Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Luận văn tốt nghiệp quan hệ kinh tế – thương mại giữa mông cổ và việt nam thực trạng và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.99 KB, 145 trang )

MỞ ĐẦU

ận

Lu

1. Tinh cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình lịch sử lâu dài phát triển nền kinh tế - thương mại hai
nước Mông Cổ - Việt Nam, chúng tôi đặc biệt chú trọng giai đoạn từ 1990 đến
nay. Có thể nhấn mạnh rằng, đặc biệt trong 15 năm gần đây từ 1990-2005, quan
hệ Mông Cổ – Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế –
thương mại, khoa học – kỹ thuật, giáo dục, du lịch, nghệ thuật đều đã được khôi
phục, phát triển nhanh chóng và sâu rộng, đem lại nhiều kết qủa thiết thực cho
cả hai bên. Cho đến nay, hai nước đã ký hơn 20 hiệp định song phương và thoả
thuận cấp Nhà nước, tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác lâu dài giữa hai
nươc.
Có thể nói, lĩnh vực thương mại và đầu tư là hai lĩnh vực được quan tâm
nhiều nhất và cũng có sức sống nhất trong quan hệ kinh tế Mông Cổ – Việt
Nam.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực thương mại bức tranh khơng phải tịan mầu
hồng, kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều hiện ở mức rất thấp, chưa đầy 2
triệu USD trong những năm gần đây, chưa tương xứng với tiềm năng và thấp
hơn nhièu so với kim ngạch 16 triệu USD cách đây 10 năm. Làm thế nào để
phấn đấu đưa kim ngạch buôn bán hai chiều lên 10 triệu USD một năm vào năm
2010? Làm thế nào để bên cạnh thương mại, phát triển quan hệ đầu tư cũng
ngày càng trở nên quan trọng trong quan hệ kinh tế song phương? Trong tiến
trình phát triển quan hệ thương mại, đầu tư, các ngành hữu quan hai nước khẳng
định ý chí và quyết tâm thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển một cách có hiệu
quả, mang lại lợi ích thiết thực cho hai nước và nhân dân hai nước; tạo thuận lợi
cho nhau, mạnh dạn đầu tư liên doanh sản xuất phù hợp với điều kiện kinh tế hai
bên, bằng cán bộ kỹ thuật cao, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, mặt bằng của


Mông Cổ và nguồn nhân công dồi dào, cán bộ kỹ thuật cao, máy móc, thiết bị
của Việt Nam, để cung cấp cho thị trường hai nước và xúât khẩu sang các thị
trường của nước thứ ba; tìm kiếm các phương thức, các kênh thích hợp, từng
bước xúc tiến thương mại, nhằm nâng kim ngạch lên 10 triệu USD vào năm
2010. Ngồi ra, phải đa dạng hố, tự do hố các hình thức và chủ thể hợp tác
đầu tư cũng như khuyến khích và bảo hộ song phương hoạt động hợp tác đầu tư;
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển sự hợp tác Mông Cổ – Việt Nam
trong các lĩnh vực kinh tế khác như tài chính-ngân hàng, giao thơng vận tải.

n



ạc

th



nh

Ki

tế


ận

Lu


Việt Nam đang cố gắng đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) trong thời gian sớm nhất, đưa nền kinh tế hội nhập mạnh mẽ hơn nữa
vào kinh tế toàn cầu, vừa tạo điều kiện, vừa thúc đẩy Việt Nam mở cửa rộng hơn
cho đầu tư, thương mại hàng hố và dịch vụ với bên ngồi và cũng sẽ thâm nhập
sâu rộng hơn vào thị trường thế giới. Như vậy, một biểu hiện nữa của sự hợp tác
kinh tế giữa hai nước chính là việc Mơng Cổ hỗ trợ Việt Nam trong quá trình
hội nhập quốc tế thơng qua việc tích cực ủng hộ Việt Nam tham gia WTO và
các thể chế kinh tế tài chính quốc tế khác, trong khi Việt Nam ủng hộ Mông Cổ
gia nhập APEC, ASEM. Việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ mở ra thêm một kênh
mới cho quan hệ Mông Cổ – Việt Nam, sẽ là một tác động mạnh mẽ lên quan hệ
Mông Cổ và Việt Nam thời kỳ này. Qua việc Việt Nam gia nhập WTO, cần thiết
phải xem xét và bổ sung lại những cơ sở pháp lý trong quan hệ hợp tác giữa hai
nước Mông Cổ và Việt Nam.
Tuy có những thuận lợi cơ bản và có triển vọng to lớn, nhưng cũng cịn
khơng ít vấn đề nan giải đang đặt ra trong việc phát triển quan hệ hợp tác thương
mại và đầu tư Mông Cổ – Việt Nam. Quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư giữa
hai nước đáng tiếc là chưa tuơng xứng với quá khứ, tiềm năng và vị thế đối tác
chiến lược như hai bên mong muốn. Phải nhận thức hạn chế và yếu kém như thế
nào và đề ra những giải pháp tháo gỡ gì để thúc đẩy sự phát triển năng động,
mạnh mẽ quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư giữa Mông Cổ và Việt Nam
trong thế kỷ XXI?
Trước yêu cầu cấp bách của thực tiễn phát triển và quản lý hoạt động xuất
nhập khẩu, cũng như nhu cầu khôi phục quan hệ thương mại và đặc biệt đối với
thị trường có nhiều tiềm năng như thị trường Việt Nam, việc nghiên cứu thị
trường Việt Nam và quan hệ thương mại Mông Cổ – Việt Nam giúp cho việc
hoạch định chính sách thương mại Mơng Cổ – Việt Nam là một vấn đề có ý
nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả đã chọn vấn đề “Quan
hệ kinh tế – thương mại giữa Mông Cổ và Việt Nam: thực trạng và triển
vọng” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ – Chuyên ngành Kinh tế thế
giới và quan hệ thương mại quốc tế.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của mối quan hệ kinh tế - thương mại
giữa Mông Cổ và Việt Nam trong những năm gần đây.
- Đánh giá thực trạng mối quan hệ kinh tế - thương mại giữa Mơng Cổ và
Việt Nam và tìm ra những nguyên nhân của những hạn chế.

n



ạc

th



nh

Ki

tế

1


ận

Lu


- Dự đoán triển vọng mối quan hệ song phương và đề xuất các giải pháp
nhằm phát triển mối quan hệ kinh tế - thương mại trong những năm sắp tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
 Làm rõ những vấn đề bức xúc về quan hệ thương mại và đầu tư
Mông Cổ – Việt Nam.
 Giới thiệu tiến trình phát triển kinh tế – thương mại và đầu tư giữa
Mông Cổ và Việt Nam.
 Khai thác triệt để những tiềm năng sẵn có, đẩy mạnh việc trao đổi
hàng hố, tìm kiếm khả năng hợp tác liên doanh nhằm đưa quan hệ
kinh tế, thương mại lên ngang tầm với quan hệ chính trị tốt đẹp
giữa hai nước.
 Cung cấp những thông tin cập nhật nhất về thực trạng hoạt động
kinh tế – thương mại và đầu tư của hai nước.
 Đề xuất các giải pháp cụ thể để tăng cường tìm kiếm các cơ hội hợp
tác, khai thác hiệu quả những thế mạnh của hai bên về những mặt
hàng truyền thống, hợp tác liên doanh trên các lĩnh vực cùng có lợi
như chế biến nơng sản, trao đổi hàng hố, hợp tác xây dựng, dịch
vụ, khai khống…khi giữa Mơng Cổ và Việt Nam đang có những
tiến triển về kinh tế thương mại và đầu tư.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tiến trình cải thiện và xu hướng
phát triển nền quan hệ hợp tác kinh tế – thương mại giữa hai nước trong những
năm từ 1990-2005.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn chỉ ở nghiên cứu tình hình sự hợp
tác quan hệ kinh tế – thương mại giữa hai nước, những thành tựu đã đạt được
cũng như những tồn tại mà hai nước cần cùng nhau giải quyết, cùng nhau rút ra
những bài học nhằm góp phần xây dựng mối quan hệ kinh tế - thương mại giữa
hai nước phát triển ổn định và lâu dài trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi và tôn

trọng những nguyên tắc và thực tiễn thương mại quốc tế trong q trình đổi mới
kinh tế của Mơng Cổ - Việt Nam đã diễn ra trong 15 năm từ 1990 đến năm
2005.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài dựa trên phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa Mác- Lênin
về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; các quan điểm về hội nhập kinh tế
quốc tế, về phát triển kinh tế trong đó có phát triển chính sách ngoại thương giữa

n



ạc

th



nh

Ki

tế

2


ận

Lu


hai nước Mông Cổ và Việt Nam cũng được đặc biệt khi lưu ý khi nghiên cứu đề
tài này.
Ngoài ra, đề tài còn áp dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như:
phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,
phương pháp tư duy logíc và suy luận.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động hợp tác kinh tế thương mại, đầu tư
của nước Mông Cổ
Chương 2: Thực trạng quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa Mông
Cổ và Việt Nam
Chương 3: Triển vọng và giải pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế –
thương mại và đầu tư giữa Mông Cổ và Việt Nam.

n


ạc

th

nh

Ki
tế
3



CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC KINH TẾ THƯƠNG MẠI, ĐẦU
TƯ CỦA NƯỚC MÔNG CỔ

1.1 Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế của Mơng Cổ trong
giai đoạn từ năm 1986-1990

ận

Lu

Từ đầu những năm 1990 hầu hết các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
đã thực hiện những cải cách kinh tế dựa theo thị trường. Khác với các nền kinh
tế Đơng Âu cũng đã có đi bước quá độ giống nhau, nền kinh tế Mông Cổ phần
lớn là nông nghiệp chăn nuôi với khu vực quốc doanh còn nhỏ – một điều kiện
ban đầu hết sức thuận lợi để quá độ được mau lẹ. Thực tế này xuất phát từ tỷ
trọng thấp của công nghiệp trong nền kinh tế và từ vai trò chủ đạo của khu vực
nông nghiệp và dịch vụ. Thực ra, ở Mơng Cổ khơng có cơng nghiệp nặng. Cho
tới tận trước khi có các cuộc cải cách năm 1990, ngót một nửa công ăn việc làm
trong ngành chế tạo được tập trung trong hai phần sử dụng nhiều lao động là dệt
và chế biến thực phẩm. Theo só liệu thống kê chính thức, những năm 1980 nền
kinh tế Mơng Cổ phát triển rất nhanh, GDP bình quân năm tăng 6.2% (xem bảng
1.1). Những năm 1986 tốc độ tăng trưởng đạt 9.4% [17.Tr.9].
Từ 1990, Mơng Cổ thực hiện chính sách đối ngoại hồ bình, đa phương
và khơng kiên kết. Vào năm 1990, nhân dân Mơng Cổ từ bỏ hệ thống kế hoạch
hố tập trung và mệnh lệnh quan liêu đơn thuần theo kiểu Liên Xô và đã chọn đi
theo con đường dân chủ, đổi mới bằng cách thực hiện cải tổ chính trị bằng con
đường của mình và thực hiện các biện pháp mang tính chất đường lối theo
hướng thiết lập nền kinh tế thị trường. Quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kế
hoạch truyền thống sang nền kinh tế thị trường do khu vực tư nhân chiếm ưu thế

đã tạo ra những cơ hội mới cho quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế đất
nước Mông Cổ theo hướng thiết lập nền kinh tế thị trường là tất yếu. Năm 1991,
Chính phủ Mơng Cổ đã ban hành Luật tư nhân hoá để thực hiện tư nhân hoá các
tài sản nhà nước theo nhiều giai đoạn, trừ việc tư nhân hố nhà cửa. Tiếp đó,
Mơng Cổ ban hành Luật Cơng ty và Thành viên, theo đó các cơng ty nhà nước
và tư nhân đều có quyền tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Mông Cổ cam kết sẽ đệ trình bản thơng báo theo Điều XVII của GATT 1994
vào thời điểm gia nhập, khẳng định mọi luật lệ và qui định liên quan đến hoạt
động thương mại của các xí nghiệp quốc doanh sé hồn tồn phù hợp với các
qui định của WTO [26].
Chính phủ nước Mơng Cổ đã thực hiện chính sách tư nhân hố tài sản các
hợp tác xã, quốc doanh Nhà nước (2000 cơ sở sản xuất lớn chuyển sang vào tư
nhân hoá, 92% ngành chăn ni đã được tư nhân hố (theo thơng tin năm 1999)

n



ạc

th



nh

Ki

tế


4


[12.Tr.5]: kết quả là số gia súc đã tăng lên từ 25.5 triệu năm 1991 đến 30.3 triệu

ận

Lu

năm 2000) , từng bước thả nổi giá cả hàng hoá, tự do hố thương mại, thực hiện
chính sách mở cửa thị trường với thế giới bên ngoài [21.Tr.102-103].
Mặc dù cuộc cải cách của Mông Cổ trong thời kỳ 1986-1991 đã gây được
ấn tượng rất tốt, nhưng chính phủ Mơng Cổ thời ký đó đã khơng thành cơng
trong việc ổn định tuyệt đối nền kinh tế.
Trong giữa những năm 90, do quá trình tư nhân hóa các xí nghiệp quốc
doanh nằm dưới sự kiểm sốt của Chính phủ, tránh với ngun tắc thị trường,
kết quả là bị suy yếu của toàn bộ nền kinh tế, đa số xí nghiệp quốc doanh đóng
cửa, năng suất nền kinh tế bị giảm xuống nhiều. Do chính phủ Mơng Cổ đã thực
hiện tư nhân hố các xí nghiệp quốc doanh bằng một cách chia thành những xí
nghiệp doanh nghịêp có quy mơ q nhỏ thậm chí do trình độ cơng suất kỹ thuật
cơng nghệ bị suy giảm, các sản phẩm Mông Cổ không thể cạnh tranh được trên
thị trường thế giới về chất lượng. Trong thời gian này, nhiều ngân hàng thương
mại bị phá sản, thất nghiệp tăng nhanh đạt khoảng 200 nghìn người.
Bắt đầu từ giữa thập kỷ 90 nhịp độ phát triển kinh tế dần dần tăng lên là
do nước Mông Cổ trong việc theo đuổi quá trình hội nhập với nền kinh tế thế
giới thông qua việc tham gia từng bước vào hiệp định thương mại song phương
khu vực và đa phương một cách tích cực có hiệu quả. Để thực hiện chính sách
hội nhập kinh tế quốc tế thì việc tìm kiếm và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư
nước ngoài và tăng cường hoạt động xuất khẩu hàng hoá để thu ngoại tệ là rất
quan trọng.

Tóm lại, giống như với các nước thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, những
khó khăn trong những năm cải cách thị trường ở thập niên 90, tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng cả về mặt chính trị và về mặt kinh tế xã hội đã đưa sự phát
triển kinh tế Mông Cổ về khoảng cách tụt hậu khoảng 10 năm. Tăng trưởng kinh
tế giai đoạn 1990-1993 luôn là con số âm, sản xuất suy giảm cùng với lạm phát
cao đã làm sức mua của dân cư giảm, làm tiền lương thực tế và thu nhập bình
quân đầu người giảm đáng kể, môi trường kinh doanh không ổn định, và nền
kinh tế vẫn cịn phải đối phó với hàng loạt vấn đề nghiêm trọng trong thời gian
trước mặt đó: sản xuất cơng nghiệp và nơng nghiệp giảm nghiêm trọng, nợ nước
ngoài cao, dự trữ ngoại tệ và vàng không đủ để nhập khẩu những mặt hàng thiết
yếu… Tình trạng khan hiếm ngoại tệ đã giảm sút nguồn lực cung cấp xăng dầu
mà tác động tiêu cực đến lĩnh vực công nghiệp nhiệt điện và vận tải. Năm 1990
Mơng Cổ là một trường hợp điển hình về một nước đang phát triển không ổn
định kinh tế vĩ mô.

n



ạc

th



nh

Ki

tế


5


Bảng 1.1: Một số chỉ tiêu vĩ mô kinh tế Mông Cổ qua các năm 1980-2003
1990

1997

8,7

13,52

83,26

81,75

1018,9 1115,6 1240,8

1461,2

-

-

1049,0

968,5

946,6


1016,4 1117,5

1274,5

-

5,1

362,5

351,1

426.2

460.1

504.6

586.89

6,2

-2,5

4,0

3,5

1,06


1,05

4,0

5,57

-

-

20,5

6,0

8,1

8,0

1,6

5,0

403

444,8

568,5

462,3


535,8

523,2

523,9

615,8

Lu

1023,6

538,3

582,4

675,9

693,2

752,8

801,1

-145

-578,8

30,2


-120,1

-140,2

-169,9

-228,9

-185,2

902,0

1097,0 1102,0 1125,0

1168,0

2390,5 2425,0 2459,0

2490,9

548

ận

n


5,31


1,60

2,12

813,2

ạc

3,00

th
2311,3

2344,5

2001



GDP thực tế,
tỷ tugrug, T
GDP,
triệu
USD
GDP bình quân
đầu người, nghìn
T
Tỷ lệ tăng
trưỏng GDP,%
Lạm phát, %

Xuất
khẩu,
triệu USD
Nhập
khẩu,
triệu USD
Cán cân thương
mại, triệu USD
Tỷ giá hối đối
(cuối năm) 1 đơ
la Mỹ=Tugrug
Dân số (nghìn
người)

1980

Năm
1998
2000

2002

2003

nh

Ki

Nguồn: Tổng Cục Thống kê Mơng Cổ


tế
6


1.2 Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế của Mông Cổ trong
giai đoạn từ năm 1990 đến nay
1.2.1 Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1990-1996
Sau cuộc suy giảm kinh tế năm 1990, tốc độ tăng trưởng kinh tế bị suy
yếu mạnh xuống đến -9,2% năm 1991, đến -9,5% năm 1992, chỉ đến giữa những
năm 1990 tăng trưởng tăng một cách khiêm tốn vào năm 1994 đạt 2,3%, (GDP
bình quân năm tăng 0,3%), tăng vọt trong năm 1995 (6,3%) là mức tăng trưởng
cao nhất trong vòng 5 năm qua (xem bảng 1.1; hình 1.1). Tuy nhien, đối với
nước đã sang cơ chế thị trường và đang phát triển thì chỉ số như vậy là thấp .
Hình 1.1: Tăng trưởng thực tế qua các năm, % (1990-2001)

ận

Lu
n


ạc

th

nh

Ki
tế
Nguồn: [45.Tr.4]


7


Hỡnh1.2: Tng trng thc t qua cỏc nm, 1984-2005 (%)

Tăng tr­ ëng thùc tÕ1984-2005, %
10.7

9.4

10
5.9

5.7

5

5.1
3.5

6.3

5.6

4.2
2.3

2.4


6.2

4

4 3.5
3.2
1.1

1

0
-2.5

-3

-9.2

-9.5

1990

1993

-5

1987

ận

Lu


-10
1984

1999

2002

2005

Nguồn: Tổng Cục Thống kê (2005)



1.2.1.1 Tỷ lệ lạm phát

1996

n

Đứng trước một cuộc khủng hoảng kinh tế vĩ mơ ngày càng tăng, đầu năm

th

1990 Chính phủ Mông Cổ đã quyết định tiến hành một chương trình ổn định hóa

ạc

triệt để. Những biện pháp ổn định hóa chính thống bao gồm việc Chính phủ phải




in thêm tiền để hỗ trợ sản xuất, làm giá cả hàng hoá tăng vọt. Tuy nhiên, đến

Ki

nh

năm 1995, nỗ lực ổn định hố đã tỏ ra khơng thành. Mức tăng giá gần đạt tới
mức siêu lạm phát . Tỷ lệ lạm phát tiếp tục gia tăng trong suốt những năm 90,

tế

chỉ đến những năm cuối thập niên 90 siêu lạm phát được kiểm chế và đẩy lùi
(năm 1992 lạm phát là 325,5%, thì năm 1995 là 53,1%, 1998 là 6,0%, năm 2005
là 9,5%) (xem bảng 1.2). Lạm phát cao đã ảnh hưởng đến hoạt động ngoại
thương, phá vỡ các mặt của đời sống kinh tế, làm giảm thu nhập thực tế của dân
cư, làm môi trường kinh doanh không ổn định, mang tính rủi ro cao và gây áp
lực làm giảm kim ngạch ngoại thương.

8


Bảng 1.2: Tỷ lệ lạm phát, % (1990-2005)

Tỷ lệ lạm phát, %

1990

*


1991

52,7

1992

325,5

1993

183,0

1994

66,3

1995

53,1

1996

44,6

1997

20,5

1998


6,0
8,1
8,0

n

2001

10,0



2000

ận

1999

Lu

Năm

1,6

2003

4,7

2004


11,0

2005

9,5

ạc

th

2002


nh

Ki

Nguồn: Tổng Cục Thống kê Mông Cổ

tế
9


Hình 1.3: Tỷ lệ lạm phát hàng tháng, % (1990-2001)

ận

Lu
Nguồn: [45.Tr.6]




n

Hình 1.4: Tỷ lệ lạm phát, % (1999-2005)
10

10

ạc

th

12
8

9.5

1.6

4.7

tế

2

nh

4


Ki

8

6

11



8.1

0

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

Nguồn: Tổng Cục Thống kê Mơng Cổ

1.2.1.2 Tỷ giá hối đối
Mơng Cổ đã làm nên những đổi thay đáng kể trong một môi trường cực
kỳ khó khăn. Với việc Liên Xơ cơng bố giảm dần viện trợ bắt đầu từ năm 1989,
chính phủ Mông Cổ đã phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng thậm chí cịn
lớn hơn. Việc giảm dần viện trợ của Liên Xơ có nghĩa là nền kinh tế này sẽ phải
xuất khẩu nhiều hơn để lấy tiền nhập khẩu những loại đầu vào thiết yếu. Phương
án duy nhất là phải tìm ra những nguồn tài trợ mới từ bên ngoài.
10


ận

Lu

Để xử lý cuộc khủng hoảng ngày càng gia tăng về cán cân thanh tốn này,
chính phủ đã thống nhất và phá giá tỷ giá hối đoái với khu vực có đồng tiền
chuyển đổi tự do hồi đầu năm 1990, và cũng tự do hoá ngoại thương. Việc đồng
Tugrug phá giá gây ra tình trạng mất ổn định trong nền kinh tế, thị trường tài
chính, ngân hàng chao đảo, vốn đầu tư chạy khỏi Mông Cổ, nhiều công ty phá
sản, nhập khẩu giảm, môi trường kinh doanh biến động và nhiều rủi ro. Tuy
nhiên việc đồng Tugrug xuống giá cũng có mặt tích cực. Việc phá giá này thực
sự là một hành động dũng cảm khi nhà chức trách thay đổi tỷ giá hối đối chính
thức để kịp theo mức tỷ giá song hành trên thị trường. Nó rút ngắn được khoảng
cách giữa tỷ giá ngân hàng và tỷ giá thực tế, làm cho tỷ giá T/USD gần với tỷ lệ
lạm phát, khuyến khích xuất khẩu. Đây là một bước trong q trình tiến tới mục
tiêu chuyển đổi hồn tồn đồng Tugrug.
Trong giai đoạn từ năm 1973 đến năm 1990 những giao dịch trong khu
vực đồng tiền chuyển đổi tự do với những giao dịch trong khu vực tiền không
chuyển đổi được tiến hành ở mức giá cố định, gỉa tạo và tính bằng đồng tiền
khơng có khả năng chuyển đổi (tức là “đồng rúp chuyển nhượng’’). Năm 1990

Chính phủ Mông Cổ sử dụng một chế độ tỷ giá được cơng nhận là có tính áp đặt
5,6 đồng tugrug chuyển nhượng ăn 1 USD Mỹ. Sau này, tỷ giá đồng tugrug
giảm xuống mấy lần. Vào tháng 6 năm 1991, Chính phủ tổng hợp hai hệ thống
tài khoản sử dụng một chế độ tỷ giá được cơng nhận là có tính áp đặt 40 đồng
tugrug chuyên nhượng ăn một đô la Mỹ. Sau khi tỷ giá đồng tiền Tugrug được
nới lỏng từ tháng 5 năm 1995, đồng tiền Tugrug rồi lại liên tục bị mất giá
nghiêm trọng trong những năm sau này và đến tháng 7 năm 2003 Chính phủ ấn
định tỷ giá ngoại tệ ở mức 1120 tugrug ăn 1 USD Mỹ [12.Tr.7] (xem bảng 1.1)

n



ạc

th



nh

Ki

tế
11


Hình 1.5: Lưu thơng tỷ giá danh nghĩa và thực tế đồng tiền Tugrug
(chỉ số: 1995 =100)


ận

Lu

tỷ giá danh nghĩa
tỷ giá thực tế
Nguồn: Ngân hàng Trung Ương Mông Cổ
Sau năm 1996 khi tỷ giá giảm mạnh đến giữa năm 1998 tỷ giá danh nghĩa
tương đối ổn định. Bắt đầu từ năm 1995 tỷ giá hối đoái thực tế đồng tiền Tugrug
liên tục tăng giá khoảng 6,8%/năm. Tình hình như vậy đã bị ảnh hưởng đến vị
trí xuất khẩu nước Mơng Cổ trên thị trường thế giới. Với mục đích giữ vững tỷ
giá danh nghĩa tương đối ổn định đã thực hành chính sách tăng cường hoạt động
về ngoại hối giữa các ngân hàng. Kết quả chính sách này là cuối năm 2001 tỷ
giá đồng tiền Tugrug so với USD Mỹ giảm 0,45% so với cuối năm 2000
[11.Tr.7] (xem hình 1.5).
Hình 1.6: Tỷ giá hối đối (2000-2005)

n



ạc

th



nh

Ki


1250
1150
1050

1097

950

2.3

850
750
650

1102

3.8
1168

1125

1209

tế

1350

1221


4
3.5
3
2.5

3.5

2

2.1

1.5

0.5
1

550

1
0.5
0

2000

2001

2002

2003


2004

2005

Tû gi¸ USD, Tugrug
Sù thay đổitỷ giá hối đoái mỗi năm, %

1.2.2 Tc tng trưởng kinh tế từ năm 1996 đến nay
Tình hình khủng hoảng kinh tế kéo dài nhiều năm chỉ được cải thiện vào
năm 1996, sau khi Chính phủ Mơng Cổ tiếp tục thực hiện một loạt chính sách tự
12


ận

Lu

do hoá nền kinh tế, như tự do hoá giá cả, thúc đẩy q trình tư nhân hố các xí
nghiệp quốc doanh. Kết quả là tăng trưởng kinh tế đã đạt được số liệu gần với
những năm chuyển tiếp kinh tế thập kỷ 80. Trong giai đoạn 1996-2002, GDP
bình quân tăng 2,5% [11.Tr.4]. Sau tư nhân hóa tỷ lệ tăng trưởng giá trị sản xuất
của khu vực nông nghiệp chăn nuôi tăng vọt.
Nhưng tỷ trọng GDP không tăng nhiều như đã dự đốn, do giá cả đồng và
lơng dê mịn những hàng xuất khẩu chủ lực Mông Cổ trên thị trường thế giới
biến động bất lợi và hạ xuống nhiều, và yếu tố này đã có ảnh hưởng mạnh đến
kinh tế Mông Cổ, nền kinh tế nhỏ, phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế.
Trong giai đoạn 1997-2001, do những nguyên nhân như tình trạng kinh tế thế
giới và khu vực khơng ổn định, chương trình tư nhân hóa chậm lại, hậu quả
thiên tai, dịch bệnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế Mông Cổ liên tục giảm sút, đặc
biệt năm 2001 giảm đến 1% (xem hình 1.2)[11.Tr.5].

Trong giai đồn 2002-2004 (theo kết quả điều tra của Tổng Cục Thống kê
Mông Cổ) tình hình kinh tế phục hồi trở lại, năm 2002 GDP tăng 4,0%, năm
2003 tăng 5,6%. Theo số liệu của Bộ Tài chính, năm 2004, tốc độ tăng trưởng
tổng sản phẩm trong nước GDP đạt 1910,9 tỷ tugrug, hay là 10,7%, so với năm
2003 tăng gấp hai lần (đạt mức cao nhất trong vịng 10 năm qua) [14.Tr.17] (xem
hình 1.7).
Như vậy, kể từ khi thực hiện Công cuộc Đổi Mới hay cịn gọi là chính
sách cải tổ năm 1986, đến năm 2005, Mông Cổ đã đạt được tăng trưởng kinh tế
tương đương nhanh. Nền kinh tế tư nhân chiếm trên 70%/GDP. Về quy mô, tăng
trưởng (năm 2003) của đất nước Mông Cổ mới đạt 5,6%, đứng thứ 87/134 nước
trên thế giới, GDP bình qn tính theo đầu người đạt khoảng 390 USD, đứng
thứ 103/136 nước trên thế giới.
Trong thời kỳ 1995-2002 GDP bình quân đầu người (bình quân năm) đã
là 419,1 đô la Mỹ, cuối năm 2002 đạt 454,5 đô la Mỹ – nước Mông Cổ hiện
trong những nước có mức thu nhập thấp. Nếu so sánh GDP bình quân đầu người
năm 1998 của nước Mông Cổ với một số nước khác thì chỉ số nước Mơng Cổ ít
hơn Trung Quốc bằng 2 lần, Hàn Quốc khoảng 20 lần, Nhật Bản 84 lần

n



ạc

th



nh


Ki

tế

[30.Tr.25].

GDP bình qn đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái thực tế đã
gia tăng qua các năm. GDP bình quân đầu người năm 2004 đã đạt 640,1
USD/người, tăng 25,0% so với mức năm 2003. Theo giá năm 2000, mức thực tế
của GDP bình quân đầu người cuối năm 2004 đạt 496,9 nghìn tugrug, tăng 9,4%
so với năm 2003.
Hình 1.7: GDP bình quân đầu người bình quân năm qua các năm 1990-2005

(nghìn Tugrug)
13


888,4
586,9

758,7

460,1
362,5

392,6

504,6

287,2

351,1

147,4
5,1 8,9 21,9

426,2

246,2
89,3

19
90
19
91
19
92
19
93
19
94
19
95
19
96
19
97
19
98
19
99

20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05

900
800
700
600
500
400
300
200
100
0

Nguồn: [30.Tr.25]

ận

Lu


1.2.3 Cơ cấu kinh tế Mông Cổ
1.2.3.1 Xét theo tỷ trọng trong GDP nền kinh tế Mông Cổ (xem bảng 1.6):
 Nông nghiệp chăn nuôi:
Đến năm 1996, khu vực nông nghiệp chăn nuôi đã chiếm đa số tỷ trọng
của nền kinh tế Mông Cổ. Sự biến động tỷ lệ tăng giảm của ngành này hoàn toàn
phụ thuộc vào những biến đổi của thiên nhiên và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
tăng trưởng kinh tế Mông Cổ. Lĩnh vực nông nghiệp của Mông Cổ bao gồm hai
ngành: ngành chăn nuôi gia súc và trồng trọt. Hiện nay, tổng giá trị sản lượng
nông nghiệp từ ngành chăn nuôi gia súc 70-75% và ngành trồng trọt 25-30%
[27]. Đến năm 1990 đã có tổng số 354 đơn vị nơng nghiệp (255 hợp tác xã, 73
nơng trường, 26 xí nghiệp nhỏ giữa các hợp tác xã). Sau năm 1990 khi Chính
phủ Mơng Cổ thực hiện một số biện pháp như tư nhân hóa sở hữu các xí nghiệp
quốc doanh, hợp tác xã, hiện có 1250 đơn vị nơng nghiệp (hợp tác xã, công ty tư
nhân), giá trị sản xuất sản phẩm nông nghiệp Mơng Cổ đã được tập trung tại
khoảng 200 nghìn đơn vị nông nghiệp tư nhân. Trong những 5 năm gần đây,
tổng số gia súc Mông Cổ đạt 31,3 triệu, trong đó cừu 14,2 triệu, dê 10,2 triệu, bị
3,6 triệu, ngựa 2,9 triêu, lạc đà 0,4 triệu [27.Tr.151]. Từ 5 loại gia súc này theo
giá trị sản phẩm nông nghiệp con cừu, bò là 2 loại gia súc chủ yếu chăn nuôi
theo hướng sản xuất thịt và lông. Như vây, thịt và sản phẩm thịt chiếm 70% tổng
giá trị sản phẩm nông nghiệp. Con dê, lạc đà chủ yếu tập trung vào khâu sản
xuất lông, lông dê mịn. Hiện nay, Mông Cổ chủ yếu xuất khẩu những mặt hàng
nông nghiệp như thịt, lông, lông dê mịn, da, sản phẩm lông và da, thảm, sản
phẩm lông cừu. Mặc dù so với năng suất sản phẩm sản xuất tại châu Âu, năng
suất sản phẩm gia súc tại Mông Cổ không cao nhưng đặc điểm chủ yếu của sản
phẩm nông nghiệp Mông Cổ là chất lượng cao, rất sạch về trình độ sinh thái, giá
thành rẻ. Ví dụ: tại Mơng Cổ từ một con bị sữa cho chưa đến 1000 lít, nhưng về

n




ạc

th



nh

Ki

tế

14


chất béo sữa thì bằng với chất béo của con bị sữa cho 3000-4000 lít tại châu Âu
[27.Tr.151-152].

ận

Lu

Theo số liệu của Tổng cục thống kế, trong giai đoạn 1997-2003 tỷ trọng
ngành nông nghiệp chăn nuôi trong nền kinh tế Mông Cổ giảm sút do hậu quả
thiên tai đã xảy ra trong những năm liên tục 2000-2002 và chiếm 37,5-20,1%
[14.Tr.15]. Mặc dù tỷ lệ ngành nơng nghiệp trồng cây đã có xu hướng tăng
nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong toàn khu vực nơng nghiệp chăn ni. Hiện
nay, với mục đích nâng lên tỷ lệ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp chăn ni,
Chính phủ Mơng Cổ đang thực hiện cải cách trong ngành này theo hướng thay

đổi phương pháp làm nghề chăn nuôi gia súc truyền thống phù hợp với sự phát
triển kỹ thuật - công nghệ hiện đại.
 Công nghiệp:
Từ giữa năm 70, ngành công nghiệp mới phát triển và mức giá trị sản xuất
ngành công nghiệp vượt hơn giá trị sản xuất ngành nơng nghiệp. Đầu tư nước
ngồi là một nhân tố chính trong q trình này. Đến năm 1990, công nghiệp
chiếm 35,6% tổng mức GDP, nông nghiệp chăn nuôi chiếm 19,5% [25]. Trong
giai đọan 1990-2000 tỷ trọng của các ngành công nghiệp đã tụt xuống đáng kể,
đặc biệt ngành công nghiệp nhẹ, một trong những ngành chủ yếu và có ý nghĩa
chiến lược của ngành cơng nghiệp nhà nước, đã đóng cửa và hồn tồn dừng lại
hoạt động. Theo tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu toàn ngành công nghiệp
trong những năm gần đây (trừ năm 1998), giá trị sản phẩm của cơng nghiệp chế
biến giảm xuống bình quân 3,9%, trong giai đoạn 1995-2000 giảm từ 12-7,5%.
Nếu xét theo những ngành then chốt của ngành công nghiệp, giá trị sản
phẩm cơng nghiệp khai thác mỏ có vị trí đầu tiên và tình hình phát triển của
ngành này tương đối ổn định, nhưng vì dự trữ khống sản đã được phát hiện
không nhiều do vậy không thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra,
giá trị sản phẩm công nghiệp khai thác vàng tăng lên nhiều, đã có một số nhà
máy lọc đồng. Dù Luật đánh thuế giá trị gia tăng trên tiêu thụ vàng năm 1999 đã
gây ra tình hình khi nhiều nhà đầu tư giảm vốn đầu tư vào ngành này và thậm
chí rút vốn, nhưng đến thời nay, sau khi giảm tỷ lệ thuế suất khu vực khai thác
mỏ được phát triển có tiến bộ. Theo số liệu thống kê Mông Cổ, năm 1999, giá trị
sản xuất tồn khu vực cơng nghiệp đã suy giảm 22,3%, thấp hơn 37,2% so với
mức năm 1989. Nếu so sánh tổng giá trị sản xuất ngành công nghiệp năm 1999
với năm 1989, thì tổng giá trị sản xuất ngành cơng nghiệp gỉam 37,2%, trong đó
cơng nghiệp dệt may 52,8%, công nghiệp chế biến da 99,2%, công nghiệp sản
xuất quần áo 81,3%, công nghiệp gỗ và sản phẩm gỗ 79,7%, công nghiệp luyện
kim 9,5%.

n




ạc

th



nh

Ki

tế

15


ận

Lu

Năm 2001 đã được do Chính phủ thơng báo “Năm tăng cường củng cố và
phát triển công nghiệp truyền thống”, và đã thực hành chính sách tăng cường
củng cố sản xuất công nghiệp. Kết quả là bắt đầu từ năm 2001 giá trị sản xuất
ngành công nghiệp tăng lên mỗi năm. Trong những 10 năm trước năm 2000, giá
trị sản xuất công nghiệp đã là -31,2%, so với năm 1999 vào năm 2000 giá trị sản
xuất công nghiệp đạt 2,4%, năm 2001 tăng 10%, 2002 tăng lên 14,2%, năm
2003 ước tính tăng khoảng 16,2%.
Theo số liệu của Tổng cục thống kế, trong giai đoạn 1997-2003, do

những yếu tố chủ yếu như tổng dịch vụ bán lẻ, ngành dịch vụ sửa chữa hàng tiêu
dùng gia dụng tăng lên 21,0-24,6%; vận tải kho chứa, bưu điện 7,7-13,9%; dịch
vụ giao dịch tài chính 1,6-3,8%, dịch vụ giáo dục 2,7-4,5% đều dẫn đến tỷ trọng
khu vực dịch vụ tăng 37,8-54,6%.
Năm 2002, tỷ trọng ngành nông nghiệp chăn nuôi trong nền kinh tế Mông
Cổ đã giảm -72,1%, ngành công nghiệp khai thác mỏ -24,9%; tỷ trọng ngành
công nghiệp chế biến tăng 53,3% GDP do tỷ lệ ngành dịch vụ bán buôn bán lẻ,
dịch vụ sửa chữa hàng tiêu dùng gia dụng tăng 76,8%, ngành vận tải kho chứa,
bưu điện tăng 42,3%.
Trong những 15 năm gần đây, cơ cấu tăng trưởng GDP thay đổi đáng kể
do những yếu tố chủ yếu sau:
 Số lượng gia súc giảm tụt xuống đáng kể;
 Trong giai đoạn này đã được mở nhiều mỏ quặng khoáng sản, đặc
biệt những mỏ quặng vàng to lớn;
 Do sự biến động giá cả của hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực Mông
Cổ vàng và đồng trên thị trường thế giói tương đương ổn định và
liên tục tăng lên;
 Trong ngành công nghiệp ché biến giá trị sản xuất sản phẩm dệt
may đã tăng lên, nhưng do điều kiện cạnh tranh gay gắt về thị
trường, năm 2005 mức sản phẩm ngành này lại giảm xuống .
1.2.3.2 Xét theo tình hình tốc độ tăng trưởng GDP thực tế của các ngành
nền kinh tế Mông Cổ (tính theo giá cố định năm 1995):
Năm 1996-1997 nhịp độ tăng giá trị sản xuất các sản phẩm nông nghiệp
chăn ni bình qn hàng năm 4,4%-4,3%; năng lực sản xuất các sản phẩm
công nghiệp đã suy giảm (-3,2%)- (-3,3%), trong đó ngành cơng nghiệp khai
thác mỏ 6,1%-5,6%, ngành cơng nghiệp chế biến giảm sút còn (-13,8%)-(15,0%); khu vực dịch vụ tăng 4,9%-8,5%, trong đó năm 1996, ngành vận tải
kho chứa, bưu điện tăng 11,2%, dịch vụ giao dịch tài chính 42,2%, dịch vụ giáo
dục 4,0%, năm 1997, ngành dịch vụ sửa chữa hàng tiêu dùng gia dụng tăng

n




ạc

th



nh

Ki

tế

16


ận

Lu

17,1%, ngành vận tải kho chứa, bưu điện 5,8%, dịch vụ giáo dục 4,1%
[14.Tr.16].
Tình hình ngành cơng nghiệp bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những yếu tố
chủ yếu như sau:
 Trong thời gian qua, trong việc hoạch định chính sách phát triển cơ chế
lĩnh vực và chuyển dịch cơ cấu đã có nhiều khiếm khuyết.
 Đã thực hiện một cách hấp tấp tư nhân hóa ruộng đất, những xí nghiệp
quốc gia cả về thời gian và về thời điểm.

 Những xí nghiệp quốc gia có quy mơ lớn, khơng thể hoạt động linh hoạt
trên thị trường tự do.
 Những thị trường truyền thống nước ngồi của hàng cơng nghiệp Mơng
Cổ đã bị bác bỏ.
 Hệ thống kế hoạch hoá tập trung nguyên liệu thô bị tan rã;
 Mức thuế nhập khẩu của hai nước LB Nga và Trung Quốc, là hai nước
đối tác buôn bán chủ yếu của Mông Cổ, có mức 40-150% đã là trở ngại
cho việc xuất khẩu những mặt hàng truyền thống Mơng Cổ.
Với mục đích phục hồi và phát triển lại khu vực công nghiệp của nhà
nước, Chính phủ Mơng Cổ đã đề ra những mục tiêu chính sách cải cách như sau:
 Hình thành cơ cấu dựa vào doanh nhiệp tư nhân và hướng về xuất
khẩu;
 Ngăn chặn sự chậm trễ của khu vực công nghiệp chế biến đã bị
giảm liên tục trong những năm 90;
 Khôi phục lại và phát triển các khu vực công nghiệp truyền thống,
tăng cường củng cố sức cạnh tranh quốc tế của hàng công nghiệp;
 Tăng năng suất và trình độ chế biến các xí nghiệp cơng nghiệp chế
biến ngun liệu thơ nơng nghiệp, tích cực thúc đẩy chuyển đổi cơ
cấu theo hướng hiệu quả.
Năm 1998-2001, nhịp độ tăng giá trị sản xuất các sản phẩm nông nghiệp
chăn nuôi bị giảm sút từ 6,4%- (-19,0%); năng lực sản xuất các sản phẩm công
nghiệp trong giai đoạn này đã phục hồi 3,8%-16,2%, trong đó ngành cơng
nghiệp khai thác mỏ 4,9%-10,1%, ngành công nghiệp chế biến tăng 3,2%31,8%. Năm 1998 khu vực dịch vụ chiếm -0,1%, năm 2000 tăng 18,0%, năm
2001 8,2%; trong đó dịch vụ bán bn bán lẻ, dịch vụ sửa chữa hàng tiêu dùng
gia dụng tăng -3,1% đến 10,1%, năm 1998, ngành vận tải kho chứa, bưu điện
tăng 7,4%, năm 2000 tăng 25.2%, năm 2001 tăng 15,9% [14.Tr.16-17].
Trong giai đoạn này, mặc dù nhịp độ tăng giá trị sản xuất các sản phẩm
những ngành công nghiệp và dịch vụ vẫn tiếp tục tăng, nhưng nhịp độ tăng giá

n




ạc

th



nh

Ki

tế

17


ận

Lu

trị sản xuất các sản phảm ngành nông nghiệp chăn nuôi hạ xuống do những biến
đổi thiên nhiên liên tục năm 2000-2002 dẫn đến tổng mức tăng trưởng nền kinh
tế Mơng Cổ có xu hướng giảm xuống, năm 1998 tốc độ tăng trưởng là 3,5%,
năm 2001 giảm đến 1,0%. Nếu xét theo tỷ trọng trong GDP nền kinh tế ngành
nông nghiệp chăn nuôi năm 1998 chiếm 70,3% GDP, năm 1999 chiếm 52,3%,
năm 2000 đã chiếm -552,0%, năm 2001 chiếm âm -630,8% [14.Tr.17].
Năm 2002-2004, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trong thời
kỳ này phục hồi trở lại, năm 2002 tăng 4,0% GDP, năm 2003 tăng 5,6%, 2004

đạt 10,6% là khá.
Năm 2002, nhịp độ tăng giá trị sản xuất các sản phẩm nơng nghiệp chăn
ni vẫn trong tình hình bị suy yếu, mới bắt đầu năm 2003 có xu hướng tăng lên
5,6%, năm 2004 tăng 18,9%.
Năm 2002, nhịp độ tăng giá trị sản xuất các sản phẩm khu vực công
nghiệp tăng 5,4%, năm 2003 tăng chậm hơn đạt 3,0%, nhưng năm 2004 tăng lên
đạt 15,4%. Trong đó, năm 2002-2003 ngành cơng nghiệp khai thác mỏ bị suy
thối, năm 2004 tăng 31,9%, đầu tháng 8 năm 2005 đạt 6,6% [14.Tr.17-18]. Nếu
năm 1990 trong khu vực công nghiệp khai thác mỏ đã hoạt động 13 nhà máy, thì
năm 2000 đã có 113, năm 2001 có 127, năm 2003 đã hoạt động 136 nhà máy.
Năm 2001 giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghiệp khai thác chiếm 44,1% tổng
kim ngạch xuất khẩu, và đến năm 2003 chiếm 56,7%.
Năm 2002 ngành công nghiệp chế biến tăng 22,1%; năm 2003 chiếm
2,1%, năm 2004 còn xuống 1,5%, đầu tháng 8 năm 2005 còn phát triển chậm lại
bị âm
-27,3%. Nguyên nhân là bị giảm sút sản xuất các sản phẩm ngành công nghiệp
dêt may bị âm -36,7%. Năm 2002, nhịp độ tăng giá trị sản xuất các sản phẩm
ngành dịch vụ 12,2%, năm 2003 tăng 7,1%, năm 2004 tăng 4,0%, sự suy thoái
này trực tiếp liên quan đến mức tăng trưởng dịch vụ bán buôn bán lẻ, dịch vụ
sửa chữa hàng tiêu dùng gia dụng giảm từ 13,3% xuống còn 2,8%, ngành vận tải
kho chứa, bưu điện giảm 16,2%-9,0% [14.Tr.18].
Năm 2003, ngành nông nghiệp chăn nuôi, ngành công nghiệp chế biến,
dịch vụ bán buôn bán lẻ, dịch vụ sửa chữa hàng tiêu dùng gia dụng, ngành vận
tải kho chứa, bưu điện góp phần tích cực cho tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
hàng năm tăng 5,6%.
Năm 2004 ngành nông nghiệp chăn nuôi, khu vực công nghiệp, đặc biệt
ngành cơng nghiệp khai thác mỏ, trong đó hoạt động những công ty khai thác
quặng vàng; ngành vận tải kho chứa, bưu điện góp phần tích cực cho tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân hàng năm tăng10,6%. Những mặt nổi bật chủ yếu của


n



ạc

th



nh

Ki

tế

18


kinh tế–xã hội năm 2004, theo đánh giá của Bộ Tài chính do tình hình phát triển
nhiều ngành kinh tế có tiến bộ. Bắt đầu từ năm 2004, giá trị sản xuất ngành nông
nghiệp phục hồi trở lại với mức tốc độ tăng trưởng 21,3%; giá trị sản xuất công
nghiệp tiêp tục tăng đạt 28,2%, do giá trị sản xuất công nghiệp khai thác mỏ tài
nguyên thiên nhiên tăng lên (đầu năm 2005 giá trị sản xuất ngành khai thác mỏ
tăng 66,4%, công nghiệp chế biến 20,7%, công nghiệp nhiệt điện, cung cấp
nước 12,9%); tỷ trọng ngành dịch vụ giảm xuống tới 50,6% do tỷ trọng của các
ngành dịch vụ giảm xuống, trong đó thương mại bán lẻ, sửa chữa hàng tiêu dung
gia dụng, vận tải, bưu điện. Nếu vào năm 2000 tỷ trọng ngành nông nghiệp
29,1%, công nghiệp 21,9%, dịch vụ là 49,0%, thì năm 2005 tỷ trọng ngành nông
nghiệp 20,1%, công nghiệp 30,2%, dịch vụ đạt 49,7% GDP .

Hình 1.8: Giá trị sản xuất khu vực cơng nghiệp (so với năm 1990)

2000

2001

2002

16.2

2003

n
-31.2

ạc

th


-40



1990

-20
-30

14.2


2.4

0
-10

10

ận

10

Lu

20

Ki

nh

Nguồn: Tổng cục Thống kê Mông Cổ
Công nghiệp khai thác mỏ

tế

Trong 10 năm gần đây, sự phát triển ngành khai thác tương đối khá ổn
đinh. Trong hơn 10 năm qua kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngồi tại
Mơng Cổ năm 1991, hoạt động đầu tư nước ngoài cho vào ngành này đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện những
mục tiêu kinh tế – xã hội, nâng cao vị thế của Mông Cổ trên trường quốc tế.

Năm 1997 tháng 6 Quốc hội Mông Cổ đã sửa và bổ sung lại “Luật về Khoáng
sản”. Căn cứ vào quy định trong “Luật về Khống sản”, Giấy phép việc tìm
kiếm và sử dụng khống sản chỉ được tính theo thời hạn: Giấy phép việc tìm
kiếm được kéo dài 2 lần, tất cả là 7 năm; thời hạn việc sử dụng quặng khoáng
sản kéo dài đến 100 năm.
Năm 1991, việc ban hành “Luật Dàu khí”, và năm 2003 tháng 11 Chính
phủ Mơng Cổ đã thơng qua Luật Dầu khí sửa đổi, bổ sung lại dành nhiều ưu đãi
19


cho nhà đầu tư, như loại bỏ thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng. Như vậy, đã mở
ra thời kỳ hoạt động tìm kiếm, thăm dó, khai thác dầu khí nhộn nhịp nhất từ
trước tới nay trên tồn lãnh thổ Mông Cổ. Theo việc nghiên cứu của Công ty
Van Meurs & Associates Ltd những vặn bản pháp lý về cơng tác tìm kiếm thăm
dị, khai thác khống sản các nước trên thế giới, Mông Cổ đã là một trong 10
nước trên thế giới có mơi trường thu hút đầu tư thuận lợi nhất [31].
Hiện nay, lịng đất Mơng Cổ có khoảng 80 loại khống sản: đồng, vàng,
dầu thơ, phốt pho (trữ lượng phốt pho: tại tỉnh Khuvsgol có hơn 30 mỏ với trữ
lượng 4.5 triệu tấn; Zavkhan có hơn 20 mỏ với trữ lượng 1.2 triệu tấn, với tổng
số trữ lượng phốt pho Mơng Cổ đứng vị trí đầu tiên tại châu Á). Theo một số
chuyên gia, Mông Cổ có khả năng mỗi năm khai thác 1-2 triệu tấn phân bón
phốt pho, và nếu khai thác và xuất khẩu đến 1 triệu tấn phân bón phốt pho, thì có
thể thu được 90-120 triệu USD, bằng 1/10 GDP Mông Cổ [57].

Lu

Bảng 1.3: Chỉ số giá trị một số sản phẩm công nghiệp khai thác tại Mông Cổ so với công

ận


nghiệp khai thác trên thế giới (năm 2002)

Tổng số lượng

Tỷ trọng

Vị trí đứng

khai thác trên

khai thác tại

chiếm trên

trên thế

thế giới

giới

n



Sản phẩm

Tổng số lượng

th


thế giới

4530,3 nghìn tấn

2. Đồng

13,4 triệu tấn

3. Mơ líp đen

ạc

1. Fluorspar

Mơng Cổ

189,7 nghìn tấn

Thứ 5

131,7 nghìn tấn

Khoảng 1%

Thứ 15-16

128,0 nghìn tấn

1590,3 tấn


1,24%

Thứ 10

4. Vàng

2530,0 tấn

10,7 tấn

0,42%

-

5. Chì kẽm

46,6 nghìn tấn

51,0 tấn

0,11%

Thứ 10



4,08%

nh


Ki

tế

Nguồn: Tổng Cục điều hành sử dụng khoáng sản Mơng Cổ [41]
Đến năm 2003 đã được thăm dị và khai thác hơn 3000 mỏ khoáng sản.
Năm 1998, tỷ trọng của ngành công nghiệp khai thác mỏ chiếm 4,9%, năm 1999
chiếm 3,2%, năm 2000 chiếm 9,0%. Từ năm 2000, tại Mơng Cổ đã có khoảng
250 nhà máy, doanh nghiệp hoạt động theo 421 hợp đồng trong lĩnh vưc thăm
dò, khai thác và dịch vụ những quặng mỏ của 16 loại khoáng sản như: vàng (85
nhà máy), đồng, thép, fluorspar (4 nhà máy), mô lip đen, u ran, sắt. Năm 2003,
tổng giá trị công nghiệp khai thác chiếm 55% tổng trị giá sản xuất sản phẩm
công nghiệp, chiếm trên 50% tổng kim ngạch thương mại, 8,5% GDP. Năm
20


2003 tổng kim ngạch ngọai thương đạt 600,2 triệu USD, trong đó trị giá khai
thác những khống sản tài ngun như đồng, mô lip đen và fluorspar đạt 192
triệu USD, chiếm 32% tổng trị giá xuất khẩu Mông Cổ. Do thiếu vốn đầu tư vào
ngành này đã thực hiện việc tìm kiếm thăm dị chỉ 16,4% trong lịng đất Mơng
Cổ còn 80% vẫn chờ các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Bảng 1.4: Tổng trị giá sản xuất khai thác một số khoáng sản tài nguyên chủ lực, 1997-2002

1997 1998
1999
2000
2001
2002*
124,4 125,4
126,7

125,2
133,5
131,7
2202, 1993,0
1953,0 1336,0 1423,0 1590,3
0
Vàng (kg)
8000, 10040, 10146,0 11500, 12059, 10883,
0
0
0
0
7
Fluorspar nghìn tấn 593,0
612,0
579,1
678,4
615,3
504,6
Than đá, nghìn tấn
4922,
12059, 10883,
5057,0
4952,0 5000,0
0
0
7
Nguồn: Tổng Cục điều hành sử dụng khống sản Mơng Cổ [41]
Khống sản
Đồng, nghìn tấn

Mơlipđen (t)

ận

Lu

n



Bảng 1.5: Trữ lượng khống sản tài nguyên thiên nhiên:

th

Số lượng

ạc

8,0
240,0
3,0
400,0
46,7
200,0
452,8
50,0
37,5
70,0
2,4
10,0

10,0
10,0
Nguồn: Tông Cục thống kê Mông Cổ
Nhiều năm qua, giá vàng trong nước luôn biến động so với giá vàng thế
giới. Trong suốt năm 2002, giá vàng trên các thị trường thế giới cũng liên tục
tăng với tốc độ cao. Tháng 12/2002, giá vàng tại Luân Đon, New York đã đạt tới



nh

Ki

tế

Đồng
Mơ lip đen
Quặng chì, kẽm
Kim loại hiếm
Vàng
Grafit
Sắt
Uran
Quặng fluorit
Thép
Fluorspar
Than đá
Thiếc
Bạc


Đơn vị
triệu tấn
nghìn tấn
triệu tấn
nghìn tấn
nghìn tấn
nghìn tấn
triệu tấn
nghìn tấn
triệu tấn
nghìn tấn
tỷ tấn
tỷ tấn
nghìn tấn
nghìn tấn

21


ận

Lu

332,0-332,5 USD/ounce, năm 2003-2005 363,55 - 409,21 USD/ounce, năm
2005 tăng khoảng 437,5 USD/ounce. Năm 2003, tổng công suất các doanh
nghiệp cơng tác trên lĩnh vực tìm kiếm thăm dị khai thác vàng đạt 10,8 tấn, năm
2004 đạt 18,8 tấn, so với năm trước tăng 74,1%. Theo số liệu thống kê Mơng
Cổ, năm 2005 đã dự đốn khai thác 19,5 tấn vàng, 8 tháng đầu năm 2005, đã
được khai thác 13,0 tấn vàng, hay là 68,7%, trong đó 43,8% hay là 5,7 tấn do
cơng ty “Boroo Gold” (có vốn đầu tư của Canada) khai thác.

Danh sách các công ty, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi (34) đang
hoạt động trong ngành công nghiệp khai thác mỏ:
Boroo gold, Ivanhoe Mines Mongolia, QGX Mongolia, Asia Gold
Mongolia, Centerra Gold Mongolia, Erdene Mongol, Gurvan Gol, Solomon
Resources, Tethys Mining, Japan Geofile, Altan Dornod Mongolia, East Asia
Minerals, Erdes Holding, Falcon Bridge, Gem & Gold Mongolia, International
Uranium Mongolia, Major Drilling, Tsairt mineral, AIDD, Ajnai hurd, BHP
Billiton, CVRD Corporation, Datsan Treid, Golden East Mongolia, Rich
Mongol, Rio Tinto, Taishir tosol, Xandu Mindes, Orica Mongoli, Shoroon Ord,
Tsakhir Exploration, UGL Enterprises, Zapady Mines, Land Drill, Mongollimet.
1.2.3 Định hướng phát triển nền kinh tế Mông Cổ
Tuy nhiên từ vài năm trở lại đây, đăc biệt kể từ năm 2000 đến nay, nền
kinh tế Mông Cổ đã phục hồi và đang trên đà phát triển, nền kinh tế tăng trưởng
nhanh, lạm phát cao bị đẩy lùi, nợ nước ngồi giảm, tình hình chính trị xã hội
đang ổn định dần, Mông Cổ là một thị trường với nhiều cơ hội mới cho các đối
tác nước ngoài trên nhiều lĩnh vực.
Trong lĩnh vực thương mại, Mơng Cổ vẫn là thị truờng hấp dẫn chính bởi
sự thiếu thốn gay gắt và nhu cầu nhập khẩu nhiều loại hàng hố, là thị trường
giàu tiềm lực cơng nghiệp khai thác và cơng nghiệp chế biến. Ví dụ, việc sản
xuất đồng, môlipđen tinh khiết và xây dựng các nhà máy dây đồng sẽ đóng góp
tích cực vào việc nâng cao tăng trưởng nền kinh tế, thúc đẩy nhanh và bền vững
xuất khẩu.
Theo kế hoạch 2006-2008 do Chính phủ Mơng Cổ đã đề ra, tốc độ tăng
trưởng kinh tế Mông Cổ sẽ đạt 6-7%. Theo mục tiêu dự kiến năm 2006, thì dự
kiến tỷ trọng tăng trưởng sẽ dựa chủ yếu vào ngành cơng nghiệp và dịch vụ, từ
đó 4-5% là tỷ trọng tăng trưởng ngành dịch vụ, 1-1,5% ngành cơng nghiệp, cịn
lại sẽ được thành do tỷ trọng tăng trưởng nơng nghiệp góp nên [8.Tr.5].

n




ạc

th



nh

Ki

tế

Hình 1.9: Định hướng phát triển nền kinh tế Mông Cổ

22


Tỷ trọng tăng trư ởng thực tếnền kinh tếMông Cổ
14
12
10
8
6
4
2
0

10,7

6,2
5,6

2002

2003

2004

2005

Mức cao

12,3

11,8

6,3

6,7

6,7
5,6

5,4

4,3

4


10

2006

Trung b×
nh

4,2

2007

2008

Møc thÊp

ận

Lu

Nguồn vốn: [8]

Hình 1.10: Định hướng phát triển cỏc ngnh kinh t

v

Nông nghiệp

1,1

th


2008
1,4

c

0,5

2007
2

4,5

4

t

2

nh

Ki

0,6

2005
0

4,8


4,1

2006
1

Dịch vụ

s

0,2

Công nghiệp
5,3

n

0,3

6

Ngun vn: [8]

23

8


1.3 Tình hình thu hút và sử dụng Đầu tư trực tiếp nước ngồi
(FDI) tại Mơng Cổ


ận

Lu

1.3.1 Vai trị của đầu tư nước ngoài trong việc phát triển kinh tế đất nước Mơng
Cổ
Mỗi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển và ln tìm kiếm các
khả năng để phát triển kinh tế của quốc gia mình. Đối với mọi quốc gia, đầu tư
luôn là tiền đề quan trọng cho tăng trưởng, phát triển. Muốn huy động được
nhiều và có hiệu quả các nguồn nội lực cũng như ngoại lực cho đầu tư phát riển,
cần phải tạo dựng được mơi trường đầu tư hấp dẫn, có sức cạnh tranh, nhất là trong
bối cảnh tồn cầu hố về kinh tế.
Trong hoàn cảnh quốc tế hiện nay, khi mà các nước phát triển đã chiếm tỷ
lệ cao trong việc phân chia thị trường khu vực và thế giới, đang tìm cách sát
nhập, liên kết theo từng lĩnh vực, từng sản phẩm…thì việc các nước đang phát
triển tìm kiếm thị trường thế giới càng trở nên khó khăn hơn. Do vậy, phải tìm
ra được các phương thức đầu tư thương mại và phương thức hơp tác có lợi nhất
với các nước trên thế giới để tiếp thu công nghệ tiên tiến, lợi dụng sự tín nhiệm
của thị trường đối với sản phẩm của họ, rồi từng bước tích lũy vốn, kinh nghiệm
tiếp cận thị trường, phương thức quản lý hiện đại; thiết lập quan hệ với các đối
tác; thơng thường cần có thời gian hàng chục năm với một chương trình và kế
hoạch phù hợp thì mới có thể nâng cao và phát triển quan hệ trên mọi lĩnh vực
và vươn ra thị trường khu vực và quốc tế với tư cách là một đối tác có đủ năng
lực cạnh tranh và giữ chân ở lại tại thị trường của một nước nào đó. Chính phủ
các nước đã đưa ra nhiều giải pháp để thu hút đầu tư nước ngồi như chính sách
tài trợ cho nhu cầu theo hướng khuyến khích đầu tư làm tăng việc sử dụng
nguyên liệu trong nước, du nhập kỹ thuật mới, đưa ra chính sách ưu đãi đối với
các nhà đầu tư như được tự do chuyển vốn…
Hiện nay, sự phát triển của xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa đã thúc
đẩy mạnh mẽ q trình phân cơng lao động quốc tế và tự do hố thương mại và

đầu tư quốc tế trên thế giới. Bằng chứng là, hiện nay phần lớn các nước đều gia
nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO): ví dụ, nước Mơng Cổ là thành viên
chính thức từ năm 1997, cịn nước Việt Nam đã bắt đàu quá trình đàm phán với
các nước đối tác liên quan để phấn đấu vào năm 2006 trở thành thành viên chính
thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Theo thống kê, trong những năm
thập kỷ 90 hơn 95% chiến lược đầu tư của các nước đều được điều chỉnh với
mục đích để hưởng tự do thương mại và đầu tư quốc tế.
1.3.2 Tình hình dịng vốn đầu tư trực tiếp FDI lưu chuyển toàn thế giới
trong những năm gần đây

n



ạc

th



nh

Ki

tế

24



×