Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Một số vấn đề pháp lý về mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu ở việt nam thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.95 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THỊ THANH HUYỀN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP
MỘT CHỦ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Dung

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Em xin đảm bảo đây là công trình khoa học của riêng mình trên cơ sở tham
khảo các nguồn tài liệu đã có.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban chủ nhiệm khoa Sau đại học, các
thầy cô giáo khoa Pháp luật kinh tế và TS. Nguyễn Thị Dung đã chỉ bảo và hướng
dẫn tận tình để giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Rất mong nhận được ý
kiến đóng góp của quý thầy cô và bạn đọc để em hoàn thiện hơn công trình của
mình.


Học viên

Đỗ Thị Thanh Huyền


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

ĐKKD

Đăng ký kinh doanh

HĐTV

Hội đồng thành viên

HĐQT

Hội đồng quản trị

LDN

Luật Doanh nghiệp

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………..Trang 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP
MỘT CHỦ SỞ HỮU……………………………………………………………………5
1.1. Lược sử hình thành hoạt động mua bán doanh nghiệp và vai trò của mua
bán doanh nghiệp đối với nền kinh tế………………………………………………....5
1.1.1. Lược sử hình thành hoạt động mua bán doanh nghiệp trên thế giới……5
1.1.2. Hoạt động mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam………………………………..7
1.1.3. Vai trò của mua bán doanh nghiệp trong nền kinh tế…………………..10
1.2. Bản chất pháp lý của mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu……........13
1.2.1. Quan niệm về mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu…………………13
1.2.2. Mối liên hệ giữa mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu với vấn đề chuyển
nhượng vốn góp………………………………………………………………………..20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN DOANH
NGHIỆP MỘT CHỦ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM………………………………………23
2.1. Tổng quan hệ thống văn bản pháp luật về mua bán doanh nghiệp một chủ
sở hữu…………………………………………………………………………………..23
2.2. Quy định pháp luật hiện hành về mua bán doanh nghiệp một chủ sở
hữu…………………………………………………………………………………….26
2.2.1. Quy định về tài sản doanh nghiệp một chủ sở hữu và định giá doanh nghiệp
một chủ sở hữu………………………………………………………………………….26
2.2.2. Quy định về các phương thức mua bán doanh nghiệp một chủ sở
hữu……………………………………………………………………….............31


2.2.3. Quy định về hợp đồng mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu…………41
2.3. Thủ tục pháp lý sau khi mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu……….51
2.3.1. Đăng ký kinh doanh lại……………………………………………………51

2.3.2. Vấn đề kế thừa nghĩa vụ trong mua bán doanh nghiệp một chủ sở
hữu…………………………………………………………………………………55
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP MỘT CHỦ SỞ HỮU Ở VIỆT
NAM……………………………………………………………………………….59
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp một chủ sở
hữu ở Việt Nam…………………………………………………………………….…..59
3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế………..…59
3.1.2. Xuất phát từ sự gia tăng mạnh mẽ của nhu cầu mua bán doanh nghiệp một
chủ sở hữu……………………………………………………………………………….60
3.1.3. Xuất phát từ những hạn chế và thiếu sót của pháp luật điều chỉnh hoạt động
mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu hiện nay……………………………………….60
3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp một chủ sở
hữu ở Việt Nam………………………………………………………………………...61
3.2.1. Đảm bảo tính phù hợp với điều kiện kinh tế và thực trạng hệ thống pháp
luật………………………………………………………………………………….….61
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu ở Việt Nam
nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của chủ đầu tư...................................................62
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu phải giảm thiểu
chi phí giao dịch và khuyến khích hoạt động mua bán doanh nghiệp……………..…63


3.3. Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh
nghiệp một chủ sở hữu ở Việt Nam...................................................................................64
3.3.1. Thống nhất quan niệm về mua bán doanh nghiệp…………………….….64
3.3.2. Bổ sung và hoàn thiện các quy định điều chỉnh hoạt động mua bán doanh
nghiệp một chủ sở hữu……………………………………………………………..……65


1


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam hiện nay số lượng doanh nghiệp được thành lập đã lên tới hơn 400.000
doanh nghiệp, tuy nhiên trong số đó có tới hơn 90% doanh nghiệp là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, quy mô sản xuất trung bình, nguồn vốn kinh doanh ít và thường xuyên chịu tác động
mạnh mẽ từ các quy luật của nền kinh tế thị trường. Nhiều doanh nghiệp bị lâm vào tình
trạng phá sản và khánh kiệt về tài sản, chủ doanh nghiệp lúc này cố vớt vát tài sản thông qua
thủ tục phá sản hoặc giải thể hoặc thông qua một giải pháp hiệu quả hơn đó là bán doanh
nghiệp của mình cho nhà đầu tư khác. Xét từ góc độ lợi ích khi các doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh hiệu quả có nhu cầu mở rộng nhà xưởng, mở rộng hệ thống khách hàng, cách
nhanh chóng và hiệu quả nhất là mua một doanh nghiệp khác để tiếp tục mục tiêu kinh
doanh. Bên cạnh đó, việc bán doanh nghiệp là cơ hội tăng thu nhập do việc bán được những
giá trị tài sản vô hình, thay vì chỉ thanh lý các tài sản hữu hình mà doanh nghiệp có.
Trong khi hoạt động mua bán doanh nghiệp tại các nước trên thế giới đã xuất hiện từ
lâu và phát triển, hoạt động này ở Việt Nam còn khá mới mẻ. Song với những lợi thế mà
hoạt động này mang đến, nó đã nhanh chóng chứng tỏ sức thu hút mạnh mẽ đối với các chủ
thể. Chỉ trong khoảng thời gian mười năm, mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam đã diễn ra hết
sức sôi động tạo thành những làn sóng mua bán mạnh mẽ. Đối tượng của hoạt động mua
bán doanh nghiệp khá đa dạng. Đó có thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân,
công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Trong số các loại hình
doanh nghiệp mục tiêu kể trên phải kể đến loại hình doanh nghiệp một chủ sở hữu. Bởi lẽ
loại hình doanh nghiệp này đang ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong nền
kinh tế Việt Nam, không chỉ về số lượng mà còn về hiệu quả và sức cạnh tranh. Thực tế này
đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải có ngay những quy định pháp luật điều chỉnh các mối quan
hệ phát sinh giữa các chủ thể khi mua, bán doanh nghiệp một chủ sở hữu. Trong khi đó,
Luật doanh nghiệp 2005 là văn bản hiện hành điều chỉnh những quy định về hệ thống doanh
nghiệp ở Việt Nam lại chưa có những quy định cụ thể về hoạt động mua bán doanh nghiệp
nói chung và doanh nghiệp một chủ sở hữu nói riêng.



2

Trong bối cảnh đó, với việc lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề pháp lý về mua bán
doanh nghiệp một chủ sở hữu ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật”,
tác giả luận văn muốn góp phần xây dựng hệ thống quy định pháp luật về mua bán doanh
nghiệp một chủ sở hữu nói riêng và hệ thống pháp luật mua bán doanh nghiệp nói chung ở
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động mua bán doanh nghiệp đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, điều đó đã
tạo ra sức hút lớn cho các nhà nghiên cứu, những chuyên gia kinh tế pháp lý đã tiến hành
nghiên cứu, tìm hiểu và đưa ra nhiều đề tài khoa học có giá trị. Đó là: Luận văn Thạc sỹ "
Thâu tóm- Hợp nhất doanh nghiệp dưới góc nhìn tài chính" của Thạc sỹ Huỳnh Thị Cẩm
Hà; luận văn "Pháp luật về mua bán công ty- Thực trạng và giải pháp" của Thạc sỹ Vũ
Phương Đông, bài viết "Một số vấn đề về sáp nhập, mua lại doanh nghiệp và tình hình Việt
Nam" của PGS.TS Nguyễn Thường Lạng và Nguyễn Thị Quỳnh Thư; bài viết "Điều kiện
xây dựng, phát triển thị trường mua bán và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam" của ThS.
Bùi Thanh Lam đăng trên tạp chí Luật học số 4/2008; bài viết "Hợp đồng mua bán doanh
nghiệp" trong cuốn Pháp luật về Hợp đồng trong thương mại và đầu tư, NXB Chính trị
Quốc gia do TS. Nguyễn Thị Dung (chủ biên); bài nghiên cứu "Thâu tóm và hợp nhất từ
khía cạnh quản trị công ty: lý luận, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam" của
Nguyễn Đình Cung và Lưu Minh Đức v.v... Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu về hoạt
động mua bán doanh nghiệp này chủ yếu xem xét hoạt động mua bán doanh nghiệp trong
các yếu tố của tư duy kinh tế, trên phương diện tài chính cùng một số nội dung pháp lý liên
quan đến mua bán doanh nghiệp nói chung, mà chưa có một đề tài nào thực sự đi sâu vào
tìm hiểu nhằm đưa ra những gợi ý mang tính chất pháp lý nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu ở Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của Luận văn
Luận văn được viết trong thời điểm mà những quan niệm, những quy định về mua
bán doanh nghiệp một chủ sở hữu ở Việt Nam vẫn còn rất hạn chế, tản mạn và chưa có hệ

thống. Vì vậy mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và


3

thực tiễn của pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu trong hoạt động
kinh tế, từ đó đưa ra những giải pháp về mặt pháp lý nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
điều chỉnh quan hệ kinh tế còn rất mới mẻ này.
Để thực hiện được mục tiêu đó, nhiệm vụ đặt ra cho luận văn là:
- Làm rõ bản chất pháp lý của hoạt động mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu;
- Phân tích vai trò của hoạt động mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu đối với quá
trình vận động, phát triển của nền kinh tế;
- Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động mua bán doanh nghiệp
một chủ sơ hữu nhằm làm rõ cơ sở lý luận về mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu ở Việt
Nam;
- Từ những nghiên cứu, phân tích trên, đưa ra giải pháp pháp lý để hoàn thiện chế
định về hoạt động mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với đề tài “Một số vấn đề pháp lý về mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu ở Việt
Nam- Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật”, tác giả luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu và làm rõ những vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động mua bán các loại hình doanh
nghiệp do một chủ thể đầu tư vốn, bao gồm: Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH một
thành viên, Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Các quy định về mua bán công ty hợp danh,
công ty TNHH hai thành viên, công ty cổ phần, Hợp tác xã và các hình thức tổ chức kinh tế
khác không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên nền tảng lý luận là các nguyên tắc và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta trong quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế. Trong quá trình thực hiện luận
văn, tác giả có kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu: duy vật biện chứng, duy vật



4

lịch sử; phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp, thống kê, khái quát hóa để giải
quyết nội dung khoa học của đề tài. Đặc biệt, luận văn rất chú trọng phương pháp so sánh
luật; kết hợp giữa lý luận với thực tiễn.
6. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi
nghiên cứu. Ngoài lời nói đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận, luận văn bao
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu ở Việt
Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp
một chủ sở hữu ở Việt Nam.


5

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP MỘT CHỦ SỞ HỮU
1.1. Lược sử hình thành hoạt động mua bán doanh nghiệp và vai trò của mua bán
doanh nghiệp đối với nền kinh tế
1.1.1. Lược sử hình thành hoạt động mua bán doanh nghiệp trên thế giới
Trên thế giới, hoạt động mua bán doanh nghiệp được biết đến rộng rãi trong những
năm cuối của thế kỉ thứ XIX, đầu thế kỉ XX dưới cụm từ M&A (Merger and Acquisition) khi
số lượng doanh nghiệp trên thế giới tăng mạnh và hoạt động cạnh tranh diễn ra khốc liệt. Rất
nhiều doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ trong một thời gian, tạo dựng được thương hiệu, xây
dựng cơ sở kinh doanh hoàn chỉnh, nhưng không kịp đổi mới hoặc do những thay đổi bất ngờ

của tình hình kinh tế dẫn đến tình trạng kiệt quệ về mặt tài chính. Đó cũng là lúc nhu cầu về
việc mua bán doanh nghiệp, nhu cầu về sáp nhập các doanh nghiệp được hình thành. Cho đến
nay, nó đã được coi là một ngành độc lập với lịch sử phát triển tương đối lâu dài và đã trải qua
5 giai đoạn phát triển.
Giai đoạn 1, từ năm 1897-1904: Đây được coi là giai đoạn khởi đầu của hoạt động
mua bán doanh nghiệp trên thế giới, do quá trình bùng nổ nhanh chóng của nền kinh tế, hệ
thống giao thông được nâng lên một tầng cao mới, hệ thống văn bản pháp luật về doanh
nghiệp được quy định đầy đủ. Thế giới đã ghi nhận làn sóng sáp nhập đầu tiên diễn ra tại Mỹ
dưới hình thức liên kết theo chiều ngang với tên gọi “The Great Merger Movement”. Trong
thời gian này các hoạt động mua bán diễn ra chủ yếu giữa các công ty phát triển công nghiệp
nặng với số lượng các vụ mua bán còn rất hạn chế khoảng 3.000 vụ. Tuy nhiên, đợt sóng này
chấm dứt nhanh chóng do khủng hoảng kinh tế những năm 1903 và sự sụp đổ của thị trường
chứng khoán năm 1904.
Giai đoạn 2, từ năm 1916-1929: Giai đoạn này được khởi đầu từ sự bùng nổ của kinh
tế thế giới sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhu cầu về các mặt hàng nhu yếu phẩm tăng
mạnh kết hợp với sự phát triển về khoa học công nghệ tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty
phát triển và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường, đồng thời là sự tăng năng suất lao động cải
tiến chất lượng hàng hóa. Các vụ mua bán điển hình diễn ra trong các lĩnh vực luyện kim, hóa


6

dầu, thuốc, và phương tiện vận chuyển với số lượng khoảng 5.000 vụ, với sự tham gia của
một số ngân hàng đầu tư trong những thương vụ này. Giai đoạn này chấm dứt sau đại khủng
hoảng kinh tế khởi nguồn từ sự sụp đổ của thị trường chứng khoán ngày 29-10-1929.
Giai đoạn 3, những năm 60 của thế kỉ XX: Sau đại chiến thế giới lần thứ 2, kinh tế thế
giới lại trải qua một thời kì phát triển mạnh. Thị trường chứng khoán trở lại cùng với đó là sự
tiến bộ của khoa học kĩ thuật, sự lớn mạnh không ngừng của các tập đoàn tài chính tạo đà cho
các cuộc mua bán doanh nghiệp diễn ra sôi nổi. Trong khoảng thời gian này có trên 7.000 vụ
mua bán được diễn ra với tổng giá trị ước tính đạt 400 tỷ USD, mà đa số trong đó là quá trình

mua bán của các tập đoàn lớn trong các lĩnh vực sản xuất máy móc tự động hóa, nguyên liệu
và hệ thống xe lửa.
Giai đoạn 4, những năm 80 của thế kỉ XX: Thế giới bắt đầu xuất hiện những nền kinh
tế mới bên cạnh Mỹ và các nước Châu Âu như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore v.v.. tạo ra
sự cạnh tranh mạnh mẽ trên toàn cầu, rất nhiều đổi mới được diễn ra trong các lĩnh vực về tài
chính, ngân hàng kèm theo đó là sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới tạo cơ sở
cho nhiều hoạt động mua bán doanh nghiệp được diễn ra. Tuy nhiên các yếu tố bổ trợ trong
giai đoạn này chưa đủ mạnh để đẩy hoạt động mua bán doanh nghiệp thực sự phát triển. Do
đó, số lượng các giao dịch chỉ đạt ở mức khoảng 15.000 vụ với giá trị tương ứng đạt 2.000 tỷ
USD chưa thực sự tương xứng với tình hình của nền kinh tế khi đó.
Giai đoạn 5, từ năm 1992 đến nay: Thời điểm này, thế giới đã bước vào sự ổn định về
mặt chính trị và đây cũng là giai đoạn đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ có tính toàn cầu hóa.
Nhiều nền kinh tế mới nổi đã vươn lên và chiếm lĩnh thị trường, cạnh tranh sòng phẳng với
các nền kinh tế cũ, đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản. Kinh tế toàn cầu bước vào giai đoạn
phát triển nhanh chóng, mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt, tiến bộ không ngừng về khoa
học kỹ thuật trong nhiều lĩnh vực làm cho thị trường toàn cầu trở nên nóng bỏng. Chính vì
vậy, từ năm 1995 trở đi, không năm nào số lượng các vụ giao dịch mua bán doanh nghiệp
xuống dưới con số 15.000 vụ, năm 2000 là 35.000 vụ với tổng giá trị lên tới 3.500 tỷ USD
[47]. Những năm gần đây, hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp diễn ra sôi nổi, đa dạng
về cách thức cũng như giá trị. Đặc biệt hoạt động này gần như trở thành một cơn sốt trong giai
đoạn 2006- 2007 do giá chứng khoán tăng trong bối cảnh giao dịch chứng khoán diễn ra sôi


7

động ở khắp các châu lục. Năm 2006 tổng giá trị các vụ mua bán doanh nghiệp trên toàn cầu
xấp xỉ 3.500 tỷ USD trên tổng số 40.000 vụ; năm 2007 là 4.169 tỷ USD với 43.817 vụ giao
dịch [47].
Tuy nhiên, bước sang năm 2008 xuất hiện cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, bắt
nguồn từ Mỹ sau đó lan rộng sang Châu Âu, Châu Á và giờ đây ảnh hưởng của nó đã bao

trùm toàn thế giới. Đây là thời điểm kinh tế khó khăn nhưng cũng chính là thời điểm mà các
doanh nghiệp, tập đoàn lớn trên thế giới vượt qua những rào cản để tiến hành các thương vụ
mua bán doanh nghiệp nhằm tái cơ cấu lại cấu trúc của doanh nghiệp.
1.1.2. Hoạt động mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam
Trong khi hoạt động mua bán doanh nghiệp tại các nước trên thế giới đã xuất hiện từ
lâu và phát triển, hoạt động này ở Việt Nam còn khá mới mẻ. Tuy mới ở giai đoạn đầu của
quá trình hình thành, song với những lợi thế mà hoạt động này mang đến, nó đang nhận được
sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, bất chấp những khó khăn về tài chính do
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra.
Theo báo cáo thường niên năm 2009 về hoạt động mua bán công ty tại Việt Nam của
công ty kiểm toán Pricewaterhouse Coopers, hoạt động mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam
tiếp tục được duy trì và tăng về số lượng cũng nhưng đa dạng về cách thức thực hiện. Mặc dù
mới xuất hiện từ năm 2000, nhưng với sức cuốn hút mạnh mẽ số lượng các giao dịch mua
bán, sáp nhập tăng dần theo từng năm. Tính đến năm 2003 cả nước có 41 thương vụ với giá trị
118 triệu USD [45], riêng năm 2005 có 18 vụ mua bán, sáp nhập doanh nghiệp với tổng giá trị
đạt 61 triệu USD; năm 2006, số lượng tăng lên 32 vụ với tổng giá trị là 245 triệu USD [42];
đến năm 2008 con số là 146 vụ tương ứng với 1.009 triệu USD. Trong số đó có những thương
vụ nổi bật như: Savico mua lại khách sạn Furama 16 triệu USD tháng 11 năm 2005 [46]; Kinh
Đô mua thương hiệu kem Wall và đang tiến hành mua hãng nước giải khát Tribeco; Holcim
mua lại Cotec Cement với giá 50 triệu USD tháng 8 năm 2008; Quantas mua lại 18% sau đó
là 31% và hiện nay là 49% cổ phần của hãng hàng không giá rẻ Jetstar Pacific; VRI mua lại
Tiberon với giá 230 triệu USD [34]. Trong 4 năm vừa qua, giá trị giao dịch mua bán và sáp
nhập tại Việt Nam có xu hướng tăng mạnh. Năm 2009 ghi nhận 295 vụ với tổng giá trị 1,14 tỷ
USD, năm 2010 có 245 vụ với tổng giá trị 1,75 tỷ USD và năm 2011 ghi nhận có 266 vụ với


8

tổng giá trị giao dịch đạt kỷ lục là 6,25 tỷ USD. Có thể kể đến một số thương vụ mua bán giữa
các doanh nghiệp Việt Nam tiêu biểu như: vụ sáp nhập Công ty Thông tin viễn thông Điện

Lực (EVN Telecom) vào Tập đoàn viễn thông Quân đội (Viettel) từ ngày 1/1/2012 [55]; Công
ty CP Mirae (KMR) phát hành 14 triệu cổ phiếu để thực hiện mua lại toàn bộ vốn của Công ty
CP Mirae Fiber (KMF) thông qua hình thức hoán đổi cổ phiếu [60]. Mới đây nhất là cuộc hợp
nhất đầu tiên giữa ba ngân hàng tại Việt Nam là ngân hàng TMCP Sài Gòn- SCB, ngân hàng
TMCP Đệ Nhất- FCB và ngân hàng TMCP Tín Nghĩa- VTN, diễn ra trong khoảng thời gian
cuối năm 2011- đầu năm 2012 báo hiệu cho nhiều vụ hợp nhất, sáp nhập tương tự.
Hoạt động mua bán doanh nghiệp được tiến hành trên nhiều lĩnh vực trong đó tập
trung vào: lĩnh vực ngân hàng; lĩnh vực chứng khoán; lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, buôn
bán lẻ; lĩnh vực dược phẩm; lĩnh vực kiểm toán; lĩnh vực công nghệ thông tin.
- Lĩnh vực ngân hàng: Hoạt động mua lại doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính ở Việt
Nam được thực hiện từ những năm cuối của thế kỉ trước, trong giai đoạn Việt Nam chuẩn bị
những bước đà để hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế thế giới.
Trước năm 2006, nhiều Ngân hàng Thương mại cổ phần nông thôn bị tiến hành mua
lại để thành lập các Ngân hàng Thương mại cổ phần có quy mô vốn và địa bàn hoạt động rộng
hơn trong quá trình tiến hành triển khai dự án “Chấn chỉnh và sắp xếp các Ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam” do Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt (Quyết định số 212/1999/QĐTTg ngày 29/10/1999). Các Ngân hàng như: Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Nam,
Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á, Ngân hàng Thương mại cổ phần Thương Tín đã trải
qua nhiều thương vụ mua lại để đạt được quy mô như hiện nay.
Tuy nhiên, từ năm 2006 đến nay, kinh tế Việt Nam bị tác động bởi làn sóng đầu tư của
các tập đoàn tài chính, các ngân hàng quốc tế vào Việt Nam thông qua hoạt động mua bán
doanh nghiệp. Hiện nay số lượng Ngân hàng ở Việt Nam là tương đối nhiều (36 Ngân hàng
thương mại cổ phần và 6 Ngân hàng liên doanh) so với quy mô dân số (khoảng 85 triệu
người) và GDP là 90 tỷ USD (năm 2008). Trong khi đó Hàn Quốc với GDP gấp khoảng 10
lần Việt Nam (857 tỷ USD, năm 2008) chỉ có 20 Ngân hàng, Singapore chỉ có 4 Ngân hàng
nội địa, Thái Lan có 10 Ngân hàng nội địa [34]. Trong báo cáo thường niên của PwC về hoạt
động M&A trong ngành dịch vụ tài chính tại Châu Á năm 2011, thị trường Việt Nam được


9


đánh giá rất lạc quan về triển vọng phát triển lĩnh vực này bởi hiện nay quy mô vốn của nhiều
ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn còn quá nhỏ nên áp lực tăng vốn sẽ khiến các ngân hàng
khó khăn hơn rất nhiều. Do đó, hiện tượng mua bán và sáp nhập có thể sẽ tăng lên và số lượng
ngân hàng dự định sẽ giảm 30%-40% trong một vài năm tới đây.
- Lĩnh vực phân phối bán lẻ: Việt Nam thực sự là một nơi đầu tư lý tưởng của các
công ty tiến hành kinh doanh trong lĩnh vực bán lẻ với thị trường hơn 85 triệu dân. Theo cam
kết hội nhập WTO, từ ngày 01/01/2009 Việt Nam đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tiến
hành hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài trên thị trường bán lẻ, mở ra điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư trong quá trình tiến hành kinh doanh tại Việt Nam. Và rõ ràng con đường
nhanh chóng nhất để các nhà đầu tư thâm nhập vào thị trường Việt Nam là thông qua mua bán
doanh nghiệp. Lĩnh vực phân phối bán lẻ sẽ là lĩnh vực có nhiều tiềm năng nhất để đón nhận
nguồn vốn đầu tư [34].
- Lĩnh vực chứng khoán: Cùng với sự phát triển nóng của thị trường chứng khoán Việt
Nam trong những năm vừa qua, số lượng các công ty chứng khoán được thành lập với tốc độ
nhanh chóng nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư tham gia vào một loại thị trường còn
mới mẻ này. Tính đến thời điểm tháng 2/2012, cả nước có khoảng 100 công ty chứng khoán
đang hoạt động trong đó số công ty có vốn điều lệ dưới 300 tỷ chiếm gần 80%. Điều này tạo
ra rủi ro rất lớn cho các nhà đầu tư nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung. Hiệp hội
Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) đã đề xuất việc giảm 3/4 số lượng công ty chứng
khoán vì hiện nay có quá nhiều công ty chứng khoán tồn tại nhưng chất lượng kém, nhân lực
phân tán… Trong tương lai trung hạn, sẽ diễn ra quá trình mua lại hoặc thôn tính các công ty
chứng khoán không có tiềm lực tài chính. Và số lượng các công ty chứng khoán sẽ giảm 50%60% sau quá trình mua bán và thôn tính công ty [34].
- Lĩnh vực dược phẩm và kiểm toán: Đặc điểm chung của hai lĩnh vực này ở Việt Nam
đó là có sự tham gia đông đảo của các công ty, trong đó số lượng các doanh nghiệp một chủ
sở hữu (doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp 100% vốn nhà nước) chiếm tương đối nhiều.
Tuy nhiên, hầu hết các công ty đó đều không đáp ứng được nhu cầu về vốn và quy mô sản
xuất theo tiêu chuẩn mà thế giới và Việt Nam ban hành. Xu hướng của hai lĩnh vực này trong
những năm tới đây sẽ xảy ra nhiều vụ mua bán doanh nghiệp để tiến hành đầu tư vào một thị



10

trường mới (đối với lĩnh vực dược phẩm) hoặc để thay đổi quy mô và chất lượng dịch vụ (đối
với kiểm toán), quá trình diễn ra hoạt động mua bán doanh nghiệp hứa hẹn sẽ có sự tham gia
tích cực của các nhà đầu tư nước ngoài [34].
Qua việc nghiên cứu thực tiễn hoạt động mua bán doanh nghiệp tại một số lĩnh vực
ngành nghề quan trọng, có thể thấy hoạt động mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn đang ở
thời kì đầu của quá trình hình thành, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, do đó các giao dịch có
giá trị lớn diễn ra với số lượng ít và chủ yếu do các thương nhân, nhà đầu tư nước ngoài thực
hiện, chủ yếu là các giao dịch có giá trị thấp. Hơn nữa, hoạt động này nói chung vẫn còn ở
mức độ đơn giản chỉ đơn thuần là việc mua lại tài sản của doanh nghiệp, hình thức mua lại chủ
yếu là thân thiện (friendly) mà chưa có nhiều hình thức để các chủ thể kinh doanh lựa chọn.
1.1.3. Vai trò của mua bán doanh nghiệp trong nền kinh tế
Mua bán doanh nghiệp là hoạt động liên quan đến nhiều yếu tố cấu thành của nền
kinh tế, từ quy mô đến năng lực cạnh tranh, khả năng tiến hành sản xuất và kinh doanh.
Mua bán doanh nghiệp mang lại nhiều lợi ích đối với các nhà đầu tư cũng như đóng một
vai trò quan trọng đối với hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước.
* Đối với bên bán: Việc tiến hành bán doanh nghiệp sẽ đem lại cho bên bán một
khoản lợi nhuận nhất định, đó là những chi phí mà bên bán đã bỏ ra khi tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh như xây dựng nhà xưởng, xây dựng hệ thống khách hàng, gây
dựng thương hiệu và uy tín trên thị trường. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, trước
sức ép của thị trường, những doanh nghiệp nhỏ khó có thể cạnh tranh nếu cứ hoạt động
độc lập và rủi ro là điều khó tránh khỏi. Khi các doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn
về tài chính họ thường thực hiện các thủ tục vay vốn để tái đầu tư nhằm đưa doanh nghiệp
thoát khỏi tình trạng đó, tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng đạt được thành
công, đa số chủ doanh nghiệp ở Việt Nam sẽ chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp bằng
hình thức giải thể hoặc phá sản. Tuy nhiên, nếu so sánh với hai biện pháp này thì mua bán
doanh nghiệp vẫn là giải pháp tối ưu, đem lại lợi ích kinh tế cao nhất cho chủ doanh
nghiệp. Bởi lẽ, với biện pháp giải thể doanh nghiệp thì việc thu hồi vốn đầu tư chỉ được
thực hiện từ việc thanh lý các tài sản hữu hình nên lãng phí rất nhiều giá trị tiềm năng, hay

với thủ tục phá sản thì chủ doanh nghiệp có thể gặp phải những hạn chế khi muốn kinh


11

doanh trở lại. Vì vậy, việc bán doanh nghiệp là một lựa chọn giúp bên bán quay trở lại với
hoạt động kinh doanh theo một cách thức và phương thức mới mà họ thấy hợp lý.
Tuy nhiên, việc bán một doanh nghiệp không phải lúc nào cũng là dấu hiệu của
việc làm ăn thua lỗ mà nó có thể thể hiện tầm nhìn chiến lược của chủ doanh nghiệp. Khi
thấy chu kì kinh doanh của lĩnh vực kinh doanh đã kết thúc, doanh nghiệp đã phát triển
đến đỉnh mà bản thân bên bán không đủ năng lực về nguồn vốn để mở rộng kinh doanh
hoặc muốn cắt giảm chi phí thông qua việc tối ưu hóa các nguồn lực thì bán doanh nghiệp
sẽ là phương thức tốt nhất để bên bán rút chân ra khỏi thị trường, lĩnh vực mà mình đang
đầu tư. Lúc này, bán doanh nghiệp sẽ thu lại cho họ một khoản lợi nhuận lớn để tiến hành
tái đầu tư tại một lĩnh vực khác có nhiều cơ hội hơn.
* Đối với bên mua: Trong quá trình kinh doanh, việc các nhà đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng, hệ thống khách hàng, thương hiệu, mở rộng thị trường không phải là câu chuyện
có thể làm trong thời gian ngắn. Chỉ thông qua một hợp đồng mua bán doanh nghiệp, bên
mua sẽ tiết kiệm được thời gian để mở rộng sản xuất kinh doanh, tận dụng hết những giá
trị thương mại mà bên bán chưa thể tận dụng. Việc tiến hành mua doanh nghiệp sẽ tạo
điều kiện cho bên mua mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh mà không phải bỏ nhiều chi
phí. Hoạt động này sẽ tạo điều kiện cho bên mua dễ dàng ra nhập thị trường với chi phí rẻ,
họ có thể tiến hành kinh doanh ngay sau khi tiến hành hợp đồng mua mà không cần phải
thực hiện quá trình chuẩn bị như các nhà đầu tư tiến hành bài bản từ đầu.
Hoạt động mua bán doanh nghiệp còn tạo cơ sở cho bên mua mở rộng thị trường về
mặt địa lý thông qua việc mua chính những doanh nghiệp đang tiến hành sản xuất kinh
doanh trên thị trường đó. Trong đó bên mua có thể liên kết các lợi thế của doanh nghiệp
mình với lợi thế của doanh nghiệp được mua lại để đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Ví dụ
như một doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong việc bán hàng mua lại một doanh nghiệp
chuyên môn hóa về marketing sẽ thực hiện được mục tiêu bán hàng của doanh nghiệp một

cách tốt nhất. Đối với các công ty lớn, việc mua lại doanh nghiệp còn mang ý nghĩa tập
trung kinh tế, là hình thức “thôn tính” đối thủ cạnh tranh (Hostile Takeover) để từ đó bành
trướng thế lực, thống trị các phân khúc hàng hóa sản phẩm, tạo ra sự độc quyền và thu lợi
nhuận cao từ sự độc quyền đó. Trên thế giới có rất nhiều nhà đầu tư liên tục tiến hành việc


12

mua lại các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sắp phá sản nhưng có tiềm năng trong tương lai
trung hạn để tái đầu tư xây dựng và đã thành công như Warren Buffet, Wilbur Ross. Việc
mua bán doanh nghiệp đã thực sự trở thành một nghề đối với nhiều nhà đầu tư trên thế giới.
* Đối với Nhà nước: Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay,
mua lại doanh nghiệp là một trong những hoạt động phổ biến, là công cụ để nhà nước
quản lý và thúc đẩy quá trình tái cấu trúc kinh tế. Việt Nam trong nhiều năm liền có sự
tăng trưởng nóng về kinh tế, kết hợp với sự ra đời và ngày càng hoàn thiện của hệ thống
pháp luật doanh nghiệp đã làm cho số lượng doanh nghiệp ở Việt Nam tăng nhanh. Với
con số khoảng hơn 400.000 hiện nay và đến hết năm 2012 là hơn 500.000 doanh nghiệp
[56], cơ quan quản lý hoạt động của các công ty ở Việt Nam chủ yếu áp dụng chế độ “hậu
kiểm”, phân cấp quản lý về từng tỉnh và không có khả năng quản lý tập trung. Điều này
dẫn đến các hiện tượng như trùng tên doanh nghiệp giữa các tỉnh, nhiều doanh nghiệp
thành lập nhưng không tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo ngành nghề đã đăng
ký v.v.... Các doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ không đủ khả năng chống chọi hoặc chống
chọi yếu ớt với quy luật cạnh tranh khốc liệt đặc biệt, nhiều doanh nghiệp đã gặp thua lỗ
trong kinh doanh, không tìm được đối tác, khoa học công nghệ lỗi thời và lạc hậu trở thành
gánh nặng lớn cho Nhà nước về tài chính cũng như quản lý v.v... Mua bán doanh nghiệp là
một phương thức để những doanh nghiệp gặp thua lỗ trong kinh doanh, những doanh
nghiệp có tiềm năng trong tương lai, tập hợp lại để trở thành những doanh nghiệp có quy
mô lớn hơn với đầy đủ khả năng về tài chính, khoa học kỹ thuật và trụ vững trước những
thách thức mà quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh đặt ra. Những doanh nghiệp này sẽ
giữ vai trò đầu tàu, vai trò tiên phong trên con đường phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế

Việt Nam; tạo điều kiện cho Việt Nam tái cơ cấu lại nền kinh tế phát triển quá nhanh và
thiếu quy hoạch trước đây. Như vậy, với mua bán doanh nghiệp, Nhà nước có thể điều
chỉnh giảm số lượng các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả và phát triển những
doanh nghiệp có khả năng kinh doanh tốt, từ đó tạo ra khả năng thúc đẩy phát triển nền
kinh tế mạnh mẽ hơn.


13

1.2. Bản chất pháp lý của mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu
1.2.1. Quan niệm về mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu
* Quan niệm về mua bán doanh nghiệp
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “mua bán” thường được sử dụng với thuật ngữ
“hàng hóa” trong thương mại, hoặc “tài sản” trong dân sự. Thuật ngữ “mua bán doanh
nghiệp” nói chung vẫn còn rất mới mẻ trong hệ thống pháp luật Việt Nam bởi đối tượng của
hoạt động mua bán doanh nghiệp là “doanh nghiệp” - “tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài
sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” [6]. Theo từ điển bách khoa Việt Nam
“Mua bán là hành vi trao đổi giữa người mua hàng nhận được quyền sở hữu hàng hóa từ
người bán bằng cách trả một số tiền theo sự thỏa thuận về giá cả của hai bên”. [61]. Như
vậy, xét về mặt lý luận, mua bán doanh nghiệp sẽ được hiểu là phương thức chuyển quyền
sở hữu doanh nghiệp từ người bán sang người mua trên cơ sở trao đổi ngang giá với mục
đích tiếp tục hoạt động kinh doanh bằng doanh nghiệp đã được chuyển giao. Bản chất của
quan hệ mua bán doanh nghiệp là việc chuyển đổi chủ sở hữu doanh nghiệp thông qua việc
bên bán trả cho bên mua một số tiền nhất định tương đương với phần giá trị doanh nghiệp là
đối tượng của giao dịch.
Trên thế giới, pháp luật các nước sử dụng nhiều thuật ngữ liên quan đến hoạt động
mua bán doanh nghiệp như M&A (Mergers and Acquisitions), Takeovers, Buyout, v.v. diễn
tả quá trình tiến hành nhiều thủ tục để dẫn tới kết quả cuối cùng là sự thay đổi cấu trúc vốn,
cấu trúc quản lý của các doanh nghiệp tham gia vào giao dịch.

Mergers and Acquisitions là thuật ngữ được ghép từ “Mergers” có nghĩa là sáp nhập
và “ Acquisitions” là mua lại.
- Mergers - Sáp nhập : là sự kết hợp của hai hay nhiều doanh nghiệp với nhau, cùng
nhau thỏa thuận về tài sản, phân chia thị trường, thương hiệu và thành lập một doanh nghiệp
duy nhất với quy mô lớn hơn. Kết quả của việc sáp nhập này là một doanh nghiệp còn tồn
tại (được giữ nguyên tên gọi, cơ cấu vốn và cấu trúc doanh nghiệp), các doanh nghiệp còn
lại chấm dứt sự tồn tại của mình. Hoặc tất cả các doanh nghiệp sẽ sự chấm dứt hoạt động và
một doanh nghiệp mới ra đời với tên gọi mới, cơ cấu vốn mới và cấu trúc doanh nghiệp theo


14

sự lựa chọn của các chủ thể tham gia thỏa thuận (còn gọi là Mergers-Consolidation). Sáp
nhập được chia thành nhiều loại:
+ Sáp nhập theo chiều ngang (Horizontal Mergers) là cuộc sáp nhập giữa các doanh
nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau hoặc những doanh nghiệp trên cùng một thị trường
liên quan hoặc hoạt động cùng nhau trên những khâu trong quá trình sản xuất. Việc sáp nhập
này sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư mở rộng thị trường, tăng cơ hội kinh doanh, loại trừ đối
thủ cạnh tranh, tăng giá trị thương hiệu. Ví dụ như GM motors của Mỹ sáp nhập vơi
Deawoo của Hàn Quốc trở thành GM Deawoo [51].
+ Sáp nhập theo chiều dọc (Vertical Mergers) là cuộc sáp nhập giữa các doanh
nghiệp hoạt động trong các khâu khác nhau của cùng một lĩnh vực, trên cùng một chuỗi giá
trị để mở rộng hình thức và khả năng kinh doanh của nhà đầu tư. Ví dụ như một doanh
nghiệp sản xuất hàng may mặc sáp nhập với một doanh nghiệp có chuỗi cửa hàng bán quần
áo [51].
+ Sáp nhập kết hợp (Conglomerate Mergers) là cuộc sáp nhập giữa các doanh nghiệp
hoạt động trên những lĩnh vực hoàn toàn khác nhau. Hoạt động này giúp cho các nhà đầu tư
giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh thông qua việc đa dạng hóa hình thức và sản phẩm kinh
doanh, mở rộng hoạt động kinh doanh về mặt địa lý [51].
- Acquisitions - Mua lại: là hoạt động của một doanh nghiệp khi muốn nắm giữ hoặc

tìm cách kiểm soát hoạt động của một doanh nghiệp khác thông qua việc thâu tóm toàn bộ
hoặc một tỷ lệ cổ phần hay tài sản của doanh nghiệp mục tiêu đủ để khống chế toàn bộ các
quyết định của doanh nghiệp. Sau khi giao dịch kết thúc, doanh nghiệp bị mua lại có thể sẽ
chấm dứt sự tồn tại của mình theo quyết định của doanh nghiệp mua lại, hoặc tiếp tục hoạt
động trong mô hình công ty mẹ- con. Căn cứ vào tính chất của các thương vụ mua lại, có thể
chia hoạt động mua lại thành nhiều loại:
+ Mua lại “thôn tính”- Hostile Takeovers: là hình thức doanh nghiệp mua tiến hành
nhiều biện pháp để thực hiện việc mua lại khi công ty bị mua từ chối đề nghị mua của công
ty mua lại theo hình thức mua lại “thân thiện”. Các biện pháp đó có thể là chào mua với giá
trị cao hơn giá trị trên thị trường rất nhiều; lôi kéo các cổ đông không hài lòng với cách thức


15

tổ chức quản lý hiện hành của công ty; thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, mua
lại tài sản của công ty v.v…[52].
+ Mua lại “thân thiện”- Friendly Hostile : là hình thức doanh nghiệp mua đưa ra một
đề nghị mua lại doanh nghiệp bị mua, chủ sở hữu doanh nghiệp bị mua sau khi nhận đề nghị
tiến hành họp và đưa ra quyết định bán doanh nghiệp. Hợp đồng được kí kết và hai bên
nhanh chóng thanh lý hợp đồng và tiến hành các thủ tục tiếp theo [52].
+ Mua lại "ngược" - Reverse Takeover : là hình thức một công ty tư nhân mua lại
toàn bộ một công ty đại chúng, hình thức này mang lại cho công ty tư nhân cơ hội trở thành
công ty đại chúng mà có thể bỏ qua nhiều giai đoạn phức tạp (thẩm định, IPO, v.v..) [53].
Như vậy, khi một doanh nghiệp mua lại một doanh nghiệp khác và đặt mình vào vị
trí chủ sở hữu thì thương vụ đó gọi là mua bán. Dưới góc độ pháp lý, doanh nghiệp bị mua
lại không còn tồn tại, bên mua đã tiếp quản bên bán và cổ phiếu của bên mua (nếu là công ty
cổ phần). Từ đó có thể thấy hoạt động mua lại doanh nghiệp trên thế giới được quy định bao
gồm: việc mua toàn bộ doanh nghiệp hoặc mua cổ phần để nắm quyền chi phối đối với
doanh nghiệp, hay tranh thủ sự ủng hộ của các cổ đông để nắm quyền kiểm soát doanh
nghiệp.

Ở Việt Nam hiện nay, quan niệm về mua bán doanh nghiệp chưa có sự thống nhất
mà tùy vào từng trường hợp cụ thể các giao dịch mua bán doanh nghiệp có thể liên quan và
chịu sự điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp, cạnh tranh, đầu tư hoặc dân sự v.v…Tuy
nhiên, những quy định này vẫn nằm rải rác trong các văn bản pháp luật và chưa thực sự đề
cập cụ thể đến nội dung của hoạt động mua bán doanh nghiệp.
- Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp
mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn
bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại” (Khoản 3, Điều 17). Theo đó, mua
bán doanh nghiệp được hiểu là việc mua tài sản của doanh nghiệp và việc mua lại mang đến
cho bên mua quyền kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị
mua. Do mục tiêu của hoạt động mua bán doanh nghiệp là mục tiêu kiểm soát hoạt động
doanh nghiệp, việc mua bán không chỉ diễn ra đơn thuần với việc mua bán tài sản thông
thường mà phải thỏa thuận mua bán các yếu tố liên quan đến thương hiệu, tên thương mại,


16

lợi thế kinh doanh, nhãn hiệu hàng hóa, hệ thống nhân sự, hệ thống khách hàng v.v..[24, tr.
279,280].
Theo quan điểm của Luật Cạnh tranh, “mua lại doanh nghiệp” gắn liền với hoạt động
mua tài sản của doanh nghiệp nhằm nắm quyền kiểm soát chi phối doanh nghiệp đó. Nhưng
trên thực tế, việc mua cổ phần, vốn góp đến một mức nhất định cũng tạo điều kiện cho
người mua kiểm soát và chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Việc mua cổ phần, vốn góp
này hoàn toàn khác với việc mua tài sản của doanh nghiệp theo Luật Cạnh tranh. Trong hoạt
động mua tài sản của doanh nghiệp, bên bán là doanh nghiệp, còn chủ thể tham gia ký kết
hợp đồng mua bán cổ phần, vốn góp là người sở hữu phần vốn góp, cổ đông. Bên mua sẽ trở
thành thành viên doanh nghiệp và tham gia hoạt động quản lý doanh nghiệp. Nhưng nhiều
trường hợp việc mua bán cổ phần, vốn góp có thể chỉ là một hành vi đầu tư thông thường
của bên mua bởi không phải lúc nào họ cũng nhằm mục đích tham gia vào hoạt động quản
trị doanh nghiệp, hay nhằm kiểm soát chi phối hoạt động doanh nghiệp. Đây cũng chính là

điểm vướng mắc trong hệ thống pháp luật Việt Nam về mua bán doanh nghiệp.
Tóm lại, qua nghiên cứu quan niệm về mua bán doanh nghiệp trên thế giới và ở Việt
Nam, có thể hiểu mua bán doanh nghiệp là việc chủ sở hữu doanh nghiệp chuyển quyền sở
hữu một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khác thông qua hợp đồng
mua bán doanh nghiệp hoặc thông qua việc chuyển nhượng cổ phần, vốn góp của các thành
viên trong doanh nghiệp với mục đích để bên mua nắm quyền kiểm soát giá trị doanh nghiệp.
* Quan niệm về mua bán doanh nghiệp một chủ sở hữu
Hiện nay, các doanh nghiệp một chủ sở hữu ở nước ta tồn tại dưới các hình thức doanh
nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên. Việc mua bán các doanh nghiệp này sẽ đơn giản hơn các loại
hình doanh nghiệp khác bởi yếu tố chỉ có một chủ sở hữu.
- Theo Nghị định số 109/2008/NĐ-CP về bán, giao doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước: “Bán toàn bộ hoặc bộ phận doanh nghiệp 100% vốn nhà nước là việc chuyển sở
hữu có thu tiền toàn bộ doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp sang sở hữu tập thể, cá
nhân hoặc pháp nhân khác” (khoản 1, điều 3). Định nghĩa này cho phép chúng ta xác định
một số đặc điểm của bán doanh nghiệp 100% vốn nhà nước:


17

+ Thứ nhất, bán doanh nghiệp 100% vốn nhà nước là việc chuyển giao quyền sở
hữu toàn bộ hoặc bộ phận doanh nghiệp từ sở hữu Nhà nước cho chủ sở hữu khác. Chủ thể
có quyền quyết định việc bán doanh nghiệp ở đây chỉ duy nhất là Nhà nước.
+ Thứ hai, đối tượng của bán doanh nghiệp 100% vốn nhà nước là bộ phận hoặc
toàn bộ doanh nghiệp, trong đó bao gồm cả tài sản vô hình và tài sản hữu hình. Việc bán
doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là bán tài sản của doanh nghiệp mà còn bán lợi thế kinh
doanh. Nói cách khác, doanh nghiệp chính là “hàng hoá, tài sản” nên quan hệ mua bán
doanh nghiệp cũng phải tuân thủ những nguyên tắc chung trong các quan hệ mua bán tài
sản do Bộ luật dân sự điều chỉnh.
+ Thứ ba, giá trị trao đổi phải được tính bằng tiền trong quan hệ mua bán doanh

nghiệp này. Đây là quan hệ trao đổi ngang giá, hình thức trao đổi là nhận thanh toán. Tức
là, người bán doanh nghiệp sẽ được thanh toán bằng tiền phần doanh nghiệp đã chuyển
giao quyền sở hữu.
+ Thứ tư, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sau khi được bán có thể tồn tại dưới
nhiều hình thức khác nhau, tuỳ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu mới bằng việc đăng kí kinh
doanh lại đối với doanh nghiệp được bán.
Như vậy, quy định về việc bán doanh nghiệp tại Nghị định 109/2008/NĐ-CP sẽ chỉ
được áp dụng để thực hiện bán các doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Chủ sở hữu doanh nghiệp ở đây là Nhà nước- một chủ thể đặc biệt. Do đó, trong hệ thống
pháp luật Việt Nam hiện nay, Nghị định này cũng là văn bản đầy đủ nhất điều chỉnh hoạt
động mua bán một trong số các doanh nghiệp một chủ sở hữu. Những quy định này không
thể áp dụng để bán các loại hình doanh nghiệp còn lại như doanh nghiệp tư nhân hay công
ty TNHH một thành viên.
- Luật Doanh nghiệp 2005 có quy định về việc bán doanh nghiệp tư nhân:“Chủ
doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác” (khoản 1,
điều 146); sau khi tiến hành xong hoạt động mua bán “Người mua doanh nghiệp phải
đăng ký kinh doanh lại theo quy định của Luật này” (khoản 4, điều 146).
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân đầu tư vốn để tiến hành sản
xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Theo quy định trên,


18

chủ doanh nghiệp tư nhân là người duy nhất có quyền quyết định bán doanh nghiệp của
mình cho người khác. Việc bán doanh nghiệp tư nhân được hiểu là việc chuyển giao quyền
sở hữu doanh nghiệp tư nhân cho người khác, bao gồm các tài sản và các giá trị tài sản khác
của doanh nghiệp (không giới hạn ở giá trị hữu hình). Vậy bán doanh nghiệp tư nhân và bán
tài sản doanh nghiệp tư nhân có phải là hai hình thức mang bản chất giống nhau?
Thực chất của việc mua bán tài sản doanh nghiệp là sự chuyển nhượng một phần
hay toàn bộ tài sản, quyền tài sản của doanh nghiệp cho tổ chức, cá nhân khác thông qua

sự thỏa thuận giữa doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân đó. Hai hoạt động mua bán doanh
nghiệp và mua bán tài sản doanh nghiệp tuy về mặt hình thức có những điểm tương đồng
nhưng đó là hai vấn đề có bản chất khác nhau. Cụ thể như sau :
+ Về đối tượng: Việc mua bán doanh nghiệp và mua bán tài sản doanh nghiệp đều
là hai hoạt động thương mại có liên quan đến tài sản doanh nghiệp - đều là hoạt động
chuyển quyền sở hữu có thu tiền, tuy nhiên đối tượng của hoạt động mua bán tài sản
doanh nghiệp chỉ đơn thuần là tài sản của doanh nghiệp còn đối tượng của mua bán doanh
nghiệp lại là “doanh nghiệp”. Những thỏa thuận trong mua bán doanh nghiệp không chỉ là
thỏa thuận về tài sản hữu hình của doanh nghiệp mà còn cả những thỏa thuận về các giá trị
tiềm năng của doanh nghiệp như tên thương mại, thương hiệu, hệ thống khách hàng,
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với các bên thứ ba, hệ thống quản lý cũng như
đội ngũ nhân công v.v…
Sau khi mua lại doanh nghiệp, bên mua sẽ tiếp tục khai thác các giá trị thương mại
của doanh nghiệp mục tiêu. Vì vậy, đối tượng của hoạt động mua bán doanh nghiệp không
chỉ đơn thuần là những tài sản, đó còn là một thực thể pháp lý đang tồn tại, đang tiến hành
sản xuất kinh doanh. Đặc điểm này tạo ra sự khác biệt cơ bản giữa hoạt động mua bán
doanh nghiệp và mua bán tài sản doanh nghiệp.
+ Vấn đề kiểm soát, chi phối toàn bộ ngành nghề của doanh nghiệp: Hoạt động
mua bán tài sản doanh nghiệp và mua bán doanh nghiệp đều có chung một dấu hiệu đó là
hành vi mua bán toàn bộ tài sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, hai hoạt động này khác nhau ở
chỗ là việc mua bán đó có cho phép người mua kiểm soát, chi phối bộ phận hoặc toàn bộ


19

ngành nghề của doanh nghiệp hay không, nếu có đó là hoạt động mua bán doanh nghiệp
còn nếu không nó chỉ là một quan hệ mua bán tài sản doanh nghiệp.
+ Vấn đề chủ sở hữu doanh nghiệp: Hoạt động mua bán tài sản doanh nghiệp sẽ
không làm thay đổi chủ sở hữu của doanh nghiệp còn hoạt động mua bán doanh nghiệp lại
làm thay đổi chủ sở hữu của doanh nghiệp. Bởi vậy về mặt thủ tục, khi tiến hành mua bán

tài sản doanh nghiệp, các bên không phải thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh, nhưng
khi tiến hành mua bán doanh nghiệp thì phải thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh.
Rõ ràng, hai hoạt động này có hành vi bên ngoài rất giống nhau, nhưng mục đích,
nội dung, hậu quả pháp lý và thủ tục tiến hành thì rất khác nhau. Chính vì vậy, không thể
cho rằng việc mua bán doanh nghiệp tư nhân thực chất chỉ là mua bán tài sản doanh
nghiệp mà cần phải căn cứ vào thỏa thuận của các bên để xác định. Nếu như trong hợp
đồng mua bán thỏa thuận rõ ràng về việc bên mua sẽ sở hữu doanh nghiệp và tiếp tục được
sử dụng các tài sản của doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp mới hoàn toàn có thể đăng ký lại
với tên doanh nghiệp, tên sản phẩm, thương hiệu v.v... như vốn có của doanh nghiệp đó
trước khi nó được thay đổi chủ sở hữu. Thậm chí nếu người mua và người bán thỏa thuận
được với nhau thì người mua có thể trở thành người gánh chịu toàn bộ các khoản nợ của
doanh nghiệp trước khi bán, thì thực chất nó vẫn là chính nó, vẫn tiếp tục được vận hành
chỉ là dưới chủ sở hữu mới mà thôi, như thế bản thân hoạt động này đã mang đầy đủ các
đặc điểm của hoạt động mua bán doanh nghiệp.
Ngoài các quy định về mua bán doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, mua bán doanh
nghiệp tư nhân, pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ quy định về mua bán, chuyển nhượng
vốn góp, cổ phần chứ không có quy định về mua bán các loại hình doanh nghiệp còn lại,
trong đó có công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Công ty TNHH một thành viên
là loại hình doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu. Cũng giống
như các hình thức doanh nghiệp một chủ khác, chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên
có toàn quyền quyết định mọi hoạt động của công ty. Pháp luật hiện hành chưa có quy
định cụ thể về việc mua bán loại hình công ty này mà chỉ có quy định về vấn đề chuyển
nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ cho người khác.
Đối với loại hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu như công ty TNHH hai thành
viên hay công ty cổ phần pháp luật có quy định về vấn đề chuyển nhượng cổ phần, vốn


×