Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Tiểu luận sự lãnh đạo đúng đắn của đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.91 KB, 37 trang )

Tiểu

Tiểu luận SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG
ĐẦU BẢO ĐẢM THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM


2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang

I.

SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG
ĐẦU BẢO ĐẢM THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

5

1.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - chấm dứt sự khủng hoảng bế
tắc về đường lối cứu nước

5

2.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mở ra kỷ nguyên mới - độc


lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

5

3.

Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đất nước bước sang
kỷ nguyên mới hòa bình, thống nhất, q độ lên chủ nghĩa xã hội

6

4.

Cơng cuộc đổi mới đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
từng bước xác lập vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế

6

II.

NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN
CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH THẮNG
LỢI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

8

1.


Xác định đúng nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng, chú trọng cơng
tác lý luận, thường xun nâng cao trình độ lý luận của Đảng
trong quá trình lãnh đạo cách mạng

8

1.1

Xác định đúng đắn và không ngừng bổ sung, phát triển nền tảng
tư tưởng lý luận của Đảng

8

1.2

Chú trọng công tác lý luận, thường xuyên nâng cao trình độ lý
luận của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng

11

2

Trong mọi hồn cảnh lịch sử, phải hoạch định được đường lối
chính trị đúng đắn và xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng

12

2.1

Xác định đường lối chính trị đúng đắn, độc lập, sáng tạo, đáp ứng

nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử

12

2.2

Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, khơng chỉ có đường lối
chính trị đúng mà Đảng cần phải có bản lĩnh chính trị vững vàng

14

2.3

Xây dựng hệ thống tổ chức đảng vững mạnh và đội ngũ cán bộ,
đảng viên trung kiên, luôn đổi mới và chỉnh đốn Đảng về mọi
mặt

16


2.3.1 Xây dựng hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở vững mạnh

16

2.3.2

Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, luôn đổi mới và
chỉnh đốn Đảng là quy luật phát triển của Đảng

17


2.4

Kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc và
truyền thống vẻ vang của Đảng

18

III.

TRÁCH NHIỆM CỦA QUÂN ĐỘI TRONG ĐẤU TRANH BẢO
VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

21

KẾT LUẬN

28

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

29


MỞ ĐẦU

Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là
đội tiên phong cách mạng, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và
dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó
khăn gian khổ và hy sinh, giành nhiều thắng lợi có ý nghĩa chiến lược và mang

tính thời đại, làm cho đất nước, xã hội và con người Việt Nam ngày càng đổi
mới sâu sắc. Lịch sử của Đảng là một pho lịch sử bằng vàng. Hồ Chí Minh nói:
"Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói
rằng Đảng ta thật là vĩ đại!"
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Tiếp
nối truyền thống lịch sử hào hùng của cha ông, suốt hơn 9 thập kỷ qua kể từ
ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhìn lại những chặng đường dài thăng trầm
của lịch sử, nhân dân ta đã đúc kết, rút ra một chân lý: Thắng lợi của cách mạng
Việt Nam do nhiều yếu tố tạo thành, song nhân tố chủ yếu, quan trọng và quyết
định nhất chính là vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là chân lý mang tầm
thời đại, là sự khẳng định cả về phương diện lịch sử và lý luận.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định “Những thành tựu của 35 năm thực hiện
công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1991, đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của
Đảng là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết
tinh sáng tạo, của Đảng và nhân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời
đại; khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam”1.

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb quốc gia sự thật, Tập I, H2021, tr104.


NỘI DUNG
I. SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU
ĐẢM BẢO THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM


1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - chấm dứt sự khủng hoảng bế tắc
về đường lối cứu nước
Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 03/02/1930 đã chấm dứt sự
khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo phong trào yêu nước
Việt Nam diễn ra từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực sự trở thành người
lãnh đạo, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách,
từng bước đi lên, làm nên những kỳ tích, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch
sử dân tộc Việt Nam, đáp ứng khát vọng của nhân dân Việt Nam và phù hợp với
xu thế phát triển của lịch sử.
Từ khi ra đời cho đến nay, các cương lĩnh, đường lối của Đảng đã phản ánh
được ý chí, nguyện vọng và những lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân
lao động và của cả dân tộc, đã không ngừng đưa cách mạng Việt Nam theo mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đó của cách mạng
Việt Nam đã gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân bằng cả chiều dài lịch sử,
khơng có lực lượng chính trị nào thay thế được.
2. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mở ra kỷ nguyên mới - độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Chỉ 15 năm sau khi đi theo đường lối cách mạng của Đảng, dân tộc Việt
Nam đã làm nên kỳ tích trong Cách mạng tháng Tám năm 1945. Thắng lợi vĩ đại
ấy đã khẳng định trên thực tế đường lối đúng đắn, năng lực và hiệu quả lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, là một mốc son chói lọi trên con đường cách
mạng do Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã hoạch định từ đầu năm 1930 và là
nền tảng vững chắc cho dân tộc Việt Nam tiếp nối trên con đường độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.


3. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hoàn thành

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đất nước bước sang kỷ ngun mới
hịa bình, thống nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sau Hiệp định Giơnevơ, với mưu đồ nhằm biến miền Nam Việt Nam thành
“con đê” ngăn chặn “làn sóng đỏ” - chủ nghĩa xã hội sang Đông Nam Á, đế quốc
Mỹ từng bước can thiệp và tiến hành xâm lược miền Nam, chia cắt đất nước,
phá hoại cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân cả nước đã đồng tâm hiệp lực, hướng
về mục tiêu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975) là thành quả vĩ
đại nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo. Trải qua 21 năm chiến đấu, nhân dân Việt Nam đã đánh thắng cuộc
chiến tranh xâm lược kiểu mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hồn tồn miền
Nam, kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc,
chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân
trên đất nước, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trên cả nước, non sông thu về một mối.
4. Công cuộc đổi mới đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, từng bước xác
lập vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
Nhìn lại 35 năm thực hiện cơng cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường
lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với
những năm trước đổi mới. Quy mơ, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống
nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. “Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”2. Đây là
niềm tự
2


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb quốc gia sự thật, Tập I, H2021, tr104.


hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con
đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “Những thành tựu của 35 năm
thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đặc biệt, trong 10 năm thực
hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định đường lối
đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế
phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh tình
hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh của Đảng tiếp tục
là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đồn kết
tồn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh"3.
Tuy nhiên, trong 92 năm qua, trên thực tế, quá trình lãnh đạo cách mạng
dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng có lúc cũng mắc phải sai
lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều,
chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, trong đó nổi bật là một số vấn
đề: Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số nghị quyết của Đảng còn chậm; tổ chức
thực hiện vẫn là khâu yếu. Đặc biệt Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá: Việc
lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt và thực hiện một số nghị quyết còn chậm,
chưa quyết liệt, chưa hiệu quả. Thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số tổ chức đảng chưa nghiêm. Công tác tư
tưởng có nơi, có lúc chưa thực sự được cấp ủy coi trọng, chưa kịp thời, tính
thuyết phục chưa cao. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiến chưa được

quan tâm đúng mức. Công tác thông tin tuyên truyền về một số chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước chưa phong phú, thường
xuyên. Cơng tác tư tưởng cịn


3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb quốc gia sự thật, Tập I, H2021, tr104, 105.


có mặt hạn chế, thiếu kịp thời. Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi cịn bị động, thiếu sắc
bén, tính chiến đấu chưa cao... Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong,
gương mẫu, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện "tự
diễn biến", "tự chuyển hố". Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi cịn hình thức.
Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của người đứng đầu chưa tạo được sự
lan toả sâu rộng. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở
đảng còn thấp, chưa được củng cố kịp thời. Công tác kiểm tra ở một số nơi chưa
thường xuyên, quyết liệt, thiếu trọng tâm, trọng điểm; công tác giám sát còn hẹp
về phạm vi, đối tượng, kết quả chưa thực chất. Phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị cịn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng.
Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội ở một số nơi chưa theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ của
tình hình mới. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy
đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao”4.
Qua các thời kỳ lịch sử, Đảng ta đã nghiêm túc và kịp thời tự phê bình, sửa
chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để củng cố niềm tin đối với nhân dân,
tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng phát triển đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ từng thời
kỳ nhất định.
II. NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA

ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CÁCH MẠNG
VIỆT NAM

1. Xác định đúng nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng, chú trọng công
tác lý luận, thường xuyên nâng cao trình độ lý luận của Đảng trong quá
trình lãnh đạo cách mạng
1.1. Xác định đúng đắn và không ngừng bổ sung, phát triển nền tảng tư
tưởng lý luận của Đảng

4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb quốc gia sự thật, Tập I, H2021, tr91.


Nhận thức sâu sắc những luận điểm cơ bản của V.I Lênin về xây dựng
Đảng kiểu mới của giai cấp vơ sản, đặc biệt vai trị của lý luận cách mạng:
“Khơng có lý luận cách mạng thì cũng khơng thể có phong trào cách mạng…”;
“Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm
tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”5, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa,
cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”6. Người đã xác
định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là hệ tư tưởng lý luận của giai cấp cơng
nhân mà cịn là vũ khí giải phóng gia cấp cơng nhân, giải phóng dân tộc, giải
phóng toàn xã hội. Trên nền tảng tư tưởng lý luận mang bản chất cách mạng và
khoa học, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo vào đặc điểm thực
tiễn Việt Nam, tập hợp đông đảo các giai tầng yêu nước Việt Nam, kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sự đồng thuận cả nước để làm nên
những chiến công oanh liệt trong 15 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, trong 30
năm kháng chiến trường kỳ để có được một Việt Nam hịa bình, thống nhất,
cùng quá độ đi lên chủ ngĩa xã hội sau năm 1975.
Bước vào những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng trầm trọng, xu hướng đa
nguyên, đa đảng xuất hiện. Ở một số nước xuất hiện vấn đề xét lại chủ nghĩa
Mác
- Lênin… Trong khi đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế đẩy
mạnh chiến lược “Diễn biến hịa bình”, tấn cơng vào nền tảng tư tưởng lý luận
của các đảng cộng sản. Trước tình hình đó, Đại hội VI của Đảng chỉ rõ: “Muốn
đổi mới tư duy, Đảng phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ

5
6

Tác phẩm “Làm gì” của Lê-nin, phần 3. Tầm quan trọng của lý luận cách mạng.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.


nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của
chủ tịch Hồ Chí Minh”7… Trên tinh thần đó, Đại hội VII (1991) của Đảng tiếp
tục khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng” 8. Việc xác lập tư tưởng
Hồ Chí Minh đã thúc đẩy mạnh mẽ tư duy sáng tạo trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện, đặc điểm Việt Nam, đánh dấu một bước tiến
mới về đổi mới nhận thức và tư duy lý luận của Đảng.
Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định
đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội

chủ nghĩa. Đây là quan điểm cơ bản, nền tảng, xuất phát điểm của bốn quan
điểm còn lại. Bởi lẽ, nếu chúng ta không kiên định và vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ khơng có nền tảng
tư tưởng đúng đắn để xác định mục tiêu, con đường, biện pháp phát triển của
dân tộc trong năm năm tới. Thực tế lịch sử phát triển của nhân loại cũng như của
Việt Nam cho thấy, nếu xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì
cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng, chính sách phát triển của đất nước sẽ
chệch hướng, không phản ánh đúng quy luật vận động khách quan của lịch sử
phát triển của nhân loại, khó phù hợp thực tiễn đất nước, cuối cùng sẽ mất
phương hướng. Tuy nhiên, tình hình thực tiễn hiện nay có nhiều đổi thay, khoa
học cơng nghệ phát triển nhanh; thực tiễn chính trị, xã hội thế giới biến đổi mau
lẹ. Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với thị trường thế giới... Tình hình
trên cũng như đổi mới đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi chúng ta phải biết vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều
kiện thực tiễn mới.
Thực tiễn cũng chỉ ra rằng, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải gắn liền với kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới của Đảng để
xây

7

Đảng Cộng sảng Việt Nam, Văn kiện Đại hội VI của Đảng, Nxb quốc gia, H1986.


8

Đảng Cộng sảng Việt Nam, Văn kiện Đại hội VII của Đảng, Nxb quốc gia, H1991.



dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm được độc
lập dân tộc một cách trọn vẹn, đầy đủ, triệt để. Thực tế lịch sử hiện đại cho thấy,
nếu không đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, kinh tế trước mắt có thể phát
triển, nhưng văn hóa, giáo dục, y tế, con người sẽ phải trả giá đắt. Cuối cùng con
người khơng được giải phóng triệt để, độc lập dân tộc cũng không bền vững.
Thực tế 35 năm đổi mới cho thấy, nhờ đường lối đổi mới toàn diện, đúng đắn
của Đảng mà toàn quân, toàn dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn rất có ý
nghĩa, “uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng
cao”9. “Từ một nước nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu, trình độ rất thấp, hầu như
khơng có tên trên bản đồ thế giới, ngày nay Việt Nam đã vươn lên trở thành một
nước có quy mơ dân số gần 100 triệu người, đang phát triển, có thu nhập trung
bình, có quan hệ với hầu hết các nước trên thế giới, tham gia hầu hết các tổ chức
quốc tế và là thành viên, đối tác tin cậy và có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế”10. Những thành tựu này chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn,
sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư
tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng, tiếp tục đẩy mạnh tồn diện, đồng
bộ cơng cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Do vậy, cùng với kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, chúng ta phải kiên định đường lối đổi mới của Đảng.
1.2. Chú trọng công tác lý luận, thường xuyên nâng cao trình độ lý luận
của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Từ khi mới thành lập và trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã ln
coi trọng nghiên cứu nâng cao trình độ lý luận, vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác -

9

TBT, CTN Nguyễn Phú Trọng: Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào

một giai đoạn phát triển mới, báo Nhân dân, ngày 1/9/ 2020; tr.2. 10 TBT,CTN Nguyễn Phú Trọng: Chuẩn bị và
tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới, báo Nhân dân,
ngày 1/9/ 2020; tr.2.


Lênin vào thực tiễn Việt Nam. Đảng ta chú trọng tổng kết thực tiễn để làm rõ
những vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam như: Lý luận về cách mạng giải
phóng dân tộc, về chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam; lý
luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đảng cũng chú trọng nâng cao trình độ học vấn của cán bộ, đảng viên,
nâng cao hiểu biết về khoa học lãnh đạo, quản lý tiếp cận những giá trị văn hóa
của dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại. Khơng có trình độ cao về lý luận
và trí tuệ thì khơng thể thực hiện vai trò lãnh đạo của đội tiền phong.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt trong cơng cuộc đổi mới,
Đảng ta luôn khẳng định giá trị khoa học của học thuyết Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, cũng đồng thời phải đẩy
mạnh đấu tranh phê phán chủ nghĩa cơ hội, xét lại, chống những quan điểm, tư
tưởng sai trái của các thế lực thù địch hòng phủ nhận thành quả cách mạng và
con đường phát triển đúng đắn của cách mạng và dân tộc Việt Nam. Đồng thời
phải kịp thời tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để đổi mới sáng tạo, chống bảo
thủ, trì trệ; đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện cơ hội chính trị.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã được trong công tác nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn, tích cực đổi mới, phát triển, vận dụng sáng tạo quan
điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể
của nước ta, nhất là trong thời kỳ hội nhập hiện nay, trước sự bùng nổ của cơng
nghệ thơng tin, thì Đại hội XIII cũng đánh giá chúng ta cịn có những hạn chế
nhất định, nhất là trong công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, ngăn
chặn thông tin xấu độc, thù địch có nơi, có lúc bị động, chưa nhạy bén, tính
chiến đấu chưa cao, việc nắm bắt dư luận, trước các sự kiện chính trị trọng đại
của dân tộc, đất nước của Đảng có thời điểm chưa kịp thời.

2. Trong mọi hoàn cảnh lịch sử, phải hoạch định được đường lối chính
trị đúng đắn và xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng
2.1. Xác định đường lối chính trị đúng đắn, độc lập, sáng tạo, đáp ứng
nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử


Thực tiễn cách mạng thế giới cũng như cách mạng Việt Nam đã chứng
minh rằng, khi nào chính đảng lãnh đạo sai lầm về đường lối, không những cách
mạng không thành cơng, mà cịn gây nên những tổn thất lớn đối với nhân dân,
đối với Đảng, đối với dân tộc. Đường lối chính trị đúng đắn có ý nghĩa quyết
định hiệu quả và chất lượng lãnh đạo của Đảng. Trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng đã coi trọng xây dựng cương lĩnh, đường lối chiến lược gắn
liền với rèn luyện bản lĩnh chính trị. Điều này được thể hiện ngay từ Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng trong Hội nghị thành lập Đảng (1930) cho đến trong
15 năm đấu tranh giai phóng dân tộc (1930 - 1945), trong kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945 - 1954), trong chặng đường 21 năm (1954 - 1975) kháng
chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam, leo thang đánh phá miền Bắc thì tất
cả những chặng đường cách mạng ấy Đảng ta luôn xác định đường lối cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
phù hợp với từng thời kỳ lịch sử.
Trong thời kỳ đổi mới (từ Đại hội VI đến Đại hội XIII), Đảng ta đã tập
trung nỗ lực để hoạch định đường lối chính trị đúng đắn, chỉ đạo đưa đường lối
đó vào thực tiễn cuộc sống.
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công
cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội của
Việt Nam ngày càng hồn thiện và từng bước hiện thực hóa”10.
Để xây dựng được đường lối chính trị đúng, trước hết chính đảng lãnh đạo
phải xuất phát từ nền tảng tư tưởng của Đảng - những nguyên lý cơ bản của học
thuyết cách mạng và khoa học-chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;

vận dụng sáng tạo vào đặc điểm thực tiễn của quốc gia - dân tộc trong từng giai
đoạn lịch sử. Đồng thời, đường lối đó phải phản ánh được nguyện vọng cơ bản,

10

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb chính trị quốc gia sự thật, tập I, H2021.tr103


chính đáng của đại đa số các giai tầng trong xã hội và phù hợp với xu thế phát
triển chung của khu vực và thế giới.
Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển. Công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh, cơ chế hoạt động, quản lý
từng bước đổi mới, hợp tác quốc tế được đẩy mạnh hơn đã được tiếp tục nêu bổ
sung, hoàn thiện trong văn kiện các Đại hội Đảng.
2.2. Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, khơng chỉ có đường lối
chính trị đúng mà Đảng cịn cần phải có bản lĩnh chính trị vững vàng
Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện trước hết là sự kiên định con đường
cách mạng, bằng nhiệt tình cách mạng và trình độ trí tuệ kiên trì thực hiện mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không bi quan, dao động trước những
khó khăn, thử thách, giữ vững niềm tin vào lý tưởng cách mạng, vào con đường
cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đó là sự kiên định
con đường giải phóng dân tộc phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết và trước hết, nhiệm vụ chống phong
kiến rải ra từng bước, phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc, thực hiện nhiệm vụ
cơ bản, trước mắt của cách mạng. Đó là quyết định vấn đề của từng quốc gia dân tộc phải giải quyết trong phạm vi quốc gia - dân tộc mình theo quyền tự
quyết của các dân tộc. Đó là quyết định đồng thời tiến hành hai chiến lược cách
mạng ở hai miền trong bối cảnh đất nước tạm thời bị chia cắt… Đặc biệt, trong bối
cảnh những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước sự khủng hoảng trầm
trọng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục

kiên định con đường cách mạng mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã
nêu: Đối với nước ta, khơng cịn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực
sự và tự do hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của
chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khốt từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng.
Như chúng ta đều biết, nhân dân Việt Nam đã trải qua một q trình đấu
tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ


và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ
quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần
"Khơng có gì q hơn độc lập, tự do".
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên
suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp
với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã
đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới
có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc
sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.
Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu
cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930,
trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương:
"Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo,
tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa". Vào những năm
cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một
mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa khơng cịn, phong trào xã hội chủ
nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng
Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm
xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ

nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”11.
Bản lĩnh chính trị của Đảng đó là quyết định lựa chọn con đường cách
mạng vô sản cho cách mạng Việt Nam trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường
lối cứu nước những năm 20 của thế kỷ XX; đó là những quyết sách chớp thời cơ
trong quá trình chuẩn bị và tiến hành Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng tháng
Tám năm
11

Bài viết của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam


1945; đó là quyết định ra “Thơng cáo giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương”
ngày 11/11/1945, thực chất là rút vào hoạt động bí mật để bảo vệ Đảng, tiếp tục
lãnh đạo cách mạng, củng cố chính quyền cách mạng còn non trẻ khi vận mệnh
của dân tộc Việt Nam “tình thế ngàn cân treo sợi tóc”.
Bản lĩnh chính trị của Đảng còn thể hiện ở sự dũng cảm thừa nhận sai lầm,
khuyết điểm và kiên quyết sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, thẳng thắn tự
phê bình và phê bình. Bản lĩnh chính trị của Đảng cịn là tinh thần đấu tranh để
bảo vệ lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán và bác bỏ những
quan điểm sai trái, thù địch.
Bản lĩnh chính trị chẳng những là cần thiết trong hoạch định đường lối,
chính sách mà cả trong lãnh đạo và tổ chức thực tiễn. Bản lĩnh chính trị trở
thành một nội dung quan trọng trong xây dựng Đảng về chính trị ở các thời kỳ
lịch sử trước đây và cũng đặt ra thường xuyên.
2.3. Xây dựng hệ thống tổ chức đảng vững mạnh và đội ngũ cán bộ,
đảng viên trung kiên, luôn đổi mới và chỉnh đốn Đảng về mọi mặt
2.3.1. Xây dựng hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở vững mạnh
Quán triệt tinh thần của V.I Lênin về sức mạnh của tổ chức, trải qua các
chặng đường cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng nhiệm vụ xây

dựng Đảng về tổ chức.
Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, dù Đảng phải hoạt động bí mật
dưới sự lùng sục, khủng bố gắt gao của chính quyền thực dân phong kiến phản
động, nhưng Đảng đã gây dựng được cơ sở cách mạng trong nhân dân, được
nhân dân sẵn sàng hy sinh tính mạng để che chở, bảo vệ Đảng. Hai lần địch
khủng bố, hệ thống tổ chức đảng bị tổn thất nặng nề (sau phong trào cách mạng
1930 - 1931) và sau khi thực dân Pháp phát xít hóa bộ máy chiến tranh (1939 1940), Đảng đã từng bước khôi phục lại hệ thống tổ chức đảng, tiếp tục lãnh đạo
phong trào dân tộc giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám 1945.
Từ khi trở thành Đảng cầm quyền, công tác xây dựng tổ chức đảng ngày
càng được quan tâm toàn diện trên mọi mặt. Đặc biệt bước vào thời kỳ đổi mới,


các đại hội của Đảng luôn nhấn mạnh những nội dung cơ bản trong xây dựng
Đảng về tổ chức, bao gồm: đổi mới tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ và đội ngũ
cán bộ và đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý; nâng
cao chất lượng đảng viên, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực; kiện toàn đổi
mới hoạt động và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở; nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; công tác xây dựng
Đảng về chính trị, đạo đức được đặc biệt chú trọng; xây dựng Đảng về tư tưởng
tiếp tục được tăng cường, tiến hành đồng bộ và có chuyển biến tích cực, góp
phần nâng cao nhận thức, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, củng
cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.
2.3.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, luôn đổi mới và
chỉnh đốn Đảng là quy luật phát triển của Đảng
Những thành quả vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong 92 năm qua gắn liền
với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự trưởng thành về mọi mặt của đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng đã chú trọng phát triển đội ngũ đảng viên cả
về số lượng và chất lượng. Về số lượng, chỉ tính từ thời điểm Đại hội VI (12/
1986), tồn Đảng có 1,9 triệu đảng viên; đến Đại hội XII (1/2016), Đảng đã có
hơn 4,5 triệu đảng viên; đến Đại hội XIII (1/2021), Đảng ta đã có hơn 5,2 triệu

đảng viên.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, trong q trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú trọng xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên vững mạnh toàn diện, để “thu phục” cho được đông đảo quần
chúng tin Đảng và theo Đảng. Đặc biệt trong công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn
thấm nhuần sâu sắc quan điểm công tác cán bộ là nhiệm vụ “then chốt” của cơng
tác xây dựng Đảng, có liên quan đến sự sống còn của Đảng và vận mệnh chế độ,
cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, vì vậy Đảng đã đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất
là cấp chiến lược và người đứng đầu thật sự có đức, có tài, có uy tín trong Đảng
và nhân dân, chú trọng nâng cao toàn diện chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên
về trình độ chun mơn, nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, năng lực lãnh đạo.


Công tác đánh giá cán bộ được đổi mới theo hướng: Liên tục, xuyên suốt, nhiều
chiều, theo tiêu



×