Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

quan hệ việt nga (1954 1965)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.65 KB, 26 trang )

CHƯƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ CHI
PHỐI QUAN HỆ SONG PHƯƠNG 1954 –
1965.
1.1. Bối cảnh thế giới.
Đây là giai đoạn bối cảnh thế giới có nhiều biến động. Giai đoạn này cuộc
chạy đua vũ trang và đặc biệt là cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân đang trong giai
đoạn nóng nhất. Cuộc chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Mỹ vẫn chưa có hồi kết, và
hệ quả của chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô là những cuộc chiến tranh nóng
diễn ra trên thế giới như cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953), chiến tranh
Việt Nam (1954 – 1975),…
Đặc biệt là trong giai đoạn những năm 60 khi mà chiến tranh lạnh đang đến
hồi gay cấn khiến nó có thể trở thành một cuộc chiến tranh nóng, một cuộc chiến
tranh hạt nhân, trong thời gian này sự kiện “Vịnh Con Lợn” và đặc biệt là “cuộc
khủng hoảng tên lửa” ở Cuba đã làm cho mâu thuẫn giữa Liên Xô và mỹ lên tới
đỉnh điểm có thể dẫn tới một cuộc chiến tranh hạt nhân. Trong cuộc khủng hoảng
tên lửa ở Cuba, Liên Xô đã xây dựng trên đất Cuba các căn cứ tên lửa đạn đạo
mang đầu đạn hạt nhân có thể bắn tới bất kì địa điểm nào trên đất nước Mỹ, điều
đó khiến cho Mỹ có động thái đáp trả khi cho xây dựng hàng loạt các căn cứ phóng
tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân tại các nước: Anh, Thổ Nhỹ Kì và Ý để răn
đe và có thể đáp trả Liên Xô nếu Liên Xô có những hành động thái quá đối với
Mỹ. Tại cuộc khủng hoảng này đã có lúc tưởng chừng như chiến tranh hạt nhân có
thể nổ ra bất cứ lúc nào do các động thái của những bên liên quan đã làm cho mâu
thuẫn càng lên cao và tưởng chừng như nó không thể giải quyết bằng biện pháp
thương lượng hòa bình được nữa và thế giới phải đối mặt với một cuộc chiến tranh
hạt nhân mà trong cuộc chiến này Liên Xô và Mỹ là hai thế lực đứng đầu. Tuy
nhiên, cả phía Mỹ và Liên Xô đều nhận thấy rằng không nên duy trì tình trạng như
thế và cần phải có một giải pháp để giải quyết tình hình tại Cuba. Sau nhiều cuộc
hội đàm bí mật giữa Kennedy và Khrushev cuộc khủng hoảng tên lửa đã được giải
quyết khi mà cả hai phía Mỹ và Liên Xô đều đồng ý gỡ bỏ các cơ sở phóng tên lửa
đạn đạo của mình ở những nơi đã xây dựng. Động thái này từ cả hai phía đã tạo ra
một bước ngoặt, kết quả của cuộc thương lượng này là Mỹ và Liên Xô đã xây dựng


một đường dây nối giữa Moscow và Washington để hai phía có thể hội đàm giải
quyết các mâu thuẫn một cách trực tiếp. Sau khi cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba
kết thúc cả hai phía đều có dấu hiệu xuống thang và có xu hướng hòa hoãn.
Trong giai đoạn này mâu thuẫn vấn đề mâu thuẫn trong phe xã hội chủ nghĩa
cũng là vấn đề khá phức tạp. mối quan hệ Xô – Trung mâu thuẫn đã dẫn đến đối
đầu nhau. Ngay từ khi mới ra đời, liên minh Xô - Trung đã có những chia rẽ, tác
động đến hệ tư tưởng, chính sách và chiến lược của cả hai nước trong chiến tranh
lạnh. Lợi ích và an ninh quốc gia bị định hình bởi quan niệm của lãnh đạo hai nước
về cách thức tồn tại của quốc gia mình trong hoàn cảnh ấy. Sự chia rẽ bắt đầu vào
cuối thập niên 50 thế kỷ 20, lên đến đỉnh điểm vào năm 1969 và diễn tiến theo
nhiều hướng khác nhau cho đến cuối những năm 80.
Trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, cả Liên Xô và Trung Quốc đều giúp đỡ
Bắc Việt Nam chống lại kẻ thù chung là Mỹ nhưng lại có mâu thuẫn sâu sắc với
nhau. Thông qua cuộc chiến tranh ở Việt Nam, cả Liên Xô và Trung Quốc đều
muốn tranh thủ Bắc Việt Nam nhằm khẳng định đường lối và vị trí của mình. Điều
này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách đối ngoại của Bắc Việt Nam trong
giai đoạn này.
Một trong những lí do chính để Trung Quốc và Liên Xô giúp đỡ Bắc Việt
Nam là muốn chứng tỏ mình là nước Xã hội chủ nghĩa đích thực, mong muốn
chứng tỏ vị trí tiên phong và lãnh đạo của mình trong phong trào giải phóng dân
tộc của các nước thế giới thứ ba, lôi kéo Việt Nam về phe mình.
Mặc dù nhận thức được mâu thuẫn này từ rất sớm nhưng vì muốn tranh thủ
được sự ủng hộ của cả Liên Xô và Trung Quốc Việt Nam đã tránh không công khai
đề cập đến vấn đề này. Đến năm 1963, mâu thuẫn này tác động sâu sắc đến khối
đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong giai đoạn này, Liên Xô luôn cố gắng duy trì quan hệ ngoại giao với
các nước như: 2 – 6 – 1955 bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Nam Tư tại
Bêôgrat (Nam Tư); ngày 19 – 10 – 1956 bình thường hóa quan hệ với Nhật, hai
bên đã thỏa thuận chấm dứt chiến tranh, thiết lập quan hệ ngoại giao giải quyết vấn
đề xung đột bằng biện pháp hòa bình.

Bước vào thập niên 50, liên xô tiếp tục triển khai những “ kế hoạch 5 năm”
xây dựng kinh tế xã hội ở đất nước xô viết. từ kế hoạch 5 năm lần thứ 6 (1956-
1960) Liên Xô đã bước vào vị trí cường quốc công nghiệp. trước đó trên lĩnh vực
được ưu tiên là quân sự, Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử, bom kinh
khí(1953) ngoài ra giai đoạn này Liên Xô giành được nhiều thành tựu to lớn như :
Liên Xô phóng thành công vệ tinh nhân tạo “xputnic_1” vào ngày 4 – 10 –
1957,mở ra kỷ nguyên con người chinh phục vũ trụ, 2/1/1959 Liên Xô phóng thành
công tên lửa vũ trụ mang tên “lunik 1” để nghiên cứu mặt trăng và không gian vũ
trụ, 11 – 8 – 1962 phóng liên tiếp hai tàu vũ trụ…, có thể thấy giai đoạn này liên xô
đạt được nhiều thành tựu rực rỡ trong lĩnh vực khoa học – kĩ thuật.
Về hệ thống xã hội chủ nghĩa giai đoạn này mà Liên Xô là một hình mẫu
lớn, đã xuất hiện thêm nhiều nước chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã
hội, điển hình như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba là những ngọ cờ đầu trong phong
trào giải phóng dân tộc. 11 – 1957 tại Maxcova, hội nghị quốc tế 64 đảng cộng sản
và công nhân đã tổng kết kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các
nước. Hội nghị cũng ra tuyên bố hòa bình, củng cố phong trào cộng sản quốc tế
theo chủ trương của đảng cộng sản liên xô đề xướng: cùng tồn tại hòa bình giữa
các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau. Với sáng kiến sớm này của phong
trào cộng sản quốc tế đã trở thành chỗ dựa cho nhân loại tiến bộ và cách mạng khi
bước vào thế kỷ XX.
2.2. Bối cảnh trong nước.
Tháng 7/1954 Sau Hiệp định Giơnevơ đất nước ta bị chia làm hai miền, vĩ
tuyến 17 làm giới quân sự tạm thời nhưng kẻ thù coi biên giới chính trị này là để
thực hiện âm ưu của chúng. Ttrong giai đoạn này Mĩ hất cẳng pháp và bắt đầu
nhảy vào cuộc chiến ở Việt Nam. lực lượng cách mạng Việt Nam vừa có những
thuận lợi mới, vừa đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp .
Thuận lợi: Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân
sự, khoa học - kỹ thuật, nhất là của Liên Xô, phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục
phát triển ở Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ La Tinh, phong trào hoà bình dân
chủ lên cao ở các nước tư bản, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, làm căn cứ

địa chung cho cả nước; thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau chín năm
kháng chiến, có ý chí độc lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí Nam.
Khó khăn: Đế quốc Mĩ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu làm
bá chủ thế giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng, thế giới bước vào thời
kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa, xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô
và Trung Quốc; đất nước ta bị chia làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc
hậu, miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mĩ và đế quốc Mĩ trở thành kẻ thù
trực tiếp của nhân dân ta.
Từ cuối những năm 1954, những công cụ để thực hiện chiến lược của Mĩ tại
miền nam Việt Nam được xây dựng và củng cố: về chính trị, bộ máy ngụy quyền
được xây dựng lên do Ngô Đình Diệm đứng đầu là cơ sở để Mỹ áp đặt một chế độ
thực dân dấu mặt trá hình ở miền nam Việt Nam. Về quân sự, ngụy quân được xây
dựng với hệ thống chỉ huy và thiết bị chiến trường đầy đủ hiện đại, về kinh tế Mĩ
giúp miền nam phát triển theo con đường tư bản. về văn hóa Mĩ cho phát triển ở
miền nam nền văn hóa thực dân mới trên tất cả các lĩnh vực.
Tại HNTƯ lần thứ bảy (3 – 1955) và lần thứ tám (8 – 1955) trung ương
Đảng nhận định: muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hoà bình, thực hiện
thống nhất hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền
Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Tháng 12 – 1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, đường lối tiến hành đồng
thời hai chiến lược cách mạng được xác định: "Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng
của toàn đảng, toàn dân ta hiện nay là: củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần
lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ
sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình Tháng 1 – 1959 Hội nghị
Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam. Sau nhiều lần họp và
thảo luận, Ban chấp hành trung ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam.
Hội nghị xác định tính chất xã hội miền Nam sau 1954 là xã hội thuộc địa kiểu mới
và nửa phong kiến, Mâu thuẫn cơ bản của xã hội miền Nam là mâu thuẫn giữa
nhân dân ta ở miền Nam với đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai của chúng. Nhiệm

vụ chiến lược: Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến
lược: Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất
nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước
Miền bắc thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã
hội (1961 – 1965), cách mạng về nhiệm vụ cách mạng chung của cả nước, tại đại
hội toàn quốc lần III xác định cách mạng việt nam có hai nhiệm vụ khác nhau:
cách mạng XHCN ở miền bắc và cách mạng DTDCND ở miền nam. Hai nhiệm vụ
dó đều quan trọng và có quan hệ mật thiết với nhau. Về đường lối cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền bắc, đại hội vạch ra đường lối chung của cách mạng miền bắc
trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội là: đoàn kết toàn dân phát huy tinh
thần yêu nước nồng nàn, truyền thống đấu tranh anh dũng và lao động cần cù của
nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em
để đưa miền bắc tiến nhanh, tiến mạnh,tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền bắc và củng cố miền bắc thành cở sở vững
chắc cho công cuộc đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM QUAN HỆ VIỆT –
XÔ.
2.1. Đặc điểm quan hệ Việt Xô từ 1954 – 1960.
Sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm
hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời và sẽ tiến hành tổng
tuyển cử sau 2 năm. Nhân dân miền Nam liên tiếp đấu tranh đòi thực thi hiệp định
Giơ-ne-vơ nhằm thống nhất nước nhà. Trong khi đó, miền Bắc bắt tay vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội với một nền tảng kinh tế không ổn định và bị chiến tranh tàn
phá rất nặng nề, công việc đầu tiên là phải khắc phục lại hậu quả của chiến tranh.
Vì thế việc tìm một ‘đồng minh” có thể giúp ta có thể khắc phục hậu quả chiến
tranh và là một điểm tựa vững chắc thì rõ ràng hơn cả là Liên Xô, thành trì của phe
Xã hội Chủ nghĩa.
Liên Xô khá ủng hộ Việt Nam trên trường quốc tế. Nhờ lập trường kiên định
của Liên Xô mà lần đầu tiên Việt Nam được tham gia một hội nghị quốc tế lớn, tuy

chưa được các nước Anh, Pháp, và Mỹ công nhận về mặt ngoại giao. Ngày 4 – 5 –
1954 phái đoàn Việt Nam đến hội nghị Giơ-ne-vơ với tư cách thành viên chính
thức. 8 – 5 – 1954 hội nghi Giơ-ne-vơ họp công khai. Phái đoàn chính phủ nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Phạm Văn Đồng dẫn đầu với tư thế người chiến thắng. Sau một thời gian đàm phán
và thương lượng, đêm 20 rạng ngày 21 – 7 – 1954 , hội nghị Giơ-ne-vơ về chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được kí kết. Các bản hiệp định
đình chiến ở Việt Nam, Lào, CamPuChia được kí kết. Hội nghị thông qua tuyên bố
chung thừa nhận quyền độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nhân
dân Việt Nam, Lào và Campuchia, quyết định đình chỉ chiến sự trên toàn Đông
Dương, quân đội Pháp rút khỏi các nước Đông Dương, lấy vĩ tuyến 17 làm giới
tuyến quân sự tạm thời, Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, sau 2 năm sẽ
tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Hội nghị Giơ-ne-vơ được kí kết “tạm thời”
thành công cũng có phần đóng góp của Liên Xô, và tất nhiên phần “đóng góp” của
Liên Xô thì không thể sánh với Trung Quốc.
Ngay sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, chính phủ Liên Xô đã gửi
điện mừng tới chủ tịch kiêm thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là Hồ Chí
Minh . Trong giai đoạn này quan hệ giữa Bắc Việt Nam và Liên Xô khá tốt, các
chuyến thăm các cấp và đặc biệt là các chuyến thăm của chủ tịch Hồ Chí Minh
sang Liên Xô đã giúp cho mối quan hệ giữa hai quốc gia vẫn nồng ấm. Tuy nhiên,
trong thái độ của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam có
những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, Liên Xô giữ nguyên trạng ở miền Nam Việt Nam. Liên Xô muốn
Việt Nam phấn đấu giành thắng lợi trong xây dựng miền Bắc để vận động và thúc
đẩy đấu tranh chính trị ở miền Nam, giải quyết các vấn để ở miền Nam Việt Nam
bằng thương lượng, bằng con đường hòa bình. Các phương tiện truyền thông đại
chúng của Liên Xô cũng rất ít đưa tin về chiến tranh Việt Nam, về thắng lợi quân
sự của nhân dân miền Nam và lên án rất cầm chừng các hành động can thiệp quân
sự của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Trong giai đoạn này các cơ quan ngôn luận của
Liên Xô liên tục đưa tin về giải pháp Giơ-ne-vơ cho Việt Nam, thúc đẩy các nước

có liên quan giải quyết các vấn đề của Việt Nam bằng hòa bình thông qua hình
thức hiệp thương. 6 – 4 – 1956 Bộ ngoại giao Liên Xô đã gửi thư cho bộ ngoại
giao Anh về vấn đề thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ ở Việt Nam. Trong bản thông
điệp nêu rõ: “Chính phủ Liên Xô vẫn cho rằng hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt cuộc
chiến tranh đẫm máu ở Đông Dương cần phải được thi hành đầy đủ. Chính phủ
Liên Xô đặc biệt chú ý đến ý nghĩa lớn lao của việc thi hành điều khoản căn bản
trong hiệp định Giơ-ne-vơ nói về việc thống nhất nước Việt Nam bằng tổng tuyển
cử tự do và dân chủ dưới sự giám sát của ủy ban quốc tế ở Việt Nam”. Lý do khiến
Liên Xô có những thái độ trên đối với Bắc Việt Nam là do sau khi Stalin mất,
Khrushev lên thay đã đi vào còn đường xét lại mà các nước sau này gọi là “chủ
nghĩa xét lại”. Năm 1956, tại Đại hội lần thứ XX, Đảng Cộng Sản Liên Xô đã đưa
ra đường lối “cùng tồn tại hòa bình”, “quá độ hòa bình”, “thi đua hòa bình” và
chương trình đầy tham vọng “đuổi kịp và vượt Mỹ” về sản phẩm tính theo đầu
người trong thời gian ngắn nhất. Vì mục tiêu và lợi ích của mình, Liên Xô chủ
trương hòa hoãn với chủ nghĩa đế quốc nhất là đế quốc Mỹ, coi đó là nhiệm vụ
chiến lược hàng đầu, nhằm tranh thủ vốn và kĩ thuật của Mỹ và Tây phương và giữ
nguyên hiên trạng của châu Âu để tạo ra điều kiện quốc tế thuận lợi cho xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Liên Xô e ngại phong trào giải phóng dân tộc sẽ như
“đốm lửa cháy rừng”, cản trở hòa hoãn, ảnh hưởng đến mục tiêu chiến lược của
Liên Xô.
Chính vì thế, trong thời gian này Liên Xô chủ trương hòa bình tại Việt Nam
và giải pháp Giơ-ne-vơ cho việc thống nhất hai miền Nam – Bắc. Đối với Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Liên Xô khá tích cực trong việc giúp miền Bắc xây dựng
lại cơ sở kinh tế. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, miền Bắc từng bước khắc phục hậu
quả chiến tranh. Biểu hiện cụ thể là Liên Xô đã giúp Việt Nam thực hiện kế hoạch
3 năm khôi phục kinh tế 1955 – 1957 và 3 năm phát triển kinh tế và văn hóa 1958
– 1960. Tháng 3 – 1959 Liên Xô cho Việt Nam vay 100 triệu Rúp để thực hiện kế
hoạch 3 năm phát triển kinh tế nói trên. Sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết
Liên Xô đã cử hàng loạt các chuyên gia sang Việt Nam, giúp Việt Nam khắc phục
hậu quả của chiến tranh. Công việc đầu tiên mà cần phải khắc phục đó là trong lĩnh

vực nông nghiệp, khi mà nông nghiệp đã bị tàn phá rất nặng nề trong chiến tranh
khiến cho diện tích đất bị bỏ hoang rất lớn. Nắm bắt được tình hình đó, trong năm
1954 chính phủ Liên Xô đã cử sang Việt Nam những chuyên gia nông nghiệp giàu
kinh nghiệm giúp xây dựng giáo trình và hệ thống ngành, nghề đào tạo, đồng thời
giúp Việt Nam thành lập Trường đại học đầu tiên tại miền Bắc. Liên Xô cung cấp
toàn bộ các thiết bị và cử một số đội ngũ cán bộ giảng dạy với nhiều chuyên ngành
để đào tạo công nhân cơ khí nông nghiệp tại trường công nhân cơ khí Việt – Xô,
giúp Bắc Việt Nam xây dựng các chương trình tiến bộ khoa học – kĩ thuật trong
nông nghiệp, xác định và tập trung giải quyết các vấn đề khoa học - kĩ thuật trọng
điểm của nông nghiệp Việt Nam. Chính phủ Liên Xô còn giúp Việt Nam trang bị
các phòng phân tích nông nghiệp và cử chuyên gia sang giúp Việt Nam xây dựng
bản đồ thổ nhưỡng miền Bắc giúp đánh giá đúng tài nguyên đất của Việt Nam, trên
cơ sở đó đề ra những chủ trương đúng đắn trong việc xác định các phương án phát
triển nông – lâm nghiệp của Việt Nam. Sau khi giúp Bắc Việt Nam khắc phục hậu
quả chiến tranh và đào tạo cho Việt Nam hàng loạt các chuyên gia trên lĩnh vực
nông nghiệp Liên Xô còn giúp Việt Nam mở rộng và phát triển thêm trên lĩnh vực
này. Trong những năm sau đó, Liên Xô giúp Việt Nam kĩ thuật để mở rộng sản
xuất cây công nghiệp nhiệt đới lâu năm, tổ chức các nông trường quốc doanh, các
trạm sửa chữa, xây dựng nhà máy chè và các xí nghiệp để bước đầu chế biến cà
phê, nước quả và quả hộp. Ngoài ra trong năm 1960 Liên Xô còn cho Việt Nam
vay dài hạn 350 triệu Rúp với điều kiện ưu đãi để chi phí về thiết bị máy móc nông
nghiệp, vật tư, công tác khảo sát thiết kế và các chi phí khác liên quan đến việc tổ
chức các nông trường quốc doanh và xây dựng những xí nghiệp do Liên Xô giúp
Việt Nam về kỹ thật.
Đối với ngành khai thác mỏ thì nó đóng một vai trò hết sức quan trọng, do
đặc thù về địa hình nên Việt Nam có một trữ lượng mỏ cũng khá lớn. Cho nên,
ngay sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Liên Xô đã giúp khôi phục các cơ sở
khai thác chế biến than ở vùng Hòn Gai – Cẩm Phà, giúp cải tạo, mở rộng các mỏ
than lộ thiên. Ngoài ra nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô mà tại Tĩnh Túc (Cao Bằng) đã
khánh thành mỏ thiếc Tĩnh Túc, đây là mỏ thiếc được Pháp khai thác từ năm 1902

và bị tàn phá nặng trong những năm chiến tranh. Mỏ được Liên Xô thiết kế và
tranh bị lại và bắt đầu đưa vào hoạt động từ năm 1954. Đây là mỏ thiếc lớn đầu
tiên được khai thác và chế biến với quy mô công nghiệp, một trong ba vùng quặng
thiếc trọng điểm của Việt Nam. Nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô mà ngành công
nghiệp khai thác mỏ mà đặc trưng là khai thác than đã đạt được những thành tựu
nhất định về công suất khai thác, đem lại nhiều nguồn lợi nhuận. Ngoài ra trên lĩnh
vực còn khá là mới mẻ như dầu khí và khó khăn như dầu khí, Liên Xô cũng có
những đóng góp cho Việt Nam. Liên Xô cũng đã cử những chuyên gia địa chất dầu
khí với tri thức nghề nghiệp sâu rộng và kinh nghiệm thực tiễn sang giúp Việt Nam
nghiên cứu, tìm kiếm dầu khí – nguồn năng lượng và nguyên liệu chiến lược quan
trọng đối với công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội của Việt Nam. 18 – 7 – 1955
Đoàn đại biểu Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do chủ tịch Hồ Chí
Minh kiêm Thủ tướng chính phủ dẫn đầu đi thăm Liên Xô. Tại chuyến viếng thăm
này Liên Xô quyết định giúp Việt Nam 400 triệu Rúp không hoàn lại để năng cao
sức sống của nhân dân và khôi phục kinh tế, trong đó bao gồm cả khôi phục và xây
dựng 25 xí nghiệp công nghiệp phúc lợi công cộng. Ngoài ra chuyến thăm này còn
đánh dấu một một sự kiện quan trọng trong hợp tác thương mại – kinh tế giữa Liên
Xô và Việt Nam. Chuyến thăm chính thức đầu tiên của Đoàn đại biểu Chính phủ
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với việc kí kết hàng loạt các văn kiện hợp tác
trên các lĩnh vực đã đánh dấu điểm khởi đầu cho sự hợp tác toàn diện giữa hai
nước. Sau đó, vào 5 – 5 – 1956 Tại Matxcova Việt Nam và Liên Xô đã kí hiệp định
mậu dịch Việt – Xô, hiệp định trao đổi hàng hóa năm 1956, theo đó khối lượng trao
đổi hàng hóa sẽ tăng gấp nhiều lần so với năm 1955. Liên Xô sẽ cung cấp cho Việt
Nam thiết bị, máy kéo, các chế phẩm dầu hỏa, dây cáp và nhiều hàng hóa cần thiết
khác cho Việt Nam. Đổi lại, Việt Nam sẽ xuất sang Liên Xô các sản phẩm làm từ
gỗ quý như: bàn, ghế, tủ, chè, các mặt hàng thủ công nghiệp, gia vị, rau quả nhiệt
đới…
Thứ hai, do trọng tâm chiến lược mới của Liên Xô là nhẳm củng cố khối Xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu mà biểu hiện rõ nhất là thành lập khối SEV và tổ chức
Varsava, đòi các nước đế quốc giữ nguyên hiện trạng châu Âu, thực hiện hòa hoãn

Đông Tây, Liên Xô tránh đối đầu căng thẳng với Mỹ và và phương Tây. Cũng cần
nói thêm rằng, yếu tố Trung Quốc cũng đóng một vai trò quan trọng trong mối
quan hệ Việt Nam và Liên Xô. Sau hội nghị Giơ-ne-vơ, uy tín của Trung Quốc tăng
cao trên trường quốc tế. Trung Quốc bắt đầu mở rộng ảnh hưởng, tập hợp lực
lượng châu Á và châu Phi, đặc biệt là Đông Nam Á và Nam Á. Điều đó thể hiện
trong vai trò của Trung Quốc ở hội nghị tại In-đô-nê-xi-a năm 1955, gạt bỏ ảnh
hưởng của Liên Xô. Trung Quốc tìm cách hạn chế ảnh hưởng trong khu vực thông
qua vấn đề Việt Nam, tránh gây căng thẳng với Mỹ. Tuy nhiên trong giai đoạn này,
mâu thuẫn Xô – Trung chưa bộc lộ công khai và chưa thực sự cao trào, nên quan
hệ giữa hai nhà nước Việt – Xô vẫn giữ ở mức bình thường.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chỉ có mối quan hệ đặc biệt với Liên Xô
mà còn cả đối với Trung Quốc. Nhưng kể từ khi Trung Quốc thống nhất lãnh thổ
vào năm 1949 thì mối quan hệ này bắt đầu có dấu hiệu rạn nứt, tuy nhiên sự rạn
nứt đó vào thời điểm này là chưa đáng kể nhưng cũng cần phải cẩn trọng trong
cách đối xử đối với 2 quốc gia lớn trong khối Xã hội Chủ nghĩa này. Để giữ gìn
quan hệ cân bằng, đoàn kết, hữu nghị với cả Liên Xô và Trung Quốc, dưới sự chỉ
đạo của Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta chủ trương ứng phó nhanh nhạy, mềm
dẻo với mọi biến chuyển của tình hình, đạt tới sự tế nhị và cân bằng. Và vì thế vai
trò của Hồ Chí Minh trong việc cân bằng mối quan hệ Việt Nam với Liên Xô và
Trung Quốc, các chuyến thăm những năm 1956 – 1960 do Chủ tịch Hồ Chí Minh
dẫn đầu khá là liên tục và đồng đều với cả Liên Xô, Trung Quốc: Năm 1956, thăm
chính thức Liên Xô, Trung Quốc và Mông Cổ, năm 1957, thăm 9 nước, trong đó có
Liên Xô, Trung Quốc, trong hai năm 1959-1960, hai lần thăm Trung Quốc và Liên
Xô.
Với các chuyến thăm liên tục đối với hai quốc gia lớn nhất trong khối Xã
hội Chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đã giúp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đạt được những
lợi ích nhất định từ cả hai phía mà không làm mất lòng bên nào. Đặc biệt là đối với
Liên Xô, trong đánh giá tổng quát về viện trợ quân sự dành cho Việt Nam trong
giai đoạn này thì Liên Xô cũng chiếm một phần không nhỏ. Giai đoạn 1955 – 1960
trong tổng số 49585 tấn thì Liên Xô đóng góp 29996 tấn, trong đó Trung Quốc

chiếm 19589 tấn. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn vào số liệu thống kê thì Liên Xô là nước
viện trợ quân sự cho Việt Nam lớn hơn Trung Quốc, tuy nhiên số liệu trên là tính
theo đơn vị tấn, nó không phản ánh đúng thực tế sự viện trợ quân sự cần thiết của
Liên Xô cho Việt Nam, trong khi đó tuy rằng Trung Quốc viện trợ tính theo đơn vị
tấn, rõ ràng là ít hơn Liên Xô nếu tính theo số liệu. Tuy nhiên, ta có thể hiểu được
vì sao lại như thế, bản thân Liên Xô không ủng hộ Việt Nam trong việc dùng bạo
lực cách mạng để giải quyết tình hình của miền Nam Việt Nam, Liên Xô vẫn chủ
trương theo giải pháp Giơ-ne-vơ mà không biết rằng giải pháp đó gần như không
thể xảy ra đối với Việt Nam khi mà đế quốc Mỹ đã thể hiện rõ họ muốn xé bỏ giải
pháp đó, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa được hình thành là minh chứng rõ nhất
cho việc đó, chính quyền Sài Gòn đã đàn áp những người Cộng Sản ở miền Nam
Việt Nam và đàn áp những người đòi thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ, rõ ràng là Mỹ
sẽ không cho thực hiện giải pháp Giơ-ne-vơ tại miền Nam Việt Nam. Trong khi đó,
Liên Xô vẫn khăng khăng giữ vững quan điểm của họ là hai miền Nam – Bắc nên
giải quyết bằng biện pháp hòa bình, ngay cả khi phong trào “Đồng Khởi” nổ ra vào
năm 1960 Liên Xô vẫn không đồng tính với chủ trương của Việt Nam. Chủ trương
của Liên Xô là như vậy cho nên việc viện trợ vũ khí cho Việt Nam là rất hạn chế,
trong 29996 tấn viện trợ cho Việt Nam thì phần lớn trong số đó là các trang bị kĩ
thuật và hàng hậu cần, còn vũ khí thì rất là hạn chế, đáng kể nhất trong giai đoạn
này là Liên Xô viện trợ cho Việt Nam 30 chiếc xe tăng T-34/85 nhưng đã qua sử
dụng và khá là lỗi thời. Nếu tính cho cả cuộc chiến tranh thì số lượng viện trợ quân
sự của Liên Xô cho Việt nam trong 7 năm từ 1954 – 1960 cũng không bằng trong
năm 1965.
Nhìn chung cho cả giai đoạn này tình hình mối quan hệ giữa Việt Nam và
Liên Xô vẫn khá là tốt đẹp, nhờ những chính sách đúng đắn của Đảng lao động
Việt Nam và nhớ tài ngoại giao tài giỏi của Hồ Chí Minh đã giúp cho miền Bắc
Việt Nam đứng vững qua giai đoạn khó khăn.
2.2. Đặc điểm quan hệ Việt Nam – Liên Xô từ 1960 – 1965.
Giai đoạn 1960 tới 1965 là một giai đoạn đầy biến động trong mối
quan hệ giữa hai nước, các giai đoạn thăng trầm khác nhau. Quan hệ giữa hai nước

diễn ra trong bối cảnh mới Đây là giai đoạn đường lối cách mạng Việt Nam có sự
thay đổi. Trong thời gian này, cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tăng cường
đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy ở miền Bắc, đồng
thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống
nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng
cường phe Xã Hội Chủ Nghĩa và bảo vệ nền hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế
giới.
Cho tới trước khi sự kiện “Vịnh Bắc bộ” xảy ra và Mỹ đổ quan vào miền
Nam Việt Nam thì quan điểm của Liên Xô về việc giải quyết tình hình ở Việt Nam
vẫn như giai đoạn trước, vẫn là giải pháp qua thương lượng hòa bình, vẫn muốn
Việt Nam giải quyết tình hình bằng giải pháp Giơ-ne-vơ. Khi cách mạng miền
Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công chủ động, phía Liên Xô đã
khuyên Việt Nam không nên giải quyết tình hình ở Việt Nam bằng vũ trang, chỉ
muốn Việt Nam tập trung sức lực xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc và bằng
cách đó tác động vào diễn biến của tình hình miền Nam. Vì vậy, ngày 25 – 2 –
1963, Trung ương Đảng Cộng Sản Liên Xô đã khuyên Việt Nam nên lợi dụng đề
nghị của chính quyền Kennedy về thương lượng nhằm “trung lập hóa” Việt Nam
để phục vụ cho việc củng cố vị trí của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tạo điều
kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh của các lực lượng yêu nước miền Nam Việt Nam,
đồng thời giúp thủ tiêu lò lửa căng thẳng ở khu vực Đông Nam Á. Vì thế Liên Xô
vẫn giúp đỡ Việt Nam trong việc phát triển kinh tế miền Bắc, giúp miền Bắc xây
dựng những công trình trọng điểm và cho miền Bắc vay những khoản vay ưu đãi
hoặc viện trợ không hoàn lại như: 23 – 12 – 1960 Việt Nam và Liên Xô kí hiệp
định kinh tế thương mại, Liên Xô giúp Việt Nam về kinh tế và kỹ thuật trong kế
hoạch 5 năm (1961 – 1965), các bản Hiệp nghị về trao đổi hàng hóa giữa hai nước
trong giai đoạn trên và Nghị định thư trao đổi hàng hóa trong năm 1961. Trong
vòng 5 năm, kế hoạch trao đổi hàng hóa giữa hai nước sẽ tăng lên hơn gấp 2,5 lần,
trị giá 1250 triệu Rúp. Liên Xô giúp Việt Nam về kỹ thuật trong công việc xây
dựng 43 xí nghiệp công nghiệp mới và các công trình khác, trong đó có 8 nhà máy
nhiệt điện và thủy điện công suất tổng cộng khoảng 20 vạn kW, gửi chuyên gia

sang giúp đỡ về mặt kỹ thuật, xây dựng các công trình xí nghiệp về điện, chế tạo
máy móc, khai khoáng…,tiến hành thăm dò địa chất tổng hợp, tìm các loại quặng
khác nhau cũng như cung cấp cho Việt Nam các thiết bị kim khí, phân bón và các
loại hàng hóa cần thiết cho sự phát triển kinh tế quốc dân của Việt Nam. Liên Xô
cho Việt Nam vay dài hạn 430 triệu Rúp với mức lãi hàng năm là 2% và viện trợ
không hoàn lại cho Việt Nam 20 triệu Rúp để phòng chống bệnh sốt rét. Nhờ sự
giúp đỡ của Liên Xô, Việt Nam đã xây dựng và phát triển các nông trường quốc
doanh , khai hoang được 120000ha đất, đưa vào gieo trồng trên quy mô đại trà
15000ha chè, 5000ha cà phê, 5000ha cam chanh, 10000ha dứa, 3700ha cao su và
15000ha đất chăn nuôi…Gần 20000 máy kéo, máy gặt đập, máy gieo hạt…của
Liên Xô hoạt động trên khắp miền Bắc. Hàng loạt các công trình về điện được khởi
công vàkhánh thàh trong giai đoạn này như việc khởi công xây dựng nhà máy điện
Uông Bí, nhà máy này được Liên Xô giúp xây dựng từ 19 – 5 – 1961 và hoàn
thành vào 18 – 1 – 1964, nhà máy điện Uông Bí với công suất 24000kW – công
suất vào loại lớn nhất miền Băc lúc này với các thiết bị điều khiển tự động, đốt lò
bằng than phun chính thức đi vào sản xuất. Nhà máy thủy điện Bàn Thạch ở Thanh
Hóa cũng do Liên Xô giúp đỡ và hoàn thành vào năm 1962, so với các nhà máy
thủy điện khác trên miền Bắc lúc này, nhà máy thủy điện Bàn Thạch có công suất
lớn nhất và được trang bị hiện đại nhất.
Trong năm 1962 Việt Nam và Liên Xô liên tiếp kí với nhau các hiệp định
về hơp tác thương mại và trao đổi hàng hóa. 15 – 9 – 1962 Việt Nam và Liên Xô kí
với nhau hiệp định viện trợ kinh tế và kỹ thuật. Theo hiệp định này, Liên Xô đảm
bảo giúp đỡ về kỹ thuật cho Việt Nam trong những năm 1963 – 1968 để xây dựng
và mở rộng các xí nghiệp và công trình công nghiệp, cung cấp cho Việt Nam máy
kéo và máy móc nông nghiệp, nhiên liệu, phân bón trong giai đoạn 1962 – 1965,
cung cấp mỗi năm 2000 tấn bông trong năm 1964 – 1965, tiến hành công tác thăm
dò, thiết kế khảo sát, cung cấp các thiết bị vật liệu, gửi chuyên gia sang Việt Nam
cũng như tiếp nhận chuyên gia sang Liên Xô học tập. Theo hiệp định, Liên Xô cho
Việt Nam vay 10 triệu Rúp để khôi phục và phát triển kinh tế. Cũng trong năm
1962 Việt Nam và Liên Xô kí nghị định thư về trao đổi hàng hóa. Liên Xô sẽ giao

snag Việt Nam các loại máy móc và thiết bị, sắt thép và kim loại màu, sản phẩm
dầu mỡ và phân hóa học…Đổi lại, Việt Nam sẽ xuất sang Liên Xô những mặt hàng
xuất khẩu truyền thống của mình như hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp,
các sản phẩm nhiệt đới đã qua chế biến.
Tuy nhiên, thái độ của Liên Xô đối với Việt Nam xấu hẳn đi kể từ giữa năm
1963, sau khi Việt Nam công khai phát biểu một số quan điểm về các vấn đề quốc
tế sau khi Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ thăm Việt Nam vào tháng 5 – 1963. Thái độ dó
được biểu hiện rõ nét trong bức thư của Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô gửi
Trung ương Đảng lao động Việt Nam ngày 28 -11 – 1963 và nhất là bức thư gửi
ngày 6 – 7 – 1964. Nội dung bức thư nói rõ: “ Trong thời gian gần đây, một số
hoạt động của các đồng chí trong Trung ương Đảng lao động Việt Nam đã làm cho
chúng tôi nghi ngại và phiền lòng vì những hành động đó rõ ràng hành động đó đi
ngược lại với những tuyên bố của Đại biểu Việt Nam về tình hữu nghị Xô Việt…
một chiến dịch không thân thiện chống Liên Xô gần đây được tiến hành ngày càng
rộng rãi và tích cực tại nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa…trong các hội nghị bí
mật của Đảng và trong dân chúng đã phổ biến đủ điều bịa đặt nhằm reo rắc sự
hoài nghi đối với đất nước của Lênin, khêu lên tình cảm không đẹp đối với đất
nước của Lênin…phải chăng những sự kiện kể trên…đang gây thiệt hai lớn lao
cho mối tình hữu nghị Xô – Việt…chúng tôi mong muốn một cách chính đáng rằng
hữu nghị thì phải được đáp trả bằng hữu nghị.”
Chính trong giai đoạn này, mâu thuẫn Xô – Trung và nhân tố trung Quốc
đã trở thành trở ngại lớn cho sự phát triển quan hệ Việt – Xô. Điều này được biểu
hiện rõ rệt qua những hành động và động thái của Liên Xô đối với Việt Nam.
Trong thời gian từ 1960 – 1964, Trung ương Đảng lao động Việt Nam đã nhận
được khoảng 13 lá thư và các thông báo của Ban chấp hành Trung ương và Bộ
chính trị Đảng cộng sản Liên Xô. Phần lớn những bức thư và thông báo này đều đề
cập đến sự bất đồng Xô – Trung, đề nghị hội đàm hai Đảng Xô – Việt, phàn nàn
lãnh đạo và báo chí Việt Nam phê phán lập trường của Đảng cộng sản Liên Xô,
phê phán Việt Nam có thái độ không thân thiện vớ chuyên gia Liên Xô ở Việt
Nam. Các chuyến viếng thăm của Liên Xô tới Việt Nam do Pônômarinốp, Bí thư

trung ương Đảng dẫn đầu vào tháng 2 – 1962 và đoàn do Andrôpốp, Bí thư trung
ương Đảng dẫn đầu vào tháng 1 – 1963, đều nhằm lôi kéo tranh thủ Việt Nam.
Trong lá thư gửi Trung ương đảng Lao động Việt Nam ngày 6 – 7 – 1964, Trung
ương đảng cộng sản Liên Xô đã đề nghị Trung ương đảng Lao động Việt Nam phải
“thay đổi lập trường”.
Trong bối cảnh bất đồng Xô-Trung bộc lộ công khai, Liên Xô quan tâm nhiều hơn
đến việc tranh thủ các nước lớn khác trong khu vực như Inđônêxia, Ấn Độ, nhằm
tranh giành ảnh hưởng với Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, Liên Xô đã không cắt
quan hệ với Việt Nam như đã làm với Albani và Trung Quốc vì vị thế của Việt
Nam trong ván bài với Mỹ. Đây là giai đoạn xấu nhất trong lịch sử quan hệ giữa
hai nước.
Do những bất đồng về mặt chính trị cho nên từ giai đoạn 1960 – 1964, viện trợ
quân sự của Nga dành cho Việt Nam rất ít, và không đáng kể, chủ yếu viện trợ
quân sự Việt Nam nhận được chủ yếu vẫn là từ Trung Quốc. Tháng 9 – 1962, khi
đồng chí Văn Tiến Dũng sang Liên Xô đề nghị tăng cường viện trợ quân sự, Liên
Xô chỉ nhận giúp với số lượng rất ít. Ngày 28 – 1 – 1963, Đại sứ Liên Xô tại Hà
Nội Tovmasyan đã được Trung ương đảng cộng sản Liên Xô uỷ nhiệm đến gặp thủ
tướng Phạm Văn Đồng nhấn mạnh chỉ viện trợ kinh tế cho miền Nam thôi.
Cũng trong giai đoạn này, vai trò của Hồ Chí Minh lại được thể hiện một
cách rõ ràng nhất, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc điều chỉnh mối quan
hệ với hai cường quốc trong khối liên minh Xã hội Chủ nghĩa. Trước những sự
kiện phức tạp trong tình hình Liên Xô, Trung Quốc; giữa Liên Xô – Trung Quốc ,
Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý Đảng và Chính phủ ta giữ thái độ đúng mực, mọi góp
ý, trao đổi cần hết sức cẩn trọng. Để đảm bảo điều đó, Hồ Chí Minh đặt tâm sức
vào hai việc quan trọng: Luôn giáo dục, căn dặn cán bộ, đảng viên phải có thái độ
không a dua, biệt phái, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước anh em,
tránh "để Trung Quốc đừng hiều lầm. Trung Quốc và Liên Xô đừng hiểu lầm
nhau”, gây tranh cãi không cần thiết; Chỉ đạo sát sao công tác tuyên truyền và cán
bộ tuyên truyền phải hết sức cẩn trọng trong tác nghiệp, trong đưa tin, bình
luận…“ tranh đấu để đi đến đoàn kết chứ không nói xấu ai ", không gây tổn

thương cho quan hệ quốc tế của Việt Nam với cả hai người bạn lớn.
Cũng cần nói thêm rằng, quan điểm đó không đồng nhất với thái độ “dĩ hòa
vi quý” hoặc thủ tiêu đấu tranh. Đây là biểu hiện ở mức cao nhất sự tôn trọng đối
với hai nước lớn anh em, là sự tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc bang giao quốc tế -
điều kiện quan trọng đảm bảo cho quan hệ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Liên Xô
và Trung Quốc trong những giai đoạn khó khăn nhất không sứt mẻ.
Khi mâu thuẫn Xô- Trung ngày càng gia tăng, cả hai nước đều muốn tranh
thủ mở rộng ảnh hưởng của mình đối với Việt Nam, lái Việt Nam đi theo đường lối
của mình, thậm chí có lúc còn lôi kéo và gây sức ép. Trước tình thế không mấy dễ
dàng này, Hồ Chí Minh chủ trương giải quyết quan hệ Việt – Xô - Trung trên quan
điểm độc lập, tự chủ, chống khuynh hướng áp đặt; kiên định lập trường đoàn kết
với cả hai nước. Cách thức đạt mục tiêu được Hồ Chí Minh xác định rõ: Sách lược
hết sức mềm dẻo, “làm việc phải thật khôn khéo, thận trọng”, "nguyên tắc của ta
thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì phải linh hoạt", chú trọng phát huy,
thúc đẩy mặt tích cực trong chính sách đối ngoại của Liên Xô, Trung Quốc. Thuyết
phục, vận động, hướng việc đoàn kết song phương Việt- Xô, Việt - Trung “trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”, trên nền
tảng chính nghĩa của cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam. Với
phương châm “chưa hiểu thì chưa nên bầy tỏ thái độ” của Hồ Chí Minh, suốt thời
kỳ mâu thuẫn Xô – Trung diễn ra gay gắt, trên các phương diện chính thống, Đảng
và Nhà nước ta đã không bàn luận, không bày tỏ thái độ đồng tình hay phản đối
cuộc đấu tranh nội bộ trong Đảng Cộng sản Liên Xô , hay đối với Cách mạng văn
hóa của Trung Quốc, cũng như không tham gia các cuộc tranh luận công khai giữa
hai bên, tránh gây ra những hiểu lầm không cần thiết. Những năm 1960-1964, khi
Trung Quốc thường xuyên nêu vấn đề “chống chủ nghĩa xét lại”, “tách khỏi Liên
Xô”, còn Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô liên tiếp gửi thông điệp đề cập đến
bất đồng Xô – Trung, đề nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phải thay đổi
lập trường với Trung Quốc, thì Hồ Chí Minh vẫn luôn mềm mỏng và kiên định giải
thích: “Đảng chúng tôi luôn luôn giáo dục cho cán bộ, đảng viên và cho quần
chúng nhân dân lòng yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản, luôn luôn

tăng cường đoàn kết hữu nghị với Liên Xô, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và các
nước anh em khác, đồng thời, khi lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta trao đổi và thông báo
về các vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam với lãnh đạo Liên Xô, thì cũng đồng
thời thông báo, trao đổi với lãnh đạo Trung Quốc.
Một cách tổng quát, trong xử lý quan hệ với Liên Xô, Trung Quốc, Hồ Chí
Minh đã kết hợp hài hoà giữa mềm dẻo và kiên quyết, giữa cương và nhu, giữa
chiến lược và sách lược, giữa chủ động và sáng tạo, vô cùng linh hoạt trên cơ sở
giữ vững nguyên tắc, từ đó nhận biết, nắm bắt thời điểm để xử lý thành công quan hệ
Việt Nam với Liên Xô, Trung Quốc, bảo vệ và thực hiện tốt nhất lợi ích của quốc gia,
dân tộc.
Mối quan hệ không tốt giữa Bắc Việt Nam và Liên Xô chỉ được chấm dứt
vào 10 – 1964 khi Liên Xô có sự thay đổi trong ban lãnh đạo. Tại hội nghị Ủy ban
Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô đã bãi chức bí thư thứ nhất của Khorutsôp và
bầu Brêgiơnhep vào thay vị trí đó. Côxưghin được chỉ định giữ chức Chủ tịch hội
đồng bộ trưởng Liên Xô thay Khorutsôp. Sự thay đổi này mang tính quyết định
trong chính sách của Liên Xô đối với Việt Nam. Điều chủ yếu là sau sự kiện Vịnh
Bắc bộ, Liên Xô nhận thấy cả Mỹ và miền Bắc Việt Nam đều kiên định giải quyết
vấn đề Việt Nam bằng biện pháp quân sự. Một khi chiến tranh nổ ra giữa Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa và Mỹ thì việc giúp đỡ một nước Xã Hội Chủ Nghĩa anh em là
điều không thể tránh khỏi. Liên Xô cho rằng Việt Nam chắc chắn sẽ tìm kiếm
nguồn viện trợ tứ phía Liên Xô và coi đây là nghĩa vụ quốc tế của Liên Xô. Vì
những lý do trên mà Liên Xô quyết định chuyển hướng và từ sự giúp đỡ mang tính
tuyên truyền thuần túy cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam sang viện trợ vật chất nhiều hơn. Lần đầu tiên, trong
bản tuyên bố của Thông tấn xã Liên Xô TASS (ngày 27 – 11 – 1964) ngoài việc lên
án các hành động xâm lươc của Mỹ còn chứa đựng lời hẹn về việc tăng viện trợ
cho Việt Nam cùng với lời cảnh báo: “…Những kẻ đang nuôi dưỡng những mưu
đồ phưu lưu ở bán đảo Đông Dương cần phải biết rằng, Liên Xô sẽ không thể làm
ngơ trước vận mệnh của một nước Xã Hội Chủ Nghĩa anh em, và Liên Xô sẵn sang
giúp đỡ anh em đó mọi sự cần thiết”.

Ngay sau đó Bắc Việt Nam và Liên Xô đã đưa ra được tuyên bố chung, tuyên
bố chung được hai bên đưa ra ngày 10/2/1965 khẳng định Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa là tiền đồn của phe Xã Hội Chủ Nghĩa ở Đông Nam Á, vai trò của Việt
Nam trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ và đóng góp của Việt Nam vào nền hoà
bình của thế giới. Tuyên bố cũng khẳng định Liên Xô không thể thờ ơ với an ninh
của một nước Xã Hội Chủ Nghĩa anh em và sẵn sàng ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam.
Sự cam kết giúp đỡ Việt Nam của Liên Xô một lần nữa được khẳng định bằng
chuyến thăm Liên Xô từ ngày 10-17/4/1965 của đoàn đại biểu cao cấp Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa do đồng chí Lê Duẩn dẫn đầu. Tuyên bố chung nhấn mạnh:
“Nếu Hoa Kỳ tăng cường xâm lược chống Việt Nam, trong trường hợp cần thiết và
nếu Việt Nam yêu cầu, chính phủ Liên Xô sẵn sàng cho phép những công dân xô
viết có nguyện vọng đến Việt Nam theo tinh thần quốc tế vô sản để chiến đấu vì sự
nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, bảo vệ những thành quả xã hội chủ
nghĩa của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.”
Một nguyên nhân quan trọng khác là Liên Xô đã thay đổi cách nhìn về Việt
Nam, coi Việt Nam là trung tâm trong nền chính trị quốc tế, có liên quan trực tiếp
tới đối thủ chính của Liên Xô là Mỹ và đối thủ chính của Liên Xô trong phong trào
cách mạng là Trung Quốc. Vì những lý do đó, Liên Xô đã cố gắng kiểm soát từ nội
dung, giải pháp đến cách tiến hành chiến tranh của Việt Nam.
Sau sự kiện “Vịnh Bắc bộ” trong tháng 8 - 1964và đặc biệt là việc Mỹ tiến
hành leo thang chiến tranh ở Việt Nam và tiến hành đổ bộ quan viễn chinh Mỹ vào
chiến trường miền Nam Việt Nam, quan trọng nhất là sự thay đổi trong ban lãnh
đạo của Liên Xô. Liên Xô nhận ra rằng việc giải quyết vấn đề Việt Nam thông qua
biện pháp hòa bình là không khả thi và việc đối đầu quân sự giữa Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa với Mỹ là việc hiển thị ngay trước mắt, vấn đề chỉ là vấn đề thời
gian. Và Liên Xô với tư cách là thành trì của khối Xã Hội Chủ Nghĩa thì không thể
làm ngơ trước sự an nguy của Việt Nam, quan trọng hơn cả là Liên Xô sợ Bắc Việt
Nam ngả theo phía Trung Quốc khi mà mâu thuẫn Xô – Trung đang lên cao, nếu sự
ảnh hưởng của Liên Xô với Việt Nam bị Trung Quốc lấn át thì tầm ảnh hưởng
trong khu vực Đông Nam Á của Liên Xô sẽ bị ảnh hưởng rất lớn, mà Liên Xô thì

không muốn như thế. Một điều quan trọng nữa là Liên Xô muốn thử nghiệm sự đối
đầu giữa vũ khí quân sự của mình đối với Mỹ, và đây cũng là cơ hội để họ thu
nhập những thông tin về các loại vũ khí mới nhất của Mỹ. Trên cơ sở dữ liệu thu
thập được, Liên Xô điều chỉnh các loại vũ khí của mình cho phù hợp với các trang
thiết bị của Mỹ.
Sau chuyến thăm Việt Nam tháng 2 – 1965 của Chủ tịch Côxưghin , Liên Xô
đã cam kết củng cố giúp đỡ Việt Nam trên các lĩnh vực quân sự. Những chuyến
hàng viện trợ quan trọng đầu tiên được chuyển đến Hà Nội vào tháng 3 – 1965,
đầu tiên bằng con đường biển, dưới dạng cung cấp lương thực và thiết bị. Sau đó,
ngày 30 – 3 – 1965, sau khi Liên Xô và Trung Quốc kí Nghị định thư về việc quá
cảnh viện trợ của Liên Xô qua lãnh thổ Trung Quốc, số lượng vũ khí, đạn dược
ngày càng tăng lên đã được chuyển từ Liên Xô cho Quân đội Nhân dân Việt Nam
qua lãnh thổ của Trung Quốc. Theo Báo cáo của Bộ ngoại giao Liên Xô ngày 26 –
10 – 1965, trong năm 1965 Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam gần 555 triệu dollar
trang thiết bị quân sự, kể cả máy bay. Hơn một nửa trong số đó được chuyển đến
trong năm 1965, Liên Xô đã gửi cho Việt Nam khá nhiều vũ khí và trang thiết bị
hiện đại, trong đó có cả máy bay chiến đấu, tên lửa, súng phòng không và các trang
thiết bị quân sự khác. Ngoài việc gửi các trang thiết bị quân sự, Liên Xô còn gửi
các cố vấn quân sự sang Việt Nam để giúp Việt Nam có thể sử dụng các trang thiết
bị hiện đại, vào cuối năm 1965 có tới 1165 chuyên gia quân sự Liên Xô ở Việt
Nam, chủ yếu là kỹ thuật viên, phi công và nhân viên vận hành tên lửa đất đối
không SAM. Liên Xô còn giúp Việt Nam đào tạo các chuyên gia quân sự, vào
1965 có khoảng 2000 người Việt Nam được gửi sang Liên Xô đào tạo để phục vụ
cho các lực lượng Không quân và Phòng không. Đến lúc này thì có thể nói miền
Bắc đã có xu hướng là ngả theo phía Liên Xô tuy rằng không thể hiện rõ điều đó
cho hai bên biết, tuy nhiên điều đó có thể ngầm hiểu được khi không theo liên
minh mà Trung Quốc lập ra để chống lại Liên Xô mà ngược lại còn ký với Liên Xô
một tuyên bố chung giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Liên Xô.
Có thể nhận thấy rằng bất cứ sự kiện và con số nào phía Liên Xô chính thức
tiết lộ về sự viện trợ của họ cho Bắc Việt được đưa ra trước công chúng không

những để chế nhạo Hoa Kỳ, mà còn để gây ấn tượng với Bắc Kinh – và thậm chí
lớn hơn nữa là để phản bác lại các nước còn lại trong thế giới cộng sản, rằng Trung
Quốc cáo buộc Liên Xô không giúp đủ cho Bắc Việt Nam. Về phần mình, Liên Xô
không lập lờ trong cuộc xung đột, ngay cả khi chuyển giao số lượng vũ khí, họ
cũng gửi bằng cách rất thận trọng. Rõ ràng, Liên Xô không muốn Hoa Kỳ hay
Trung Quốc giành chiến thắng. Mà Liên Xô chỉ không muốn có chiến tranh thế
giới thứ ba từ kết quả của cuộc chiến tại Việt Nam. Do vậy, lượng vũ khí của Liên
Xô chỉ gia tăng sau khi Hoa Kỳ leo thang sự tham gia bằng cách này hay cách
khác, như họ đã làm hồi tháng 2 năm 1965 bằng cách tấn công vào Bắc Việt Nam.
Và Việt Nam dường cuộc thử lửa cho những mưu toán cá nhân giữa Liên Xô,
Trung Quốc và Mỹ.
CHƯƠNG 3: TỔNG KẾT.
Có thể nói mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô là một mối quan hệ phức
tạp, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau và quan hệ Việt Nam – Liên Xô
luôn được duy trì một cách tốt đẹp, chính vì duy trì được mối quan hệ tốt đẹp này
mà Việt Nam chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và phát triển
đi lên sau này. Tuy nhiên trong mối quan hệ này vẫn có nhiều điều cần phải nói tới.
Từ mối quan hệ phức tạp này ta có thể rút ra được những điểm.
Trong mối quan hệ giữa các quốc gia luôn có một mục địch nhất định, họ
không vì mục đích này cũng vì một mục đích khác, không vì lợi ích kinh tế thì
cũng là vì lợi ích chính trị. Tuy nhiên cách thực đạt được của mỗi quốc gia, mỗi
chủ thể để đạt được mục đích đó thì lại khác nhau, họ có thể dùng cách này hay
cách khác miễn là có thể đạt được mục đích mà mình đề ra nhằm có lợi cho mình.
Trong chiến tranh Việt nam, nếu nhìn một cách đơn thuần thì ta có thể thấy rằng
Liên Xô và Trung Quốc là những nước Xã hội Chủ nghĩa anh em đã giúp đỡ Việt
Nam tận tình trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, tuy nhiên, nếu ta xét trên
một bình diện rộng hơn, đứng trên một cơ sở lý luận thực tiễn thì ta có thể thấy
rằng không đơn thuần chỉ là như vậy. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam hao người
tốn của này thì mục đích và lợi ích của những nước lớn trên nhắm tới và phải đạt
được là gì. Đối với Liên Xô và Trung Quốc, việc giúp đỡ Việt Nam cũng nằm

trong một sự tính toán, cũng giống như hiệp định Giơ-ne-vơ. Việt Nam bị đem như
là một sự chia sẽ quyền lực trên bàn cờ chính trị quốc tế, Việt Nam được xem như
là một địa bàn chiến lược cho sự vươn dài và ảnh hưởng của các nước lớn, chính vì
thế trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam từng bước đi, nước bước của các nước
đối với Việt Nam đều được tính toán cẩn thận. Một điều dễ hiểu là các nước lớn
này không làm những việc không công, không thể có chuyện họ đem tiền tài và
của cải của họ sang một nước cách họ hàng ngàn cây số chỉ để dân tộc đó gây
chiến cho tiêu hao bớt đi, như thế thì chẳng khác nào một hành động “ném tiền qua
cửa sổ”. Tuy nhiên, trong một cuộc chơi thì sẽ phải có kẻ thắng người thua. Nhưng
tại cuộc chiến tranh Việt Nam này cả người thắng lẫn kẻ thua trong “cuộc chơi”
này đều bị tổn thất. Rất rõ ràng, Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ đổ rất nhiều tiền vào
cuộc chiến tranh Việt nam, nhưng kết quả họ thu được lại là gì? Mỹ đã phải rút đi
trong đau đớn và một vết nhơ trong lịch sử nước Mỹ suốt 200 năm, thất bại trên
chiến trường Việt Nam, với hàng chục ngàn lính Mỹ tử trận, hàng tỷ dollar ra đi.
Đối với Liên Xô và Trung Quốc cũng vậy, việc họ phải đổ tiền vào Việt Dam, giúp
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thắng trong cuộc chiến cũng khiến họ bị tổn thất đi
phần nào. Tuy nhiên, về một mặt nào đó họ cũng tạm thời thành công khi đã duy trì
được tầm ảnh hưởng của mình đối với Việt Nam cho dù ít hay nhiều.
Một điều nữa cần phải rút ra đó là, cách ứng xử của một nước nhỏ trong mối
quan hệ song phương. Việt Nam từ xưa là một nước nhỏ và hiện nay vẫn là một
nước nhỏ. Thế thì một nước cách xử sự của một nước nhỏ ra sao trong các mối
quan hệ song phương với các nước lớn. Đối với mối quan hệ song phương Việt
Nam và Liên Xô thì Việt Nam luôn trong tư thế của một nước nhỏ quan hệ với một
nước lớn. Tất nhiên trong mối quan hệ giữa nước nhỏ và một nước lớn thì khó có
thể có một quan hệ cân bằng và ngang hàng, Việt Nam vẫn phải nhận viện trợ từ
Liên Xô, và trong một số thời điểm còn phải nhượng bộ và chấp nhận yêu cầu của
Liên Xô đề ra, nhưng việc chấp nhận và nhượng bộ đó cũng đem lại về những
nguồn lợi cần thiết cho mình. Tuy nhiên, trong cách xử sự đối với một nước lớn và
một nước bé thì Việt Nam vẫn luôn giữ được cho mình tiếng nói riêng, không hoàn

×