Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận Thương Mại Quốc tế Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam khi gia nhập Asean.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.2 KB, 28 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế. Tiến trình
toàn cầu hoá mở ra cho các quốc gia cả những quốc gia phát triển và đang phát triển
những cơ hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Hội nhập quốc tế vừa
là cơ hội đồng thời cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong công
cuộc tìm được chỗ đứng của mình trên thị trường quốc tế. Trình độ phát triển kinh tế
của nước ta còn thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới. Một
trong những yếu kém hiện nay của toàn nền kinh tế nói chung và của các doanh
nghiệp nói riêng đó là sức cạnh tranh trên thị trường cả trong nước lẫn nước ngoài.
Việc nhìn nhận được những thuận lợi và khó khăn của mình sẽ giúp cho các doanh
nghiệp Việt Nam rút ra những bài học bổ ích và tìm được lời giải đúng nhất trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc đẩy mạnh tham gia hội nhập vào nền
kinh tế thế giới và khu vực là một vấn đề quan trọng của công cuộc đổi mới. Tuy
nhiên, hội nhập sẽ đón nhận được những cơ hội, thuận lợi phát triển song kinh tế Việt
Nam sẽ phải đối mặt với các thách thức. Nhằm nâng cao tư duy hiểu biết vấn đề kinh
tế nên chúng em đã chọn đề tài: “Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay”. Bài viết của chúng em sẽ đề
cập về cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam khi gia nhập Asean.
Chúng em xin chân thành cám ơn các thầy cô đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành
đề tài. Tuy nhiên đề tài còn nhiều bất cập, không tránh khỏi những thiếu sót em rất
mong được sự góp ý chân thành của các thầy cô để đề tài được đi vào thực tiễn.
PHẦN 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ASEAN
A. Sự hình thành và phát triển của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN )
1. Khái quát
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations-
ASEAN) được thành lập ngày 8/8/1967 bởi Tuyên bố Băng-cốc, Thái Lan, đánh dấu
một mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của khu vực.
Khi mới thành lập ASEAN gồm 5 nước là In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin,


Xin-ga-po và Thái Lan. Năm 1984 ASEAN kết nạp thêm Bru-nây Da-ru-xa-lam làm
thành viên thứ 6. Ngày 28/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội.
Ngày 23/7/1997 kết nạp Lào và Mi-an-ma. Ngày 30/4/1999, Căm-pu-chia trở thành
thành viên thứ 10 của ASEAN, hoàn thành ý tưởng về một ASEAN bao gồm tất cả
các quốc gia Đông Nam Á, một ASEAN của Đông Nam Á và vì Đông Nam Á.
Các nước ASEAN (trừ Thái Lan) đều trải qua giai đoạn lịch sử là thuộc địa của
các nước phương Tây và giành được độc lập vào các thời điểm khác nhau sau Chiến
tranh thế giới thứ hai. Mặc dù ở trong cùng một khu vực địa lý, song các nước
ASEAN rất khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hoá, tạo thành một sự
đa dạng cho Hiệp hội.
ASEAN có diện tích hơn 4.5 triệu km2 với dân số khoảng 575 triệu người; GDP
khoảng 1281 tỷ đô la Mỹ và tổng kim ngạch xuất khẩu 750 tỷ USD. Các nước
ASEAN có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và hiện nay đang đứng hàng đầu
thế giới về cung cấp một số nguyên liệu cơ bản như: cao su (90% sản lượng cao su
thế giới); thiếc và dầu thực vật (90%), gỗ xẻ (60%), gỗ súc (50%), cũng như gạo,
đường dầu thô, dứa Công nghiệp của các nước thành viên ASEAN cũng đang trên
đà phát triển, đặc biệt trong các lĩnh vực: dệt, hàng điện tử, hàng dầu, các loại hàng
tiêu dùng. Những sản phẩm này được xuất khẩu với khối lượng lớn và đang thâm
nhập một cách nhânh chóng vào các thị trường thế giới. ASEAN là khu vực có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao so với các khu vực khác trên thế giới, và được coi là tổ chức
khu vực thành công nhất của các nước đang phát triển.
Tuy nhiên mức độ phát triển kinh tế giữa các nước ASEAN không đồng đều. Mi-
an-ma hiện là nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người thấp nhất trong
ASEAN, chỉ vào khoảng hơn 200 đôla Mỹ. In-đô-nê-xi-a là nước đứng đầu về diện
tích và dân số trong ASEAN, nhưng thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ vào
khoảng trên 600 đôla Mỹ. Trong khi đó, Xin-ga-po và Bru-nây Đa-ru-xa-lam là hai
quốc gia nhỏ nhất về diện tích (Xin-ga-po ) và về dân số (Bru-nây Đa-ru-xa-lam) lại
có thu nhập theo đầu người cao nhất trong ASEAN, vào khoảng trên 30.000 đô la
Mỹ/năm.
Ở các nước ASEAN đang diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ theo

hướng công nghiệp hoá. Nhờ chính sách kinh tế “hướng ngoại”, nền ngoại thương
ASEAN đã phát triển nhanh chóng, tăng gần năm lần trong 20 năm qua, đạt trên 160
tỷ đôla Mỹ vào đầu những năm 1990 (nay là 750 tỷ đôla Mỹ). ASEAN cũng là khu
vực ngày càng thu hút nhiều vốn đầu tư của thế giới. Nếu năm 2005, tổng số vốn đầu
tư mà ASEAN thu hút được tăng 16,9% so với năm 2004, thì năm 2006, tổng số vốn
đầu tư đã tăng 27,5%.
II/ Quá trình hình thành và phát triển:
1. Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ra đời trong bối cảnh có
nhiều biến động đang diễn ra trong khu vực và trên thế giới, bao gồm cả những thay
đổi từ bên ngoài tác động vào khu vực cũng như những vấn đề nảy sinh từ bên trong
mỗi nước. Để đối phó với các thách thức này, xu hướng co cụm lại trong một tổ chức
khu vực với một hình thức nào đó để tăng cường sức mạnh bản thân đã xuất hiện và
phát triển trong các nước thành viên tương lai của ASEAN. Trước ASEAN, ở Đông
Nam Á đã có một vài tổ chức khu vực ra đời và tồn tại được một thời gian ngắn hoặc
đã manh nha hình thành. Đó là Hiệp hội Đông Nam Á ( The Association of Southeast
Asia- ASA) được thành lập ngày 31/7/1961 gồm Thái Lan, Phi-lip-pin và Liên bang
Ma-lay-a và tổ chức MAPHILINDO ra đời tháng 8 năm 1963 bao gồm Mã Lai, Phi-
lip-pin và In-đô-nê-xi-a.
Mặc dù vậy, những nỗ lực theo hướng trên vẫn được xúc tiến và ngày 8/8/1967
Bộ trưởng Ngoại giao các nước In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, Phi-lip-pin, Xin-ga-po và
Phó Thủ tướng Ma-lai-xi-a ký tại Băng-cốc bản Tuyên bố thành lập Hiệp hội các
nước Đông Nam Á (ASEAN).
2. Một số mốc phát triển quan trọng:
Tuyên bố Băng-cốc:
Đây là Tuyên bố thành lập Hiệp hội các nước Đông Nam Á với mục tiêu đẩy
mạnh tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, phát triển văn hoá; tăng cường hợp tác giúp
đỡ lẫn nhau cũng như thúc đẩy hoà bình, ổn định trong khu vực. ASEAN không có
Hiến chương riêng, trong 9 năm đầu ASEAN không có một Ban thư ký để phối hợp
hoạt động của mình.
Tuyên bố Cua-la Lăm-pơ:

Tháng 11/1971, các nước ASEAN đã đưa ra văn bản quan trọng đầu tiên là
Tuyên bố Cua-la Lăm-pơ về thiết lập Khu vực Hoà bình, Tự do và Trung lập ở Đông
Nam Á (ZOPFAN). Tuyên bố này đã định ra các mục tiêu cơ bản và lâu dài của
ASEAN là xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hoà bình, tự do, và trung lập,
không có sự can thiệp dưới bất cứ hình thức nào của các cường quốc bên ngoài.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ I năm 1976
Hội nghị Cấp cao ASEAN đã họp lần đầu tiên tại Ba-li (In-đô-nê-xi-a) từ 23-
24/2/1976. Tại hội nghị này các vị đứng đầu chính phủ ASEAN đã ký hai văn kiện
quan trọng:
- Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Ba-li), khẳng định 5
nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình (TAC).
- Tuyên bố về sự hoà hợp ASEAN: Cam kết cùng phối hợp để đảm bảo sự ổn
định khu vực cũng như tăng cường sự hợp tác kinh tế, văn hoá, giúp đỡ lẫn nhau giữa
các thành viên của ASEAN.
Tại Hội nghị Cấp cao này, các nước ASEAN cũng đã ký Hiệp định thành lập Ban
thư ký ASEAN (có trụ sở đặt tại Gia-các-ta) để phối hợp hoạt động giữa các uỷ ban
và dự án hợp tác ASEAN.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ II năm 1977
Từ ngày 4-5/8/1977, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ hai đã được tổ chức tại
Cua-la Lăm-pơ nhân kỷ niệm 10 năm ngày thành lập ASEAN. Hội nghị đạt được hai
kết quả quan trọng. Thứ nhất, chính thức hình thành cơ chế đối thoại giữa ASEAN
với các nước công nghiệp phát triển nhằm nâng cao vai trò của ASEAN trong cộng
đồng quốc tế. Lần đầu tiên những Người đứng đầu Chính phủ của ba nước ngoài khu
vực là Nhật Bản, Ô- xtrây-li-a, Niu Di-lân đã tham gia đối thoại với ASEAN sau Hội
nghị chính thức. Đến nay, ASEAN có 11 nước và tổ chức đối thoại là: Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôt-xtrây-lia, Niu Di-lân, ấn Độ, Nga, EU, Mỹ, Ca-na-đa và
UNDP. Ngoài ra, ASEAN còn có cơ chế đối thoại theo lĩnh vực với Pakistan. Thứ
hai, cơ cấu lại Uỷ ban hợp tác ASEAN để chuẩn bị cho việc mở rộng hợp tác
ASEAN ra mọi lĩnh vực.
Kết nạp Bru-nây Đa-ru-xa-lam

Bru-nây Đa-ru-xa-lam là quan sát viên của ASEAN từ năm 1981. Ngày 1/1/1984,
Bru-nây nộp đơn xin gia nhập ASEAN và ngày 7/1/1984, Bru-nây được chính thức
kết nạp vào ASEAN với nghi lễ trọng thể tại Gia-các-ta và trở thành thành viên thứ
sáu của Hiệp hội ASEAN.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ III năm 1987
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ III được tổ chức tại Ma-ni-la, Phi-lip-pin từ
14-15/12/1987, nhân kỷ niệm 20 năm thành lập ASEAN. Tại Hội nghị này, các vị
đứng đầu Chính phủ các nước ASEAN đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng sau:
- Tuyên bố Ma-ni-la năm 1987: bày tỏ quyết tâm của các nước ASEAN tiếp tục
thúc đẩy và củng cố đoàn kết và hợp tác khu vực, giải quyết các tranh chấp bằng biện
pháp hoà bình, đẩy mạnh hơn nữa hợp tác kinh tế, khuyến khích khu vực tư nhân
tham gia vào hợp tác ASEAN.
- Nghị định thư Ma-ni-la sửa đổi Điều 14 và Điều 18 của TAC để các nước ngoài
khu vực có thể tham gia.
- Hiệp ước khuyến khích và bảo đảm đầu tư ASEAN.
- Nghị định thư về mở rộng danh mục thuế ưu đãi theo thoả thuận ưu đãi thương
mại ASEAN (PTA).
Về cơ cấu tổ chức, Hội nghị quyết định thành lập cơ chế Hội nghị liên Bộ trưởng
(JMM) bao gồm Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Kinh tế và thể chế hoá các cuộc
họp quan chức cao cấp (SOM) và cuộc họp các quan chức cao cấp về kinh tế
(SEOM).
Trong dịp này, các vị đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các nước ASEAN cũng
quyết định sẽ họp 3-5 năm một lần.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ IV năm 1992
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ IV được tiến hành ở Xin-ga-po từ 27-
28/1/1992. Tại Hội nghị này, ASEAN đã thông qua những văn kiện và quyết định
quan trọng sau:
- Tuyên bố Xin-ga-po năm 1992 khẳng định quyết tâm của ASEAN đưa sự hợp
tác chính trị và kinh tế lên tầm cao hơn và mở rộng hợp tác sang lĩnh vực hợp tác an
ninh

- Hiệp định khung về hợp tác kinh tế ASEAN, nêu ba nguyên tắc là hướng ra bên
ngoài, cùng có lợi và linh hoạt đối với sự tham gia vào các dự án, chương trình của
các nước thành viên; xác định năm lĩnh vực hợp tác cụ thể là thương mại-công
nghiệp-năng lượng-khoáng sản, nông-lâm-ngư-nghiệp, tài chính-ngân hàng, vận tải-
liên lạc và du lịch.
- Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) quy
định cụ thể các biện pháp và các giai đoạn giảm thuế nhập khẩu tiến tới thực hiện
AFTA.
Hội nghị còn quyết định Hội nghị cấp cao sẽ họp 3 năm một lần, thành lập Hội
đồng AFTA cấp Bộ trưởng để theo dõi thúc đẩy việc thực hiện CEPT và AFTA, giao
cho SEOM giám sát các hoạt động hợp tác kinh tế ASEAN, nâng cấp Tổng thư ký
ASEAN lên hàm Bộ trưởng.
Việt Nam và Lào ký tham gia Hiệp ước thân thiện và hợp tác (Hiệp ước Ba-
li) tháng 7/1992
Tháng 7/1992, tại AMM25 ở Ma-ni-la, đã diễn ra Lễ ký để Việt Nam và Lào
chính thức tham gia Hiệp ước. Ngay sau lễ ký, ASEAN đã tuyên bố Việt Nam và Lào
trở thành quan sát viên của tổ chức ASEAN.
Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) tháng 7/1994
Để đảm bảo môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển trong bối cảnh mới ở
khu vực và trên thế giới, tháng 7/1993 các nước ASEAN quyết định thành lập Diễn
đàn khu vực ASEAN (ARF) với sự tham gia của 18 nước trong và ngoài khu vực để
bàn về vấn đề an ninh khu vực (gồm 6 nước ASEAN, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Nga,
Canađa, Liên minh châu Âu, Ôx-trây-li-a, Niu Dilân, Việt Nam, Lào, Hàn Quốc và
Papua Niu Ghinê).
Việt Nam trở thành thành viên ASEAN tháng 7/1995
Tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 27 ở Băng-cốc (tháng 7/1994) các
nước ASEAN đã tuyên bố sẵn sàng chấp nhận Việt Nam làm thành viên Hiệp hội.
Ngày 17/10/1994, Việt Nam đã chính thức đặt vấn đề trở thành thành viên đầy đủ của
ASEAN. Ngày 28/7/1995, lễ trọng thể kết nạp Việt Nam làm thành viên thứ 7 của tổ
chức ASEAN đã diễn ra tại Bru-nây, trong dịp họp Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN

lần thứ 28.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ V năm 1995
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 5 đã diễn ra tại Băng-cốc tháng 12/1995. Hội
nghị đã có những quyết định và văn bản quan trọng sau:
- Nâng hợp tác chuyên ngành lên tầm cao mới, ngang với hợp tác chính trị-an
ninh và kinh tế nhằm thông qua phát triển con người, đoàn kết xã hội để đạt sự thịnh
vượng chung cho cả khu vực.
- Rút ngắn thời gian thực hiện AFTA từ 15 năm xuống còn 10 năm; thậm chí có
thể hoàn thành trước thời hạn 2003, và mở rộng hợp tác ASEAN sang lĩnh vực mới
như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, lập khu vực đầu tư ASEAN
- Ký kết Hiệp ước về một khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân
(SEANWFZ), là một văn kiện quan trọng tiến tới xây dựng Đông Nam Á thành một
khu vực hoà bình, ổn định.
Hội nghị Cấp cao ASEAN không chính thức lần thứ nhất tại In-đô-nê-xi-a tháng
12/1996:
Để tăng cường sự tiếp xúc giữa các nhà lãnh đạo cấp cao trong khu vực để thảo
luận những vấn đề cấp bách, các vị lãnh đạo ASEAN đã thoả thuận: giữa các cuộc
họp chính thức sẽ tổ chức các cuộc họp không chính thức hàng năm. Tháng 12/1996
tại Gia-các-ta đã diễn ra cuộc họp cấp cao không chính thức đầu tiên.
Lào và Mi-an-ma gia nhập ASEAN tháng 7/1997
Tháng 7/1997 tại AMM 30, Lào và Mi-an-ma chính thức gia nhập ASEAN.
Hội nghị Cấp cao ASEAN không chính thức lần thứ hai tại Cua-la Lăm-pơ tháng
12 năm 1997:
Hội nghị này được tổ chức trùng với dịp ASEAN tiến hành kỷ niệm 30 năm ngày
thành lập ASEAN. Tại Hội nghị này, các Nguyên thủ cũng thông qua các văn bản
Tầm nhìn ASEAN 2020, đề ra các hướng phát triển chiến lược của ASEAN trong
giai đoạn đầu thế kỷ 21.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VI tại Hà Nội 16-17/12/1998:
Hội nghị đã thông qua các văn kiện quan trọng như Tuyên bố Hà Nội, Chương
trình Hành động Hà Nội, Tuyên bố về các biện pháp mạnh mẽ (để cải thiện môi

trường đầu tư ASEAN), và ký 4 Hiệp định hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể. Hội nghị
còn quyết định kết nạp Căm-pu-chia làm thành viên thứ 10 của ASEAN và giao cho
các Ngoại trưởng ASEAN tiến hành lễ kết nạp đặc biệt tại Hà Nội.
Lễ kết nạp Căm-pu-chia tại Hà Nội tháng 4/1999
Lễ kết nạp Căm-pu-chia chính thức trở thành thành viên thứ 10 của Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á đã được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 30/4/1999.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VII tại Bru-nây Đa-ru-xa-lam 5-6/11/2001
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VII diễn ra tại Bru-nây Đa-ru-xa-lam từ ngày
5-6/11/2001 khẳng định lại Chương trình hành động Hà Nội (HPA) vẫn là định
hướng quan trọng để thực hiện Tầm nhìn ASEAN; đẩy mạnh liên kết ASEAN, nhất
là trong lĩnh vực kinh tế; tập trung trao đổi vấn đề thu hẹp khoảng cách phát triển,
giúp các thành viên mới. Nhân dịp này, Hội nghị cũng đã thông qua Tuyên bố chung
chống khủng bố.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VIII tại Phnôm-pênh, Cam-pu-chia, 4-
5/11/2002
ASEAN nhất trí cần tiếp tục duy trì hoà bình ổn định, tăng cường hợp tác chính
trị, an ninh, cải thiện hình ảnh và vị thế của ASEAN, giải quyết các bất đồng theo
phương thức ASEAN; nhấn mạnh cần triển khai nhanh các sáng kiến, chương trình
đã có qua các biện pháp chính sau:
- Tăng cường liên kết nội khối, giảm hàng rào phi quan thuế, cải thiện môi trường
đầu tư để tăng buôn bán, đầu tư nội khối trước bối cảnh các thị trường truyền thống
của ASEAN giảm mạnh bởi suy thoái kinh tế thế giới.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của ASEAN.
- Tập trung triển khai các dự án ưu tiên, nhất là về thu hẹp khoảng cách, giúp các
thành viên mới, phát triển Tiểu vùng như Mê-công.
- Xác định lại mục tiêu phát triển của ASEAN và nghiên cứu chiến lược phát
triển của Hiệp hội để tiến tới hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN có tính đến
những kinh nghiệm của Liên minh Châu âu.
Nhân dịp này, Cấp cao ASEAN - ấn Độ lần đầu tiên được tổ chức và các nhà
Lãnh đạo ASEAN đã nhất trí họp Cấp cao ASEAN + ấn Độ hàng năm. ASEAN và

Trung Quốc đã ký Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), coi
đây là một bước quan trọng tiến đến hình thành Bộ Quy tắc ửng xử ở Biển Đông
(COC); và ký Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc,
theo đó dự kiến thời điểm hoàn thành Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - Trung
Quốc là năm 2010 (với 6 nước ASEAN cũ) và 2015 với 4 nước ASEAN mới.)
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ IX tại Ba-li, In-đô-nê-xi-a, 7-8/10/2003
Kết quả quan trọng nhất của Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ IX là các Lãnh
đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (Tuyên bố Bali II) nêu những định
hướng chiến lược lớn của ASEAN với mục tiêu thành lập một cộng đồng ASEAN
liên kết mạnh, tự cường vào năm 2020 với ba trụ cột chính là hợp tác chính trị-an
ninh (Cộng đồng An ninh ASEAN-ASC), hợp tác kinh tế (Cộng đồng kinh tế
ASEAN-AEC), và hợp tác xã hội/văn hoá (Cộng đồng xã hội/văn hoá ASEAN-
ASCC). Nhằm triển khai Tuyên bố Ba-li II, ASEAN sẽ xây dựng Chương trình Hành
động để thông qua tại Cấp cao ASEAN-10 tại Viêng-chăn tháng 11/2004.
Trung Quốc chính thức tham gia Hiệp ước Thân thiện và hợp tác (TAC). Nhật
Bản ký với ASEAN Khuôn khổ Đối tác Kinh tế toàn diện (CEP), cụ thể hoá các bước
đi xây dựng CEP ASEAN-Nhật trong đó có Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Nhật;
nêu sáng kiến tổ chức hội nghị ASEAN-Nhật Bản về đầu tư bên lề Cấp cao Kỷ niệm
ASEAN-Nhật bản tháng 12/2003. Tại Cấp cao ASEAN+Ấn Độ: Hai bên ký Hiệp
định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-Ấn Độ, trong đó có lộ trình xây
dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Ấn Độ (FTA) và chương trình Thu hoạch
sớm. ấn Độ cũng chính thức tham gia Hiệp ước TAC
Hội nghị Cấp cao kỷ niệm ASEAN-Nhật Bản, Tô-ky-ô, 11-12/12/2003
Hội nghị Cấp cao kỷ niệm ASEAN - Nhật Bản là một trong những hoạt động kỷ
niệm 30 năm quan hệ ASEAN - Nhật Bản. Tại Hội nghị này, Lãnh đạo ASEAN và
Nhật đã ký “Tuyên bố Tô-ky-ô về quan hệ đối tác ASEAN - Nhật năng động và bền
vững trong thiên niên kỷ mới” cùng với “Kế hoạch hành động”. Tuyên bố khẳng định
ASEAN và Nhật quyết tâm phát triển quan hệ toàn diện trong khuôn khổ "đối tác
chiến lược"; nêu 7 chiến lược hành động chung về hợp tác trên các lĩnh vực: kinh tế -
tài chính, phát triển, an ninh - chính trị, phát triển nguồn nhân lực, văn hoá - xã hội,

giao lưu nhân dân, hợp tác Đông á, và hợp tác trên các vấn đề toàn cầu. Trong đó,
trọng tâm lớn nhất là hợp tác kinh tế, phát triển, đặc biệt là phát triển các tiểu vùng
tăng trưởng của ASEAN như lưu vực Mê-công và BIMP-EAGA (Khu vực tăng
trưởng Đông ASEAN gồm Bru-nêi, In-đô-nê-xia, Ma-lai-xia và Phi-líp-pin). Ngoài 2
văn kiện trên, Ngoại trưởng Nhật ký Tuyên bố ý định tham gia Hiệp ước Thân thiện
và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) và Ngoại trưởng In-đô-nê-xia thay mặt các nước
ASEAN ký Tuyên bố đồng ý việc Nhật tham gia TAC. Nhật sẽ hoàn tất thủ tục trình
Quốc hội và Nhật Hoàng để có thể sớm chính thức tham gia TAC.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ X và các Cấp cao liên quan tại Viên-chăn,
Lào, 28 – 30/11/2004:
Thủ tướng nước ta Phan Văn Khải đã tham dự các Hội nghị này.
1. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN, các vị Lãnh đạo đã thông qua một số quyết
định quan trọng sau:
- Để thực hiện Tầm nhìn ASEAN2020 và Tuyên bố Bali II, các vị Lãnh đạo
ASEAN đã ký Chương trình Hành độngViên-chăn (VAP) sau khi hoàn tất Chương
trình Hành động Hà Nội (HPA) nhằm xâydựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2020
với 3 trụ cột về chính trị-an ninh, kinh tế,văn hoá-xã hội, trong đó có hợp phần về IAI
nhằm thu hẹp khoảng cách phát triểngiữa các nước thành viên ASEAN. Các vị Lãnh
đạo cũng thông qua các Kế hoạch Hànhđộng xây dựng Cộng đồng An ninh ASEAN
(ASC) và Cộng đồng Văn hoá - xã hội ASEAN(ASCC); đồng thời ký Hiệp định
khung về 11 lĩnh vực ưu tiên liên kết của ASEANnhằm xây dựng Cộng đồng Kinh tế
ASEAN(AEC).
- Các Lãnh đạo ASEAN cũng nhất trí tổ chức Hội nghị Cấp cao Đông Á lần thứ
nhất (EAS-1) vào năm 2005 tại Ma-lai-xi-a.
2. Lần đầu tiên đã diễn ra Hội nghị Cấp cao ASEAN với Ốt-xtrây-li-a và Niu Di-
lân để kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ đối thoại. Tại Hội nghị, các vị Lãnh đạo
ASEAN cùng với Ốt-xtrây-li-a và Niu Di-lân đã ký “Tuyên bố chung của các Lãnh
đạo nhân dịp Cấp cao kỷ niệm ASEAN với Ốt-xtrây-li-a và Niu Di-lân”, đề ra
phương hướng và biện pháp tăng cường quan hệ đối thoại trong thời gian tới.
3. Trong dịp này, Hàn Quốc và Nga đã chính thức tham gia vào Hiệp ước Thân

thiện và Hợp tác Đông Nam Á (TAC)
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ XI và các Cấp cao liên quan tại Kua-la
Lăm-pơ, Ma-lai-xi-a, 11 – 14/12/2005:
Thủ tướng nước ta Phan Văn Khải đã tham dự các Hội nghị này.
1. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN, các Lãnh đạo đã ra Tuyên bố về Xây dựng
Hiến chương ASEAN đề ra phương hướng và nguyên tắc chỉ đạo; thành lập và giao
nhiệm vụ cho Nhóm các nhân vật nổi tiếng (EPG) nghiên cứu và đề xuất những
khuyến nghị thực tiễn; và sau này sẽ lập Nhóm soạn thảo Hiến chương.
Các vị Lãnh đạo cũng nhất trí cần xem xét khả năng sớm hoàn thành mục tiêu
xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, nhất là về kinh tế, sớm hơn 5 năm so
với thỏa thuận trước, và có linh hoạt đối với những nước chưa sẵn sàng; nhất trí tập
trung nỗ lực cao hơn và huy động mọi nguồn lực để thực hiện có hiệu quả các
chương trình và kế hoạch hành động chính như Chương trình Hành động Viên-chăn
(VAP) và Sáng kiến Liên kết ASEAN (IAI), nhất là về liên kết kinh tế và thu hẹp
khoảng cách phát triển; nhấn mạnh phải không ngừng củng cố đoàn kết và thống
nhất, thúc đẩy ý thức cộng đồng và hướng trọng tâm về người dân; duy trì vai trò
trung tâm của ASEAN trong các cấu trúc hợp tác khu vực.
2. Hội nghị Cấp cao Đông Á lần thứ nhất (EAS-1) được tổ chức nhân dịp này là
bước phát triển mới có ý nghĩa, góp phần thúc đẩy xu thế đối thoại và hợp tác vì phát
triển ở khu vực, thể hiện tính năng động và vai trò quan trọng của ASEAN. Nội dung
thảo luận tập trung vào những vấn đề lớn cùng quan tâm hiện nay. Các nhà Lãnh đạo
16 nước tham dự EAS-1 (10 nước thành viên ASEAN, Ốt-xtrây-li-a, Trung Quốc, Ấn
Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Niu Di-lân) đã ký Tuyên bố về EAS để xác định phương
hướng và khuôn khổ cho EAS, xác định EAS là diễn đàn để đối thoại và hợp tác về
các vấn đề lớn cùng quan tâm về chính trị-an ninh, kinh tế và văn hóa-xã hội; coi đây
là tiến trình mở với ASEAN đóng vai trò chủ đạo, bổ sung và hỗ trợ cho các diễn đàn
khu vực hiện có, họp hàng năm do ASEAN chủ trì nhân dịp Cấp cao ASEAN; và sẽ
tiếp tục xem xét để hoàn thiện một số vấn đề cụ thể liên quan.
3. Cấp cao ASEAN + 3 đã ký Tuyên bố chung khẳng định lại tầm quan trọng của
tiến trình ASEAN + 3, coi đây là công cụ chính cho việc xây dựng Cộng đồng Đông

Á (EAc).
4. Cấp cao ASEAN – Nga lần đầu tiên đã ký hoặc thông qua nhiều văn kiện quan
trọng tạo cơ sở và khuôn khổ xây dựng quan hệ đối tác toàn diện và lâu dài, nhất là
“Tuyên bố chung về Quan hệ đối tác toàn diện và tiến bộ”.
5.Nhân dịp này, các Ngoại trưởng ASEAN đã ký với các đối tác Tuyên bố về mở
rộng và làm sâu sắc Quan hệ đối tác chiến lược giữa ASEAN và Nhật, và Hiệp định
khung về Quan hệ Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Hàn Quốc.
Hội nghị Cấp cao lần thứ 12 và các Cấp cao liên quan tại Xê-bu, Phi-lip-pin, 12-
15/1/2007
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự các Hội nghị này.
- Hội nghị Cấp cao ASEAN-12 tập trung thảo luận việc đẩy nhanh hợp tác nội
khối và hướng xây dựng Hiến chương ASEAN. Các nước đều nhất trí cho rằng xây
dựng Hiến chương ASEAN có tầm quan trọng to lớn, thể hiện ý chí mạnh mẽ của các
nước đối với việc xây dựng một Hiệp hội vững mạnh; đồng thời đẩy mạnh hợp tác
nội khối thông qua xây dựng khung pháp lý cho các hoạt động hợp tác ASEAN. Lãnh
đạo các nước ASEAN đã giao cho Nhóm đặc trách soạn thảo Hiến chương hoàn tất
dự thảo Hiến chương để trình Cấp cao ASEAN-13 tại Xinh-ga-po nhân dịp kỷ niệm
40 năm thành lập ASEAN.
- Về hợp tác kinh tế, Hội nghị nhất trí sẽ hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN
vào năm 2015, đồng thời sẽ đẩy mạnh hơn nữa quá trình hình thành các Khu vực mậu
dịch tự do hoặc các Thỏa thuận hợp tác kinh tế toàn diện với các đối tác bên ngoài.
- Kết thúc Hội nghị, Lãnh đạo các nước ASEAN đã ký kết và thông qua các văn
kiện gồm: Công ước ASEAN về Chống khủng bố, Tuyên bố Xê-bu về Đề cương xây
dựng Hiến chương ASEAN, Tuyên bố ASEAN về Bảo vệ và Thúc đẩy Quyền của
người lao động nhập cư, Tuyên bố Xê-bu về Hướng tới một Cộng đồng đùm bọc và
chia sẻ, Tuyên bố Xê-bu về Đẩy nhanh thời hạn hình thành Cộng đồng ASEAN vào
2015, Tuyên bố của Phiên họp đặc biệt Cấp cao ASEAN-12 về HIV/AIDS và Tuyên
bố về WTO.
- Tại Cấp cao ASEAN+3, các nước đều nhấn mạnh tầm quan trọng của tiến trình
hợp tác ASEAN+3; nhất trí Tuyên bố chung lần 2 về Hợp tác Đông Á (dự kiến sẽ

được thông qua tại Cấp cao ASEAN+3, Xinh-ga-po tháng 11/2007) với nội dung đề
ra những định hướng toàn diện cho tiến trình ASEAN+3 và hợp tác Đông Á.
- Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) lần thứ 2 tập trung thảo luận về hợp tác an
ninh năng lượng và trao đổi ý kiến về phương hướng triển khai các hoạt động trong
khuôn khổ EAS.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 13 và các Cấp cao liên quan tại Xinh-ga-po,
19-22/11/2007
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự các Hội nghị này.
- Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-13, Lãnh đạo các nước ASEAN đã ký thông qua
Hiến chương ASEAN, tạo cơ sở pháp lý và thể chế cho Hiệp hội gia tăng liên kết khu
vực, trước hết là hoàn thành mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
Các Lãnh đạo cũng khẳng định quyết tâm đẩy nhanh Cộng đồng ASEAN, ký Đề
cương Cộng đồng Kinh tế và nhất trí sớm hoàn tất Đề cương Cộng đồng Chính trị-An
ninh và Văn hóa-Xã hội để thông qua tại Cấp cao ASEAN-14.
Nhân dịp này, Lãnh đạo các nước ASEAN đã ký Tuyên bố ASEAN về Môi
trường bền vững và Tuyên bố ASEAN về Hội nghị lần thứ 13 các bên tham gia Công
ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu.
- Tại Cấp cao ASEAN+3, Lãnh đạo các nước ASEAN+3 đã ký Tuyên bố chung
về Hợp tác Đông Á lần 2 và thông qua Kế hoạch Hành động của tiến trình ASEAN+3
giai đoạn 2007-2017.
- Tại Cấp cao Đông Á (EAS) lần thứ 3, Lãnh đạo các nước tham gia nhất trí đẩy
mạnh hợp tác trên 5 lĩnh vực ưu tiên (năng lượng, tài chính, giáo dục, thiên tai và
dịch bệnh); thúc đẩy liên kết kinh tế, hợp tác về môi trường và biến đổi khí hậu. Lãnh
đạo các nước đã ký Tuyên bố Singapore về Môi trường, Năng lượng và Biến đổi Khí
hậu.
B. Cơ cấu tổ chức và các nguyên tắc hoạt động của ASEAN
I. Cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu tổ chức của ASEAN hiện nay như sau:
1. Hội nghị Cấp cao ASEAN (ASEAN Summit):
Đây là cơ quan quyền lực cao nhất của ASEAN, họp chính thức 3 năm một lần và

họp không chính thức ít nhất 1 lần trong khoảng thời gian 3 năm đó. Cho đến nay đã
có 7 cuộc Hội nghi Cấp cao ASEAN. Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VIII sẽ được
tổ chức tại Cam-pu-chia vào tháng 11/2002.
2. Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (ASEAN Ministerial Meeting-AMM)
Theo Tuyên bố Băng cốc năm 1967, AMM là hội nghị hàng năm của các Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN có trách nhiệm đề ra và phối hợp các hoạt động của
ASEAN, có thể họp không chính thức khi cần thiết.
3. Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Ministers-AEM)
AEM họp chính thức hàng năm và có thể họp không chính thức khi cần thiết.
Trong AEM có Hội đồng AFTA (Khu vực mậu dịch tự do ASEAN) được thành lập
theo quyết định của Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 4 năm 1992 tại Xin-ga-po để
theo dõi, phối hợp và báo cáo việc thực hiện chương trình ưu đãi quan thuế có hiệu
lực chung (CEPT) của AFTA.
4. Hội nghị Bộ trưởng các ngành
Hội nghị Bộ trưởng của một ngành trong hợp tác kinh tế ASEAN sẽ được tổ chức
khi cần thiết để thảo luận sự hợp tác trong ngành cụ thể đó. Hiện có Hội nghị Bộ
trưởng năng lượng, Hội nghị Bộ trưởng Nông nghiệp, Lâm nghiệp. Các Hội nghị Bộ
trưởng ngành có trách nhiệm báo cáo lên AEM.
5. Các hội nghị bộ trưởng khác
Hội nghị Bộ trưởng của các lĩnh vực hợp tác ASEAN khác như y tế, môi trường,
lao động, phúc lợi xã hội, giáo dục, khoa học và công nghệ, thông tin, luật pháp có
thể được tiến hành khi cần thiết để điều hành các chương trình hợp tác trong các lĩnh
vực này.
6. Hội nghị liên Bộ trưởng (Join Ministerial Meeting-JMM)
JMM được tổ chức khi cần thiết để thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngành và trao
đổi ý kiến về hoạt động của ASEAN. JMM bao gồm các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ
trưởng Kinh tế ASEAN.
7. Tổng thư ký ASEAN
Được những Người đứng đầu Chính phủ ASEAN bổ nhiệm theo khuyến nghị
của Hội nghị AMM với nhiệm kỳ là 3 năm và có thể gia hạn thêm, nhưng không quá

một nhiệm kỳ nữa; có hàm Bộ trưởng với quyền hạn khởi xướng, khuyến nghị và
phối hợp các hoạt động của ASEAN, nhằm giúp nâng cao hiệu quả các hoạt động và
hợp tác của ASEAN. Tổng thư ký ASEAN được tham dự các cuộc họp các cấp của
ASEAN, chủ toạ các cuộc họp của ASC thay cho Chủ tịch ASC trừ phiên họp đầu
tiên và cuối cùng.
8. Uỷ ban thường trực ASEAN (ASEAN Standing Committee-ASC)
ASC bao gồm chủ tịch là Bộ trưởng Ngoại giao của nước đăng cai Hội nghị
AMM sắp tới, Tổng thư ký ASEAN và Tổng Giám đốc của các Ban thư ký ASEAN
quốc gia. ASC thực hiện công việc của AMM trong thời gian giữa 2 kỳ họp và báo
cáo trực tiếp cho AMM.
9. Cuộc họp các quan chức cao cấp (Senior Officials Meeting-SOM)
SOM được chính thức coi là một bộ phận của cơ cấu trong ASEAN tại Hội nghị
Cấp cao ASEAN lần thứ 3 tại Ma-ni-la 1987. SOM chịu trách nhiệm về hợp tác chính
trị ASEAN và họp khi cần thiết; báo cáo trực tiếp cho AMM.
10. Cuộc họp các quan chức kinh tế cao cấp (Senior Economic Officials
Meeting-SEOM)
SEOM cũng đã được thể chế hoá chính thức thành một bộ phận của cơ cấu
ASEAN tại Hội nghị Cấp cao Ma-ni-la 1987. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 4 năm
1992, 5 uỷ ban kinh tế ASEAN đã bị giải tán và SEOM được giao nhiệm vụ theo dõi
tất cả các hoạt động trong hợp tác kinh tế ASEAN . SEOM họp thường kỳ và báo cáo
trực tiếp cho AEM.
11. Cuộc họp các quan chức cao cấp khác
Ngoài ra có các cuộc họp các quan chức cao cấp về môi trường, ma tuý cũng như
của các uỷ ban chuyên ngành ASEAN như phát triển xã hội, khoa học và công nghệ,
các vấn đề công chức, văn hoá và thông tin. Các cuộc họp này báo cáo cho ASC và
Hội nghị các Bộ trưởng liên quan.
12. Cuộc họp tư vấn chung (Joint Consultative Meeting-JCM)
Cơ chế họp JCM bao gồm Tổng thư ký ASEAN, SOM, SEOM, các Tổng giám
đốc ASEAN. JCM được triệu tập khi cần thiết dưới sự chủ toạ của Tổng thư ký
ASEAN để thúc đẩy sự phối hợp giữa các quan chức liên ngành. Tổng thư ký

ASEAN sau đó thông báo kết quả trực tiếp cho AMM và AEM.
13. Các cuộc họp của ASEAN với các Bên đối thoại
ASEAN có 11 Bên đối thoại: Ô-xtrây-lia, Ca-na-đa, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Niu Di-lân, Mỹ và UNDP, Nga, Trung Quốc, ấn Độ. ASEAN cũng có quan hệ đối
thoại theo từng lĩnh vực Pa-kix-tan.
Trước khi có cuộc họp với các Bên đối thoại, các nước ASEAN tổ chức cuộc họp
trù bị để phối hợp có lập trường chung. Cuộc họp này do quan chức cao cấp của nước
điều phối (Coordinating Country) chủ trì và báo cáo cho ASC.
14. Ban thư ký ASEAN quốc gia
Mỗi nước thành viên ASEAN đều có Ban thư ký quốc gia đặt trong bộ máy của
Bộ Ngoại giao để tổ chức, thực hiện và theo dõi các hoạt động liên quan đến ASEAN
của nước mình. Ban thư ký quốc gia do một Tổng Vụ trưởng phụ trách
15. Uỷ ban ASEAN ở các nước thứ ba
Nhằm mục đích tăng cường trao đổi và thúc đẩy mối quan hệ giữa ASEAN với
bên đối thoại đó và các tổ chức quốc tế ASEAN thành lập các uỷ ban tại các nước đối
thoại. Uỷ ban này gồm những người đứng đầu các cơ quan ngoại giao của các nước
ASEAN tại nước sở tại. Hiện có 11 Uỷ ban ASEAN tại: Bon (CHLB Đức), Bru-xen
(Bỉ), Can-be-ra (Ô-xtrây-li-a), Ge-ne-vơ (Thuỵ Sĩ), Luân-đôn (Anh), Ôt-ta-oa (Ca-na-
da), Pa-ri (Pháp), Xơ-un (Hàn quốc), Oa-sinh-tơn (Mỹ) và Oen-ling-tơn (Niu-di-lơn).
Chủ tịch các uỷ ban này báo cáo cho ASC và nhận chỉ thị từ ASC.
16. Ban thư ký ASEAN
Ban thư ký ASEAN được thành lập theo Hiệp định ký tại Hội nghị Cấp cao lần
thứ hai Ba-li, 1976 để tăng cường phối hợp thực hiện các chính sách, chương trình và
các hoạt động giữa các bộ phận khác nhau trong ASEAN, phục vụ các hội nghị của
ASEAN.
II. Các nguyên tắc hoạt động chính của ASEAN
1. Các nguyên tắc làm nền tảng cho quan hệ giữa các Quốc gia thành viên và với
bên ngoài:
Trong quan hệ với nhau, các nước ASEAN luôn tuân theo 5 nguyên tắc chính đã
được nêu trong Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Ba-li), kí

tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ I tại Ba-li năm 1976, là:
a/ Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc
dân tộc của tất cả các dân tộc;
b/ Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình, không có
sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài;
c/ Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
d/ Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân thiện;
e/ Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực;
f/ Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả;
2. Các nguyên tắc điều phối hoạt động của Hiệp hội:
a/ Việc quyết định các chính sách hợp tác quan trọng cũng như trong các lĩnh
vực quan trọng của ASEAN dựa trên nguyên tắc nhất trí (consensus), tức là một
quyết định chỉ được coi là của ASEAN khi được tất cả các nước thành viên nhất trí
thông qua. Nguyên tắc này đòi hỏi phải có quá trình đàm phán lâu dài, nhưng bảo
đảm được việc tính đến lợi ích quốc gia của tất cả các nước thành viên. Đây là một
nguyên tắc bao trùm trong các cuộc họp và hoạt động của ASEAN .
b/ Một nguyên tắc quan trọng khác chi phối hoạt động của ASEAN là nguyên tắc
bình đẳng. Nguyên tắc này thể hiện trên 2 mặt. Thứ nhất, các nước ASEAN, không
kể lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo đều bình đẳng với nhau trong nghĩa vụ đóng góp
cũng như chia xẻ quyền lợi. Thứ hai, hoạt động của tổ chức ASEAN được duy trì trên
cơ sở luân phiên, tức là các chức chủ toạ các cuộc họp của ASEAN từ cấp chuyên
viên đến cấp cao, cũng như địa điểm cho các cuộc họp đó được phân đều cho các
nước thành viên trên cơ sở luân phiên theo vần A,B,C của tiếng Anh.
c/ Để tạo thuận lợi và đẩy nhanh các chương trình hợp tác kinh tế ASEAN ,
trong Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ký tại Hội nghị Cấp cao
ASEAN lần thứ 4 ở Xin-ga-po tháng 2/1992, các nước ASEAN đã thoả thuận nguyên
tắc 6-X, theo đó hai hay một số nước thành viên ASEAN có thể xúc tiến thực hiện
trước các dự án ASEAN nếu các nưóc còn lại chưa sẵn sàng tham gia, không cần
phải đợi tất cả mới cùng thực hiện.
3. Các nguyên tắc khác:

Trong quan hệ giữa các nước ASEAN đang dần dần hình thành một số các
nguyên tắc, tuy không thành văn, không chính thức song mọi người đều hiểu và tôn
trọng áp dụng như: nguyên tắc có đi có lại, không đối đầu, thân thiện, không tuyên
truyền tố cáo nhau quan báo chí, giữ gìn đoàn kết ASEAN và giữ bản sắc chung của
Hiệp hội.
PHẦN 2: NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP ASEAN,
THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1. Những hoạt động của Việt Nam
Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN ngày 28/7/1995 tại Bru-nây; và lần đầu
tiên tham dự Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 28 và các Hội nghị liên quan
(Bru-nây, 2-3/8/1995) với tư cách thành viên đầy đủ. Trước đó, tháng 7/1992, Việt
Nam đã chính thức tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (Hiệp ước Ba-li) và trở
thành quan sát viên của ASEAN. Từ năm 1993, Việt Nam đã tham gia các chương
trình và dự án hợp tác ASEAN trên 5 lĩnh vực: khoa học-công nghệ, môi trường, y tế,
văn hoá-thông tin, phát triển xã hội. Việt Nam cũng tham gia Diễn đàn Khu vực
ASEAN (ARF) và trở thành một trong những nước sáng lập Diễn đàn này.
Trong 13 năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng
trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của Hiệp hội, góp phần quan trọng vào việc triển khai
thực hiện đư¬ờng lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng
và Nhà nước; củng cố xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực có lợi cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Những đóng góp cụ thể của Việt Nam có thể kể đến là: tổ chức thành công Hội
nghị Cấp cao ASEAN-6 tại Hà Nội (12/1998), giúp ASEAN duy trì đoàn kết, hợp tác
và củng cố vị thế quốc tế trong lúc Hiệp hội đang ở thời điểm khó khăn nhất do tác
động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997, nhất là việc hoàn tất ý tưởng
một ASEAN-10; thông qua Chương trình Hành động Hà nội (HPA) để thực hiện Tầm
nhìn ASEAN 2020. Từ tháng 7/2000 – 7/2001, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò
Chủ tịch ủy ban Thường trực ASEAN; tổ chức thành công Hội nghị Ngoại trưởng
ASEAN lần thứ 34 (AMM-34) và các Hội nghị liên quan. Các Bộ/ngành của Việt
Nam cũng đăng cai nhiều Hội nghị cấp Bộ trưởng và cấp Quan chức cao cấp (SOM)

về kinh tế và hợp tác chuyên ngành. Việt Nam cũng đã đăng cai và tổ chức thành
công Hội nghị Liên minh Nghị viện ASEAN (AIPO) tháng 9/2002 ”
2. Cơ hội của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập.
+ Chính sách của Đảng và Nhà nước. Đảng cũng như Nhà nước đã có những chủ
trương và chính sách nhất quán cho việc chủ động tham gia vào tiến trình khu vực
hoá và toàn cầu hoá. Còn nhớ khi Việt Nam bắt đầu bước vào cải cách đổi mới việc
mở rộng quan hệ kinh tế với các quốc gia, tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực
và toàn cầu hóa phải đã có được tiếng nói chung. Nay với quan điểm "mở cửa hội
nhập phát triển" "hội nhập chứ không hoà tan", Việt Nam đã đẩy nhanh quá trình hội
nhập. Ở tầm vĩ mô về "xu thế không thể tránh khỏi đối với sự phát triển" của việc
tham gia toàn cầu hoá thực tế có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập
của Việt Nam.
Từ nhận thức này, mà trong những năm qua Việt Nam đã có bước chuyển đổi lớn
trong chính sách phát triển kinh tế nói chung, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại
nói riêng. Các chính sách này đều theo hướng tự do hoá, tất cả ở các tầng cấp khác
nhau phụ thuộc vào thực lực cụ thể của mỗi lĩnh vực.
+ Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN là sự kiện đánh dấu
bước phát triển của Việt Nam trong quan hệ quốc tế để hội nhập với nền kinh tế khu
vực và thế giới. Có Việt Nam trong ASEAN sẽ góp phần quan trọng tạo ra sự thống
nhất mới trong ASEAN, từ đó tạo ra nhiều lợi ích cho Việt Nam và các nước thành
viên. Trọng tâm của hợp tác kinh tế trong ASEAN những năm gần đây là hợp tác
phát triển thương mại, trong đó cốt lõi là việc hình thành AFTA, thực hiện chương
trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT, hình thành nên một thị trường thống
nhất cho mọi nước thành viên. Việc tham gia vào chương trình này là điều kiện thuận
lợi cho Việt Nam tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế và thương mại, thúc đẩy nhanh
chóng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khi các nước cắt giảm dần
thuế thì hàng hoá Việt Nam sẽ có cơ hội tốt hơn để xâm nhập vào thị trường khu vực
và thế giới.
+ Việt Nam có điều kiện để mở rộng thị trường ưu đãi của AFTA. Kinh nghiệm
các nước trong khối cho thấy rằng, gia nhập ASEAN, Việt Nam có đủ điều kiện để

mở rộng thị trường sang các nước trong và ngoài khu vực. Hiện nay, khoảng 30%
kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là từ các nước thuộc ASEAN. Các mặt hàng
được Nhà nước ưu tiên nhập khẩu như máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ
cho nhu cầu sản xuất công nghiệp khi tham gia vào AFTA, CEPT thì các mặt hàng
này sẽ giảm thuế nhập khẩu tới 5%. Như vậy, khi đó luồng hàng nhập khẩu sẽ được
mở rộng nhanh chóng. Hơn nữa, do cơ cấu danh mục hàng hoá tham gia CEPT bao
gồm cả nông sản thô và nông sản chế biến nên nếu Việt Nam tăng cường sản xuất
hàng nông sản thì sự cắt giảm về thuế sẽ trở thành yếu tố kích thích các doanh nghiệp
mở rộng sản xuất mặt hàng này để xuất khẩu sang ASEAN và các nước ngoài khu
vực. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tăng dung lượng cung hàng hoá của mình trên
thị trường và tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới .
+ Khi tham gia hợp tác kinh tế, thương mại với khu vực, Việt Nam có điều kiện
thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu.
+ Có điều kiện để thu hút được nhiều vốn đầu tư từ những nước thừa vốn và đang
có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh sang các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao, sử dụng ít
nhân công trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thái Lan
+ Có điều kiện để tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ thuật cao ở các ngành cần
nhiều lao động mà các nước đó đang cần chuyển giao. Sử dụng vốn và kỹ thuật cao
của các nước trong khu vực để khai thác khoáng sản và xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ Tận dụng ưu thế về lao động rẻ và có hàm lượng chất xám cao để đẩy mạnh
xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang các nước trong khu vực.
+ Một trong những quy định về sản phẩm được hưởng quy chế Hệ thống ưu đãi
thuế quan phổ cập (GPS) của Mỹ là "trị giá nguyên liệu cho phép nhập để sản xuất
hàng hoá đó phải dưới 65% toàn bộ giá trị của sản phẩm đó khi vào lãnh thổ hải quan
Mỹ" và "giá trị một sản phẩm được chế tạo ở hai hoặc trên hai nước là hội viên của
một hiệp hội kinh tế, liên minh thuế quan, khu mậu dịch tự do thì được coi là sản
phẩm của một nước". Vì vậy, việc Việt Nam tham gia AFTA sẽ tạo điều kiện cho
Việt Nam vẫn có thể nhập nguyên liệu của các nước ASEAN khác để sản xuất và sản
phẩm đó vẫn được GPS.
+ Nguồn tài nguyên sẵn có: Tham gia toàn cầu hoá chính là nhằm tranh thủ

những điều kiện quốc tế để khai thác các tiềm năng kinh tế nước nhà, Việt Nam là
quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu
quả. Với nguồn tài nguyên phong phú không chỉ tạo điều kiện cho việc phát triển các
ngành công nghiệp khai thác chế biến mà còn là sức hút đối với các công ty nước
ngoài.
Trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên chúng ta có thể xác lập cơ cấu ngành
kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu, thị trường thế
giới, về vị trí địa lý nước ta cửa ngõ đi ra Thái Bình Dương của một số quốc gia
Đông Nam Á, là điểm tiếp giáp với các tuyến đường giao thông quan trọng của thế
giới. Đáng chú ý với bờ biển rộng, trải dài từ Bắc tới Nam với nihều hải cảng, đặc
biệt cảng Cam Ranh có độ sâu thuận lợi cho phát triển giao thông hàng hải cũng như
phát triển kinh tế hàng hoá.
Ngoài ra một só khoáng sản như Bôxít có trữ lượng lớn 5 tỷ tấn đứng thứ ba thế
giới, quặng đất hiếm cũng có trữ lượng lớn đứng thứ hai thế giới.
+ Sau Trung Quốc, thì các loại khoáng sản ở Việt Nam tuy trữ lượng không lớn
nhưng rất đa dạng và phong phú. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện địa hoá,
thì việc khai thác sử dụng các nguồn lực đó thông qua hợp tác là rất cần thiết.
Với thực trạng nguồn tài nguyên kinh tế chúng ta, không nên hình thành cơ cấu
kinh tế hướng về xuất khẩu tài nguyên lớn. Cần thông qua hợp tác cũng như phát huy
năng lực bên trong đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chuyển sang xuất
khẩu các mặt hàng chế biến.
+ Nguồn nhân lực: Với thị trường gồm 80 triệu dân, trong đó tỷ lệ người trong độ
tuổi lao động cao (dân só trẻ) có trình độ văn hoá, cần cù lao động và đặc biệt giá lao
động rẻ. Đó là với thể so sánh có ý nghĩa trong quá trình tham gia hội nhập.
Trên thực tế nhiều công ty nước ngoài vào Việt Nam, một trong những lý do
quan trọng là tận dụng nguồn lao động dồi dào, rẻ và có khả năng tiếp thu công nghệ
mới. Việt Nam theo đánh giá của các công ty Nhật khi phân tích lợi thế môi trường
kinh doanh của các quốc gia ASEAN, Việt Nam đứng thứ 7 trong tổng số 10 quốc
gia. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cho phép lựa chọn hình khối
phù hợp tham gia vào hội nhập và chính qua hội nhập là điều kiện để hàng cao chất

lượng nguồn lao động của Việt Nam.
3. Những thách thức đặt ra trong quá trình hội nhập.
3.1. Trình độ phát triển so với kinh tế.
Một khoảng cách khá xa giữa Việt Nam và các nước trong khu vực. Hiện nay
75% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Cho đến năm 1999 nền kinh tế
nước ta về thực chất vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, trong đó khu vực thực chất vẫn
là nền kinh tế nông nghiệp, trong đó khu vực nông nghiệp chiếm 25,4% GDP, công
nghiệp chiếm 34,5% và dịch vụ chiếm 40,1%. Trong khi đó ở các nước phát triển, tỷ
trọng khu vực nông nghiệp giảm mạnh chỉ còn khoảng 20% và khu vực dịch vụ thì
đặc biệt phát triển, nhất là lĩnh vực thông tin. Nhìn chung trong nền kinh tế của Việt
Nam, về công nghệ hiện nay vô cùng lạc hậu, so với thế giới chậm từ 56 -100 năm.
Hệ thống thiết bị kỹ thuật ở hầu hết các doanh nghiệp lạc hậu so với mức trung bình
hiện nay của thế giới 2 - 3 thế hệ, thậm chí có lĩnh vực 4 - 5 thế hệ. mà các doanh
nghiệp của Việt Nam còn nhỏ, yếu cả về khả năng quản lý kinh doanh lẫn khả năng,
năng lực sản xuất. Các doanh nghiệp của chúng ta sau một thời gian dài hoạt động
theo cơ chế hoạch hoá chuyển sang phơng thức kinh doanh mơí còn lúng túng, nhất
là trong tham gia cạnh tranh quốc tế. Hiện nay trong 6000 doanh nghiệp nhà nước.
Chỉ có 5% làm ăn thực sự có hiệu quả. Năng lực cạnh tranh yếu kém của nền kinh tế
là nguy cơ lớn khi đẩy nhanh nhịp độ hội nhập. Để hội nhập có hiệu quả vấn đề làm
sao nâng cao được sức cạnh tranh thì các xí nghiệp mới có thể đứng vững trước sự
xâm nhập của hàng hoá bên ngoài và từ đó mới có thể vươn mạnh ra thị trường thế
giới. Vì vậy Nhà nước cũng như doanh nghiệp cần có chính sách để nâng cao hiệu
quả kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh, xem đó là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay nên
không sẽ không chạy kịp với sự thay đổi và phát triển của khu vự và thế giới.
3.2. Tình hình nền kinh tế thị trường hiện tại.
Nền kinh tế thị trường thế giới hiện nay đã phát triển trong khi đó chúng ta mới
chuyển sang kinh tế thị trường vì vậy các yêu tố của thị trường cũng chỉ mới hình
thành ở bước đầu, chưa phát triển. Hơn nữa nền kinh tế thị trường thế giới hiện nay

×