nhân.
Như vậy, căn cứ theo Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng có yếu tố nước ngồi là nghĩa vụ dân sự của một chủ thể không căn cứ

theo một thỏa thuận dân sự hoặc một hợp đồng dân sự có liên quan, phát sinh khi có hành
vi trái pháp luật, mà theo đó gây ra các thiệt hại về mặt vật chất hoặc tinh thần cho các
chủ thể khác đồng thời thỏa mãn một trong các điều kiện sau đây: (i) Quan hệ có sự
tham gia của ít nhất một chủ thể là: cá nhân, pháp nhân nước ngoài; (ii) Sự kiện pháp lý
xảy ra ở nước ngoài; (iii) Đối tượng của quan hệ ở nước ngoài.
2.2. Đặc điểm bồi thường thiệt ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế
Bồi thường thiệt hại có yếu tố nước ngồi cũng là một quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngồi, do vậy nó cũng có đầy đủ đặc điểm của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi. Tư
pháp quốc tế Việt Nam đưa ra ba dấu hiệu cơ bản để xác định một quan hệ dân sự là một
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi.
Thứ nhất, dấu hiệu quốc tịch của chủ thể
Đặc điểm nổi bật đầu tiên của các quan hệ xã hội được Tư pháp quốc tế điều chỉnh là
yếu tố nước ngoài của các quan hệ này. Yếu tố nước ngoài đầu tiên phải kể đến đó là điểm
khác biệt về chủ thể (chủ thể không cùng quốc tịch, không cùng nơi cư trú và cũng khơng
có cùng trụ sở trong một quốc gia). Chủ thể đó có thể là cá nhân, pháp nhân, nhà nước.
Theo Điều 4 Luật Thái Lan (Luật B.E.2508) quy định: “Người nước ngồi là người khơng
có quốc tịch Thái Lan”. Như vậy, theo cách quy định này thì đối tượng được coi là người
9


nước ngoài theo pháp luật Thái Lan sẽ bao gồm những người có quốc tịch nước ngồi và
người khơng có quốc tịch. Cách hiểu này cũng tương tự nhu các quy định của pháp luật
Việt Nam. Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành các quy định của BLDS về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi quy định: “Người
nước ngồi là người khơng có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngồi
và người khơng quốc tịch”. Trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại khác quốc tịch
thì quan hệ bồi thường này sẽ chịu điều chỉnh của Tư pháp quốc tế. Tuy nhiên, cách thức
xác định quốc tịch, nơi cư trú của cá nhân hay xác định trụ sở của pháp nhân theo pháp luật
của các nước cũng có nhiều điểm khác nhau. BLDS và Thương mại Thái Lan quy định:
“Nếu một thể nhân có nhiều nơi cư trú khác nhau hoặc nhiều chỗ làm việc thường xuyên

khác nhau thì một trong số nơi cư trú hoặc chỗ làm việc này phải được coi như là nơi cư
trú pháp lý của người đó”, “nếu khơng rõ nơi cư trú pháp lý thì nơi cư trú hiện tại sẽ được
coi như nơi cư trú pháp lý của người đó” (Điều 44, 45, 46). BLDS Việt Nam năm 2005 và
năm 2015 đều quy định: “Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống”
(Điều 25 BLDS năm 2005 và Điều 40 BLDS năm 2015). Điều 12 Luật Cư trú năm 2011
quy định: “Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp người đó thường xuyên sinh sống.
Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc tạm trú”. Như vậy, pháp luật Việt Nam và
Thái Lan cũng có điểm tương đồng khi xác định nơi cư trú của cá nhân khi cùng dựa trên
cơ sở là nơi có địa chỉ cư trú hay cịn gọi là nơi đăng ký thường trú (Việt Nam cịn gọi là
nơi có hộ khẩu). Trường hợp không xác định được nơi thường trú thì xác định theo nơi tạm
trú. Đối với pháp nhân thì sự khác biệt thể hiện ở quốc tịch hay nơi có trụ sở của pháp
nhân. Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về căn cứ xác định quốc tịch của pháp
nhân. Phần lớn các quốc gia Châu Âu xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi đặt trung
tâm quản lý của pháp nhân như Pháp, Italia, Thụy Sĩ…Các nước theo hệ thống luật Anh –
Mỹ (hay cịn gọi là hệ thống luật Ăng lơ – Xắc xông; Common Law) và một số nước Châu
Mỹ la tinh xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi đăng ký điều lệ, còn các nước ở khu
vực Ả Rập như Ai Cập, Syria…lại xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi kinh doanh,
sản xuất chính. Điều 676 BLDS năm 2015 quy định quốc tịch của pháp nhân như sau:
“Quốc tịch của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân thành
lập”. Với quy định này, pháp luật Việt Nam dựa vào dấu hiệu nơi thành lập pháp nhân để
xác định quốc tịch của pháp nhân. Pháp nhân thành lập ở đâu thì pháp luật nước đó sẽ là
căn cứ phát sinh để xác định quốc tịch của pháp nhân, ví dụ: Viettel là một doanh nghiệp
10


trong lĩnh vực viễn thông, thành lập ở Việt Nam nên Viettel mang quốc tịch nước nào sẽ
do pháp luật Việt Nam quy định. Pháp luật Việt Nam cụ thể là Điều 80 BLDS năm 2015
quy định: “Pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam là pháp nhân Việt Nam”.
Như vậy, Viettel thành lập ở Việt Nam sẽ là pháp nhân Việt Nam, hay Viettel có quốc tịch
Việt Nam. Khi Viettel mở rộng phạm vi hoạt động của mình khơng chỉ trên lãnh thổ Việt

Nam mà cịn ở nước ngoài, chẳng hạn Viettel thành lập một doanh nghiệp Y 100% vốn của
mình tại Lào, khi xem xét vấn đề quốc tịch của doanh nghiệp Y, cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam sẽ căn cứ vào Điều 676 BLDS năm 2015 để xác định quốc tịch của doanh
nghiệp Y.
Bên cạnh sự khác biệt về quốc tịch, trường hợp các bên đều là pháp nhân thì pháp
nhân phải có trụ sở ở các nước khác nhau. Điều 36 Bộ các nguyên tắc pháp luật dân sự
Trung Hoa quy định: “Một pháp nhân là một tổ chức có các quyền dân sự, năng lực dân
sự và độc lập hưởng các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật”,
“Trụ sở của pháp nhân là nơi đặt văn phịng chính” (Điều 39). Như vậy, pháp luật Trung
Quốc xác định trụ sở pháp nhân căn cứ vào nơi đặt cơ quan quản lý, điều hành của pháp
nhân; Điều 71 BLDS và Thương mại Thái Lan quy định: “Nơi cư trú pháp lý của một pháp
nhân là nơi mà pháp nhân có trụ sở chính của mình hoặc là nơi được lựa chọn làm nơi cư
trú pháp lý đặc biệt trong điều lệ hoặc trong văn bản thành lập pháp nhân đó. Nơi mà pháp
nhân có trụ sở chi nhánh cũng có thể được coi là nơi cư trú pháp lý của nó đối với những
hành vi thực hiện tại đó”. Khoản 1 Điều 79 BLDS năm 2015 của Việt Nam quy định: “Trụ
sở của pháp nhân là nơi đặt cơ quan điều hành của pháp nhân”. Do đó, cả pháp luật Việt
Nam, Trung Quốc hay Thái Lan cũng đều quy định trụ sở của pháp nhân theo nơi đặt cơ
quan điều hành của pháp nhân. Như vậy, trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong Tư pháp quốc tế, nếu các bên chủ thể là cá nhân thì phải có quốc tịch khác nhau
hoặc cư trú ở các quốc gia khác nhau; đối với pháp nhân thì phải có trụ sở hay quốc tịch
khác nhau. Trường hợp các bên chủ thể có cùng quốc tịch, cùng nơi cư trú hay trụ sở, hành
vi trái pháp luật lại được thực hiện trong nước thì khơng chịu sự điều chỉnh của Tư pháp
quốc tế mà sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự của mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ.
Vì vậy, trên cơ sở của pháp luật của pháp luật quốc tế cũng như trong nước, dấu hiệu
về chủ thể trong quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có yếu tố nước
ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam được quy định cụ thể như sau: nếu như BLDS
năm 2005 quy định “có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân
11



nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài” thì BLDS năm 2015 lại quy định “có
ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngồi”. Như vậy, đã có sự
thay đổi quan trọng về chủ thể tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi”.
Sự thay đổi đó là:
Một là, BLDS năm 2015 đã loại bỏ chủ thể “người Việt Nam định cư ở nước ngoài”.
Việc loại bỏ chủ thể này là hợp lý, bở lẽ người Việt Nam cư trú ở nước ngồi khơng phải
là một chủ thể mang yếu tố nước ngồi điển hình. Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật
Quốc tịch Việt Nam thì người Việt Nam cư trú ở nước ngồi vừa có thể là cơng dân Việt
Nam, vừa có thể là cơng dân nước ngoài gốc Việt Nam nhưng đã sinh sống, cư trú lâu dài
tại nước ngoài. Trong trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngồi là cá nhân nước
ngồi thì đây chính là đặc điểm của chủ thể trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi (yếu
tố quốc tịch) được quy định ở cả hai BLDS. Còn trong trường hợp người Việt Nam định
cư ở nước ngoài là cơng dân Việt Nam, khi đó quan hệ dân sự được thiết lập giữa hai bên,
một bên là người Việt Nam cư trú tại Việt Nam với một bên là cơng dân Việt Nam cư trú
tại nước ngồi, đây là dấu hiệu để xác định một quan hệ có hay khơng là quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngồi.
Hai là, BLDS năm 2015 đã thay cụm từ “cơ quan, tổ chức” nước ngoài thành “pháp
nhân” nước ngoài. Theo quy định của luật mới, chủ thể tham gia quan hệ dân sự nói chung
và quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi nói riêng chỉ là cá nhân và pháp nhân. Đây là một
sự thay đổi đã gây khá nhiều tranh cái của các chuyên gia pháp luật trong q trình xây
dựng BLDS năm 2015. Có ý kiến cho rằng, quy định như vậy là chưa đủ, bởi lẽ có những
chủ thể khơng phải là cá nhân, pháp nhân nhưng vẫn tham gia quan hệ dân sự quốc tế như:
Nhà nước, tổ chức quốc tế, hộ gia đình, tổ hợp tác…Tuy nhiên, nếu đánh giá theo hướng
khác, có thể thấy việc quy định như vậy là hợp lý. Bởi trong Lý luận về Nhà nước và Pháp
luật, Nhà nước được xác định một cách chung là “tổ chức quyền lực cơng cộng của tồn
xã hội , vì thế Nhà nước có vị thế tựa hồ như đứng trên xã hội, đứng trên giai cấp”
Do đó, về nguyên tắc, Nhà nước có quyền miễn trừ Tư pháp, bất khả xâm phạm, điều
này khiến cho Nhà nước không thỏa mãn điều kiện trở thành pháp nhân (điều kiện tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản của mình). Tuy nhiên, BLDS năm 2015 cũng đã quy định trách
nhiệm nghĩa vụ dân sự của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ Nghĩa Việt Nam, cơ quan Nhà

nước ở Trung ương, địa phương trong quan hệ dân sự giữa một bên là Nhà nước, cá nhân,
pháp nhân nước ngồi. Theo đó, Nhà nước Việt Nam trong các quan hệ dân sự với Nhà
12


nước, pháp nhân, cá nhân nước ngồi sẽ khơng cịn quyền miễn trừ Tư pháp trong một số
trường hợp. Khi khơng cịn quyền miễn trừ Tư pháp, Nhà nước tham gia vào quan hệ dân
sự với tư cách pháp nhân và hồn tồn bình đẳng với các cá nhân, pháp nhân khác. Tương
tự đối với các tổ chức quốc tế, tổ chức thỏa mãn điều kiện được công nhận là pháp nhân
theo Điều 74 BLDS năm 2015, có thể là pháp nhân thương mại (Điều 75 BLDS năm 2015)
hoặc pháp nhân phi thương mại (Điều 76 BLDS), đều có thể tham gia các quan hệ dân sự.
Trên thực tế, hầu hết các tổ chức kinh tế đều thỏa mãn các điều kiện trở thành pháp nhân
theo quy định trên. Riêng đối với hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức khơng có tư cách
pháp nhân khác khi tham gia quan hệ dân sự, sẽ tham gia với tư cách cá nhân, cá nhân đó
phải là các thành viên được bầu cử trong tổ chức đó hoặc được ủy quyền cho người khác.
Khoản 1 Điều 74 BLDS năm 2015 quy định điều kiện để một tổ chức được công nhận
là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: “a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật
này, luật khác có liên quan; b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật
này; c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản của mình; d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập”.
Điều 100 BLDS năm 2015 quy định: “1. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức
khác khơng có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia
đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thơng báo cho bên tham gia quan hệ dân
sự biết. Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách
pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người
đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện; 2.
Việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được

thực hiện theo quy định của Luật đất đai”
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý, quy định này khơng có nghĩa là hộ gia đình, tổ
hợp tác và các tổ chức khơng có tư cách pháp nhân khơng được tham gia quan hệ dân sự.
Cụm từ còn mơ hồ “cơ quan, tổ chức, pháp nhân nước ngoài” đã được loại bỏ và BLDS
năm 2015 đã sử dụng một khái niệm cụ thể, rõ ràng hơn đó là “cá nhân, pháp nhân nước
ngoài”. Theo quy định hiện hành, cá nhân nước ngồi hay cịn gọi là người nước ngồi bao
gồm cá nhân có quốc tịch nước ngồi và cá nhân khơng có quốc tịch, cịn pháp nhân nước
13


ngoài là pháp nhân được thành lập theo pháp luật nước ngồi. Khái niệm “pháp nhân nước
ngồi” tuy khơng được quy định ở BLDS năm 2005, nhưng tại BLDS năm 2015 nhưng lại
khẳng định là pháp nhân Việt Nam (hay nói cách khác là pháp nhân có quốc tịch Việt Nam)
là pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam.
Ở đây ta có thể hiểu, pháp nhân nước ngồi là pháp nhân không được thành lập theo
pháp luật Việt Nam (tức là theo pháp luật nước ngoài). Khoản 1 Điều 676 BLDS năm 2015
cũng quy định: “Quốc tịch của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp
nhân thành lập”. Hiện nay trên thế giới, các tiêu chí phổ biến được các quốc gia sử dụng
làm căn cứ để xác định quốc tịch của pháp nhân đó là: Theo trụ sở của pháp nhân (như
pháp luật của Đức, Pháp…); theo nơi đăng ký điều lệ của pháp nhân khi thành lập (như
pháp luật của Anh, Mĩ…). Theo quy định của pháp luật Việt Nam, những tổ chức đủ điều
kiện của pháp nhân quy định tại Điều 74 BLDS năm 2015, thành lập theo pháp luật Việt
Nam, tất cả những pháp nhân không phải pháp nhân Việt Nam đều được coi là pháp nhân
nước ngoài, quốc tịch của pháp nhân nước ngoài được xác định dựa vào nước nơi thành
lập pháp nhân.
Khoản 1 Điều 101 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác,
tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của
hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa

thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thơng báo cho bên tham gia quan
hệ dân sự biết”.
Điều 3 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP hướng dẫn BLDS về quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi quy định: “Người nước ngồi là người khơng có quốc tịch Việt Nam bao gồm
người có quốc tịch nước ngồi và người khơng quốc tịch; Pháp nhân nước ngoài là pháp
nhân được thành lập theo pháp luật nước ngoài”.
Điều 80 BLDS năm 2015 quy định về quốc tịch của pháp nhân “Pháp nhân được
thành lập theo pháp luật Việt Nam là pháp nhân Việt Nam”.
Với đặc điểm trên thì BLDS năm 2015 quy định tiến bộ hơn cả, tức là chỉ cần có một
bên tham gia quan hệ cá nhân, pháp nhân nước ngồi thì được coi là quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngồi. Theo đó, cá nhân nước ngồi là cá nhân khơng có quốc tịch Việt Nam, pháp
nhân nước ngồi là pháp nhân không được thành lập theo pháp luật Việt Nam.
14


Thứ hai, dấu hiệu nơi xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ hay còn
gọi là dấu hiệu sự kiện pháp lý.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một quan hệ dân sự cũng được coi là có yếu
tố nước ngồi nếu việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ xảy ra tại nước
ngồi. Trước đây, BLDS năm 1995 khơng coi quan hệ này là quan hệ có yếu tố nước ngồi.
Tuy nhiên, BLDS năm 2005 đã quy định rộng hơn những vẫn chưa đầy đủ và rõ ràng và
phải đến BLDS năm 2015 thì quy định này mới rõ ràng, cụ thể và hoàn thiện hơn khi thêm
(bổ sung) một hoạt động quan trọng trong quan hệ dân sự đó là việc “thực hiện” quan hệ
đó xảy ra tại nước ngồi (hoạt động này đã không được các bộ luật trước đó đề cập đến”.
BLDS năm 2005 quy định một trong các đặc điểm của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
là “căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngồi”. Việc quy
định từ “căn cứ” và “theo pháp luật nước ngồi” khiến cho điều khoản này trở nên khó
hiểu đó là rất khó để có thể xác định được đâu là căn cứ cho việc xác lập, thay đổi hay
chấm dứt một quan hệ theo pháp luật nước ngoài. Bên cạnh đó, việc phải xác định yếu tố
nước ngồi “theo pháp luật nước ngồi” vơ hình chung đã làm đảo lộn trật tự giải quyết

tranh chấp dân sự của Tư pháp quốc tế. Để giải quyết vụ việc dân sự theo nghĩa rộng có
yếu tố nước ngồi, một Tịa án bất kỳ của Việt Nam cần phải xác định vấn đề đầu tiên là
vụ việc này có phải vụ việc quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngồi hay
khơng và sau đó phải xác định xem mình có thẩm quyền xét xử hay khơng. Chỉ sau khi
giải quyết được cả hai câu hỏi trên, Tòa án mới xem xét tới vấn đề pháp luật Việt Nam hay
pháp luật nước ngoài được áp dụng để xác định các vấn đề liên quan đến vụ việc (trong đó
có các vấn đề về căn cứ xác lập, thực hiện, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ). Rõ ràng, việc
lược bỏ từ “căn cứ” và “theo quan hệ pháp luật nước ngoài” như quy định trong BLDS
năm 2015 là rất hợp lý và thực tế hơn nhiều so với luật hiện hành do Tòa án chỉ cần xem
xét việc xác lập, thực hiện, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ xảy ra tại nước ngoài hay Việt
Nam.
Thứ ba, dấu hiệu đối tượng của quan hệ
Về đặc điểm đối tượng, BLDS năm 2005 quy định “tài sản liên quan đến quan hệ đó
ở nước ngồi”, trong khi đó BLDS năm 2015 lại quy định “các bên tham gia đều là công
dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngồi”.
Trong khi BLDS năm 2015 quy định rõ khách thể của quan hệ là “tài sản” liên quan đến
quan hệ đó ở nước ngoài; BLDS năm 2015 lại sử dụng cụm từ mang ý nghĩa rộng hơn đó
15


là “đối tượng” của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài. Sự thay đổi này là rất dễ hiểu, bởi lẽ,
lý luận và thực tiễn đều cho thấy đối tượng của quan hệ dân sự không chỉ là tài sản cụ thể
mà cịn có thể là những lợi ích khác, chẳng hạn như việc thực hiện hành vi nhất định (vận
chuyển người, đưa đi du lịch…). Do vậy, quy định trường hợp có yếu tố nước ngồi chỉ
dựa vào đối tượng của quan hệ là tài sản thì chưa đầy đủ.
Ba đặc điểm trên cũng chỉ là những trường hợp phổ biến, căn bản. Lý luận và thực
tiễn Tư pháp quốc tế đã không giới hạn yếu tố nước ngồi trong ba trường hợp này. Yếu
tố nước ngồi cịn có thể được thể hiện trong những trường hợp khác như: Chủ thể tham
gia quan hệ hợp đồng có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, nơi thường trú của một
bên hoặc các bên ở nước ngoài (BLDS năm 2005 đã quy định về trường hợp này), hợp

đồng được thực hiện ở nước ngồi. Điều 1 Cơng ước Viên của Liên hợp quốc năm 1980
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định: “Cơng ước này áp dụng cho các hợp
đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau…”.
2.3. Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt ngoài hợp đồng
trong tư pháp quốc tế
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những vấn đề pháp lý quan trọng
trong pháp luật về dân sự của các quốc gia trên thế giới, tuy nhiên mỗi quốc gia khác nhau,
tùy theo hệ thống pháp luật được lựa chọn để áp dụng, sẽ áp dụng nguyên tắc giải quyết
vấn đề phát sinh khác nhau. Nhưng về cơ bản, các quốc gia đều có cách hiểu chung về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế nhưng nguyên tắc
để giải quyết xung đột pháp luật thì có những sự khác biệt nhất định.
Hiện nay trên thế giới, pháp luật của nhiều các quốc gia lựa chọn nguyên tắc Lex
Voluntatis là nguyên tắc được ưu tiên áp dụng đầu tiên để giải quyết vụ việc bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngồi. Ngun tắc Lex Voluntatis được hiểu là
luật do các bên tự thỏa thuận và lựa chọn.
Ví dụ: như theo quy định của pháp luật Trung Quốc tại Điều 44 Luật áp dụng đối với
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa ban
hành ngày 28 tháng 10 năm 2010 như sau “... Sau khi xảy ra hành vi gây thiệt hại ngoài
hợp đồng, các chủ thể có liên quan tự thỏa thuận việc lựa chọn pháp luật để áp dụng, thì
áp dụng theo pháp luật được họ lựa chọn”3; theo đó khi vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài

3

Nguyên văn “侵权行为发生后,当事人协议选择适用法律的,按照其协议。”. Phần dịch được thực hiện bởi tác gi

16


hợp đồng có yếu tố nước ngồi xảy ra, chủ thể gây thiệt hại và chủ thể bị thiệt hại có
quyền tự do thỏa thuận về việc lựa chọn luật áp dụng để giải quyết vụ việc. Nguyên tắc

này thể hiện sự tiến bộ trong nhận thức của các nhà làm luật nói chung và các nhà làm luật
của Việt Nam nói riêng xét ở khía cạnh tơn trọng quyền con người, tôn trọng sự lựa chọn
của các bên thay vì áp đặt trong một khn khổ nhất định như trước kia; bên cạnh đó cũng
thể hiện tính khách quan, bình đẳng giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật.
Bên cạnh nguyên tắc Lex Voluntatis thì nguyên tắc Lex loci delicti commissi cũng
được lựa chọn để giải quyết vụ việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngồi. Ngun tắc Lex loci delicti commissi được hiểu là luật nơi có hành vi vi phạm hoặc
có thiệt hại, cũng có từ điển pháp lý định nghĩa nguyên tắc Lex loci delicti commissi là nơi
mà có hành vi gây thiệt hại . Chính bởi có sự khác nhau trong quan điểm về nguyên tắc này
của từng quốc gia nên đã tạo ra sự không đồng nhất giữa các quốc gia trong việc giải thích
nguyên tắc và áp dụng nguyên tắc trên thực tế, cụ thể là có những quốc gia xác định luật
áp dụng để giải quyết theo luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại ngồi hợp đồng, nhưng có
quốc gia lại xác định luật nơi phát sinh hậu quả của hành vi gây thiệt hại ngồi hợp đồng;
hay cũng có những quốc gia giải thích đó là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại được xác định
là nơi có hành vi gây thiệt hại và là nơi phát sinh hậu quả của hành vi gây thiệt hại.
Bên cạnh đó, một hệ thuộc luật cũng thường được sử dụng để xác định luật áp dụng
giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngồi đó là ngun tắc Lex
domicilii – Luật nơi cư trú. “Nơi cư trú” được xác định theo nơi cư trú thường xuyên của
chủ thể bị thiệt hại hoặc chủ thể gây ra thiệt hại.
Như vậy, có thể thấy ba hệ thuộc luật chủ yếu được sử dụng để xác định luật giải
quyết các vấn đề liên quan tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố
nước ngồi của các quốc gia đó là nguyên tắc Lex Voluntatis, nguyên tắc Lex loci delicti
commissi và nguyên tắc Lex domicilii. Tùy từng nội dung vụ việc và quy định của pháp
luật mà các nguyên tắc này có thể được áp dụng cùng với pháp luật quốc gia để giải quyết
vụ việc.
2.4. Ý nghĩa bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Pháp luật được hiểu là một phương diện để nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống
xã hội và duy trì, thiết lập, củng cố, tăng cường quyền lực nhà nước; là phương tiện thực
hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi cơng dân. Chính vì vậy khi có thiệt hại xảy
ra do hành vi của một chủ thể này gây ra với chủ thể khác đem lại những hậu quả bất lợi

17


(thiệt hại), để bù đắp tổn hại cho chủ thể bị thiệt hại thì chủ thể gây ra thiệt hại phải có
nghĩa vụ bồi thường tương ứng với những giá trị về vật chất và tinh thần mà chủ thể bị
thiệt hại phải chịu. Chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có yếu tố
nước ngồi được coi là cơ sở để:
Thứ nhất: là căn cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể có quyền, lợi
ích bị xâm phạm.
Khi quyền, lợi ích của các chủ thể bị xâm phạm, nó có thể tác động tới sự ổn định
của trật tự xã hội của quốc gia; chính vì thế, các chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng được thiết lập nhằm để bảo vệ, duy trì, thiết lập lại sự ổn định xã hội
đã bị hành vi vi phạm pháp luật tác động. Vì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp
đồng khơng có căn cứ cụ thể để xác định quyền yêu cầu bồi thường của chủ thể bị thiệt
hại, chính vì thế các chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng đóng vai
trò rất quan trọng trong việc tạo ra cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của
chủ thể bị thiệt hại và duy trì sự cơng bằng trong xã hội. Theo đó, chủ thể bị thiệt hại có
quyền yêu cầu bên gây ra thiệt hại phải bồi thường, và bên gây ra thiệt hại phải có nghĩa
vụ bồi thường. Trong trường hợp bên gây ra thiệt hại không bồi thường hoặc bồi thường
không đúng theo yêu cầu của chủ thể bị thiệt hại, thì chủ thể bị thiệt hại có quyền khởi kiện
ra Tịa án.
Thứ hai, các chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có yếu tố
nước ngồi nhằm răn đe, phịng ngừa các hành vi có thể xảy ra trong tương lai dẫn tới
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác
Mặc dù các hành vi gây thiệt hại ngoài hợp đồng thường xảy ra một cách bất ngờ, do
chủ quan của chủ thể nhưng thiệt hại xảy ra do những hành vi này cũng đem lại những hậu
quả đáng kể đối với chủ thể bị thiệt hại. Chính vì thế các chế định này sẽ góp phần giúp
các chủ thể tham gia các quan hệ dân sự tự ý thức trước được hành vi của mình, nhận thức
được trách nhiệm có thể phải gánh chịu nếu để thiệt hại xảy ra, từ đó giảm thiểu những
thiệt hại có thể xảy ra trong tương lai.

Thứ ba, các chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố
nước ngồi cũng góp phần duy trì mối quan hệ giữa các quốc gia
Quan hệ giữa các quốc gia trong bối cảnh tồn cầu hóa như hiện nay không chỉ đơn
thuần là sự hợp tác về kinh tế, văn hóa, xã hội mà vấn đề chính trị cũng đóng một vai trị
rất quan trọng trong việc duy trì mối quan hệ giữa các bên, bởi vậy, việc đảm bảo quyền
18


×