Đề bài tiểu luận 1
Ngày nay trong điều kiện quốc tế đã thay đổi có nhiều diễn biến phức tạp,
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong khi đó Đảng và Nhà nước ta đang đẩy
mạnh cơng cuộc đổi mới tồn diện của đất nước về Cơng nghiệp hóa – Hiện đại
hóa. Đứng trước thời cơ và thách thức mới trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam mỗi sinh viên có suy nghĩ và hành động gì để góp phần vào sự nghiệp
củng cố quốc phòng và An ninh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Bài làm:
Trong thời gian qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nắm bắt kịp thời
những thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, đồn kết, chung sức,
đồng lịng nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá tồn
diện trên các lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Đảng và Nhà nước đã thông qua nhiều nghị quyết, luật, nghị định để hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng trong quản lý, điều hành đất nước. Cơng tác
quốc phịng an ninh được thực hiện tốt đã giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ nền
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tập hợp được sức mạnh tổng hợp của
quần chúng nhân dân.
Những năm tới, hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song
tình hình thế giới diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo... Trong
nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày
càng được củng cố, nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách
thức. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngồi nước câu
kết với nhau tăng cường hoạt động “diễn biến hịa bình” với âm mưu, thủ đoạn
chống phá ngày càng cơng khai, trực diện hơn.
Chính vì vậy quan điểm về tăng cường quốc phịng, an ninh, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của cách mạng Việt Nam là
quan điểm nhất quán, được Đảng ta khẳng định sâu sắc và rõ nét trong Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng.
Xây dựng nền quốc phịng tồn dân, nền an ninh nhân dân mang tính tồn
dân, tồn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, từng bước hiện đại được nhận
thức sâu sắc và cụ thể hơn. Ðây là phương châm cơ bản của sự nghiệp xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân ở nước ta, vừa đáp ứng yêu cầu
đấu tranh trong thời bình, tạo sức mạnh ngăn chặn âm mưu gây chiến của kẻ thù,
vừa đáp ứng yêu cầu của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện
mới.
Bảo vệ Tổ quốc là quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân do đó mỗi cơng
dân phải có nghĩa vụ và trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ quốc phịng an
ninh.
Trong tình hình mới, Đảng xác định mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu chung. Đồng thời bảo vệ
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững mơi trường hịa bình để phát
triển đất nước, phát triển kinh tế – xã hội.
Kinh tế phát triển dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, làm xuất hiện những
biểu hiện tiêu cực trong xã hội, các thế lực thù địch lợi dụng tình hình đó để dụ
dỗ, lơi kéo người dân. Chúng kích động người dân gây phức tạp về an ninh, trật
tự xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm ảnh hưởng đến việc xây dựng
thế trận quốc phịng tồn dân.
Nhiều cá nhân, tổ chức có cơ hội để làm giàu, cải thiện đời sống, việc này
có tác động nhất định đến tư tưởng, tình cảm của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ.
Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm
giàu bất chính, nhận hối lộ, tài sản bất hợp pháp.
Việc hợp tác đầu tư thương mại quốc tế cũng có nhiều tác động tiêu cực
tới quốc phịng, an ninh. Các thế lực thù địch, phản động lợi dụng con đường
hợp tác đầu tư, thương mại móc nối với các tổ chức phản động chống phá.
Chúng tìm cách mua chuộc cán bộ, công chức của ta để lấy các thơng tin
liên quan đến quốc phịng, an ninh nhằm phục vụ âm mưu lật đổ của chúng.
Chúng lợi dụng việc đầu tư vào các lĩnh vực văn hóa, giáo dục để truyền bá văn
hóa độc hại vào Việt Nam.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc nên Đảng ta luôn coi vấn đề dân tộc, tôn
giáo là nhiệm vụ mang tính chiến lược của cách mạng gắn với sự phát triển của
đất nước. chính sách về cơng tác dân tộc, tơn giáo của Đảng và Chính phủ được
thể hiện trong các nghị quyết, nghị định đều khẳng định quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo. Nghiêm khắc trừng trị những kể lợi dụng vấn đề dân tộc, tơn giáo để
chia rẽ khối đại đồn kết dân tộc, chống phá cách mạng.
Lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo các thế lực thù địch vẫn ln tìm cách
chống phá cách mạng. Chúng thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình”, châm
ngịi cho những xung đột giữa các dân tộc, tơn giáo bùng nổ. Trước tình hình đó,
Đảng và Nhà nước ln có chính sách quan tâm đặc biệt đến vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn.
Đường lối đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã quy tụ mọi tầng lớp
nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, thành phần kinh tế đoàn kết, tạo được sự đoàn
kết trong nhân dân.
Là một công dân Việt Nam, đặc biệt bản thân là một cán bộ cơng chức
văn hóa Phường, Bản thân tôi nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của cơng tác
quốc phịng an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trước hết phải thực hiện tốt các nhiệm vụ trong các lĩnh vực: Văn hóa, thể
dục, thể thao, du lịch, thông tin, truyền thông, lao động, thương binh, xã hội, y
tế, giáo dục, tín ngưỡng, tơn giáo, dân tộc, gia đình, trẻ em và thanh niên; tổ
chức thực hiện việc xây dựng đời sống văn hóa ở cộng đồng dân cư và xây dựng
gia đình văn hóa trên địa bàn; thực hiện các nhiệm vụ thơng tin, truyền thơng về
tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương;
Giữ vững ổn định về tư tưởng chính trị, khơng để các thế lực thù địch có
cơ hội dụ dỗ, lơi kéo. Đấu tranh phịng ngừa, phát hiện những âm mưu, thủ đoạn
của cá thế lực chống phá.
Thường xun nâng cao trình độ chun mơn và bản lĩnh chính trị, kiên
định với đường lối xã hội chủ nghĩa, với lý tưởng của Đảng, với niềm tin của
nhân dân. Thường xuyên nâng cao hiểu biết, nhận thức về chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.
Đóng góp hết khả năng của mình vào cơng cuộc phát triển kinh tế, xây
dựng đất nước trong thời đại mới, hồn thành tốt nhiệm vụ của một cơng dân,
chấp hành nghiêm chỉnh quy định pháp luật của Đảng, Nhà nước.
Thường xuyên tuyên truyền và vận động nhân dân và người thân chấp
hành các quy định của pháp luật, không tham gia vào các tệ nạn xã hội, không
để kẻ xấu lợi dụng lơi kéo, làm suy thối tư tưởng chính trị. Phát hiện, tố cáo các
hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, làm nguy hại đến an ninh quốc gia và
trật tự an toàn xã hội.
Tăng cường đoàn kết trong nhân dân, truyên truyền, làm sâu sắc hơn nữa
mối quan hệ gắn bó giữa các dân tộc, tơn giáo, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân vững mạnh và thế trận an ninh nhan dân vững chắc.
Cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn diễn biến hịa bình của các thế lực thù
địch, kiên định về tư tưởng, lập trường, ngăn chặn q trình tự diễn biến, tự
chuyển hóa trong tư tưởng, lối sống.
Xây dựng ý chí tự lực, tự cường và lòng tự hào dân tộc, phát triển kinh tế
địa phương đi đối với giữ gìn văn hóa dân tộc và các giá trị truyền thống tốt đẹp.
Văn hóa khơng chỉ là nền tảng tinh thần, mục tiêu, động lực của sự phát
triển mà nguồn vốn văn hóa truyền thống và những giá trị tiếp biến hiện tại đang
là tài nguyên vô giá, là sức mạnh nội sinh, “sức mạnh mềm”, góp phần vào sự
nghiệp củng cố quốc phòng và Anh ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN, phát triển bền vững đất nước, xây dựng nước Việt Nam thịnh vượng,
hùng cường./.
Đề bài tiểu luận 2
Thời gian vừa qua đại dịch covid – 19 ho9anfh hành gây ra nhiều tổn thất
nặng nề về kinh tế và tính mạng nhân dân, trong khi đó chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch thông qua các trang mạng xã hội xuyên tạc, chống phá sự
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công cuộc chống dịch. Đứng trước sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mỗi sinh viên có suy nghĩ và hành động gì để góp
phần mang lại sự an toàn cho đất nước.!
Bài làm
Từ khi dịch COVID-19 xuất hiện tại Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta đã chủ động, tích cực triển khai có hiệu quả hàng loạt biện pháp
phòng, chống dịch. Trong cuộc chiến với dịch COVID-19, nhiều thơng tin chính
xác, tích cực đã góp phần nhân lên quyết tâm chống dịch, lan tỏa những thông
điệp nhân văn, tăng cường sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân tộc cùng
chung sức, đồng lịng phịng, chống dịch COVID-19.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có khơng ít tin giả, tin sai sự thật liên quan
đến dịch COVID-19 được lan truyền một cách cố ý, nhất là trên không gian
mạng. Thời gian gần đây, trong khi dịch COVID-19 liên tục có những diễn biến
phức tạp, khó lường, thì trên khơng gian mạng, tình trạng phát tán tin giả, sai sự
thật về tình hình dịch bệnh và cơng tác phịng, chống dịch COVID-19 lại có dấu
hiệu gia tăng.
Đặc biệt, tin giả liên quan đến dịch COVID-19 còn là những thơng tin sai
lệch về cơng tác phịng, chống dịch bệnh; xuyên tạc chủ trương, chính sách của
Đảng và biện pháp phịng, chống dịch của chính quyền các cấp.
Bên cạnh đó, cịn là hàng loạt thơng tin giả kết hợp với các luận điệu kích
động người dân nhằm gây khó khăn cho cơng tác phịng, chống dịch; những tin
giả núp dưới bóng những việc làm tích cực, nghĩa hiệp (khơng có thực) để định
hướng dư luận một cách tinh vi hoặc nhằm mục đích trục lợi cá nhân.
Rõ ràng, với cách thức biểu hiện, nội dung, tính chất khác nhau nhưng tin
giả liên quan đến dịch COVID-19 lan truyền trên mạng xã hội đã trở thành tác
nhân gây hoang mang, tâm lý bất ổn, hoảng loạn trong nhân dân; ảnh hưởng đến
niềm tin của nhân dân đối với các chủ trương, biện pháp phòng, chống dịch của
Đảng, Nhà nước. Sẽ càng nguy hiểm hơn, khi những tin giả này bị các đối tượng
chống đối, thù địch, phản động lợi dụng nhằm mục đích tuyên truyền, kích động
chống phá Nhà nước, phá hoại khối đại đồn kết dân tộc./.
Lợi dụng tình hình dịch bệnh, các thế lực thù địch, phản động trong và
ngồi nước, một số tổ chức phi chính phủ, báo đài quốc tế có xu hướng chống
Việt Nam (BBC, RFA, RFI, Chân trời mới…) đẩy mạnh hoạt động chống phá
trên không gian mạng.
Những thông tin này được nhiều người thiếu hiểu biết đăng tải hoặc chia
sẻ trên mạng xã hội, khiến lan truyền rất nhanh trên phạm vi rộng, gây hoang
mang dư luận, ảnh hưởng xấu đến ANQG và trật tự an toàn xã hội.
Muốn hạn chế nguy cơ gia tăng tin giả về dịch COVID-19, cần phải đảm
bảo sự thành công rõ ràng, kịp thời của các biện pháp phòng, chống đại dịch
đang được triển khai. Nếu những kết quả phịng, chống dịch và tình hình dịch
COVID-19 được kiểm sốt, có triển vọng tích cực thì các tin giả liên quan, cũng
như hệ quả tác động xã hội tiêu cực của nó sẽ có xu hướng giảm. Mỗi nhà báo
và cơ quan báo chí phải đảm bảo "vai trị mục tiêu kép", vừa là nhà báo, cơ quan
báo chí chuyên nghiệp tích cực sản xuất, đưa tin về các hoạt động phòng, chống
dịch COVID-19; vừa là những cá nhân, tổ chức đi đầu trong phòng, chống tin
giả liên quan đến dịch COVID-19. Trong đó, đặc biệt là đảm bảo năng lực, trách
nhiệm và tính hiệu quả của nhà báo, cơ quan báo chí trong kiểm chứng nguồn
tin của hoạt động báo chí. Nhà báo và cơ quan báo chí khơng chỉ là người phát
hiện ra thơng tin mà cịn phải có trách nhiệm thẩm định, kiểm chứng và giải
thích thơng tin. Phát huy vai trị chủ động, tiên phong, dẫn dắt, định hướng của
báo chí chính thống, bảo đảm chính xác, kịp thời, góp phần ngăn chặn tin giả.
Cần tăng cường tính cơng khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan
chức năng có thẩm quyền, các chuyên gia có uy tín cung cấp thơng tin kịp thời,
đầy đủ về tình hình dịch bệnh, và phịng chống dịch COVID-19 trên các phương
tiện truyền thông đại chúng; và đảm bảo mọi người dân đều có cơ hội được tiếp
cận. Tăng cường thực hiện chính sách "truyền thơng an dân" trên các loại hình
truyền thông hướng đến mục tiêu: mọi người dân đều có hiểu biết cơ bản về dịch
bệnh; mọi người dân đều có thái độ bình tĩnh và n tâm về các biện pháp
phòng, chống dịch; mọi người dân đều chủ động tuân thủ, ủng hộ các biện pháp
phòng, chống dịch; mọi người dân tích cực chấp hành các quy định liên quan
đến phòng, chống dịch COVID-19 của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đồng thời,
các thông điệp về truyền thông cần thống nhất, dễ hiểu để mọi giai tầng xã hội
đều nhận thấy rõ chủ trương, lộ trình của các biện pháp và mục tiêu phòng,
chống dịch COVID-19 của Đảng và Nhà nước dựa trên bằng chứng: "Biết mình
đang ở đâu, khó khăn gì, cần phải làm gì, những bước thực hiện tiếp theo là gì,
các mục tiêu và triển vọng trung và dài hạn".
Để giành thắng lợi trong cuộc chiến chống tin giả về dịch bệnh, không thể
bỏ qua truyền thông xã hội. Bên cạnh những tác động tiêu cực trong việc lan
truyền tin giả về dịch COVID-19, truyền thơng xã hội cũng đang đóng một vai
trị khơng thể thay thế trong việc lan tỏa hiệu ứng thông tin thật, thơng tin chính
thống kịp thời đến các nhóm xã hội khác nhau. Thực tế cho thấy, các mạng xã
hội đang chung tay với cơ quan quản lý Nhà nước cập nhật thông tin rõ nguồn
gốc, từ cơ quan chức năng, góp phần đẩy lùi tin giả. Khơng chỉ là kênh cung cấp
thơng tin, truyền thơng xã hội cịn được sử dụng để lan truyền những thông điệp
ý nghĩa đến cộng đồng hay lên án những hành vi sai trái trong q trình phịng,
chống dịch. Hệ thống báo chí chính thống, Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng,
chống dịch COVID-19 của Chính phủ, Bộ Y tế, Bộ Thơng tin và Truyền
thông… đã sử dụng truyền thông xã hội như một công cụ đắc lực để truyền tải
các thông điệp cần thiết về phịng, chống dịch trong tồn xã hội. Bên cạnh đó,
các cơ quan chức năng của Việt Nam cần phải tích cực kiểm sốt thơng tin sai sự
thật, như: xoá bỏ tin bịa đặt, dán nhãn tin khả nghi, treo/ngưng/khóa các tài
khoản chuyên tung tin thất thiệt, dùng thuật toán để giúp người dùng tăng tiếp
xúc với các nguồn tin chính thống đáng tin cậy về tình hình đại dịch và phòng,
chống dịch COVID-19 trên các mạng xã hội (Facebook, Twitter, YouTube…).
Cần xác định ý thức, năng lực và trách nhiệm xã hội của người tiếp cận với tin
giả là yếu tố quyết định nhất cho sự bền vững của việc kiểm soát và giảm thiểu
tác hại xã hội của tin giả.
Bản thân là một cán bộ công chức văn hóa Phường, thực hiện nhiệm vụ
trong các lĩnh vực: Văn hóa, thể dục, thể thao, du lịch, thơng tin, truyền thông,
lao động, ... tôi luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt cơng việc của
mình:
Tun truyền, vận động người thân và Nhân dân nơi cư trú nâng cao ý
thức tự bảo vệ mình, bảo vệ cộng đồng; hạn chế tụ tập đơng người; bình tĩnh
trước tình hình dịch bệnh; khơng nghe theo cũng như phát tán các thông tin chưa
được kiểm chứng, thông tin tiêu cực về dịch bệnh COVID-19.
Tự giác trong việc phòng ngừa dịch bệnh cho bản thân và mọi người xung
quanh. Tránh đưa tay lên mắt, mũi, miệng. Che miệng và mũi khi ho hoặc hắt
hơi bằng khăn giấy, khăn vải, khuỷu tay áo.
Tăng cường vận động, rèn luyện thể lực, dinh dưỡng hợp lý, xây dựng lối
sống lành mạnh.
Nâng cao ý thức trách nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Thường
xuyên nắm bắt các chủ trương, chính sách về phịng, chống dịch COVID-19 của
Đảng, Nhà nước. Thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia, Bộ Y tế và của Thường trực Tỉnh
ủy, Chủ tịch UBND tỉnh về công tác phịng, chống dịch.
Cung cấp thơng tin đảm bảo “Kịp thời - Minh bạch - Chính xác và Tin
cậy” bằng các lực lượng, phương tiện, sử dụng triệt để các hình thức tạo ra chiến
dịch truyền thơng để nhân dân nhận thấy quyết tâm “chống dịch như chống
giặc” của Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị cùng
tham gia phịng, chống dịch bệnh. Đưa thơng tin chính thống, chính xác tạo một
dịng chảy chủ đạo của truyền thơng trong phịng chống đại dịch Covid-19 và
tạo được niềm tin của người dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của
Chính phủ, sự vào cuộc của chính quyền địa phương, các cấp, các ngành, các lực
lượng. Đồng thời, khẳng định các giải pháp chống dịch của chúng ta đã và luôn
được thế giới đánh giá cao, hiệu quả.
Tuyên truyền cho nhân dân nhận thức rõ những nỗ lực, thành tựu của đất
nước trong phòng, chống đại dịch. Với quan điểm thực hiện “mục tiêu kép” vừa
chống dịch hiệu quả vừa phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội cho nhân
dân, Chính phủ đã chủ động bình ổn giá thị trường, ngăn chặn, phát hiện, xử lý
nghiêm hành vi đầu cơ, tự ý nâng giá bán nhu yếu phẩm. Quản lý chặt chẽ hoạt
động xuất, nhập cảnh; siết chặt cách ly những người đi, về từ vùng dịch. Công
tác tuyên truyền người dân nâng cao ý thức phịng ngừa dịch bệnh được tăng
cường với nhiều hình thức đa dạng, phong phú.
Đại dịch Covid-19 bùng phát trở lại, diễn biến phức tạp là cơ hội để kẻ
xấu lợi dụng, tăng cường chống phá. Chính vì vậy, là cơng dân có trách nhiệm,
chúng ta cần phải tỉnh táo, biết “gạn đục khơi trong”, luôn lạc quan, tin tưởng
vào cơng tác phịng, chống dịch bệnh của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các
ngành, địa phương. Chỉ có đồn kết, chung sức, đồng lòng, chúng ta mới vững
vàng trước mọi khó khăn, sớm chiến thắng trong cuộc chiến với đại dịch Covid19./.
Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19, vai trò tiền phong của
cán bộ, đảng viên một lần nữa được khẳng định. Mỗi cán bộ, đảng viên dù ở vị
trí cơng tác nào, cần phải nêu cao tinh thần “chống dịch như chống giặc”, bảo vệ
mình, bảo vệ người thân và góp phần mang lại sự an tồn cho đất nước ./.
BÀI TIỂU LUẬN 3
Theo Anh (chị) nếu đất nước Việt Nam đứng trước nguy cơ về một cuộc
chiến tranh xâm lược mới của Chủ nghĩa Đế quốc và các thế lực thù địch từ bên
ngoài. Với khả năng chiến đấu của Quân đội ta nói riêng và Dân tộc Việt Nam
nói chung, bằng lý luận thực tiễn và truyền thống lịch sử dân tộc anh (chị) hãy
chứng minh quan điểm của mình về kết quả của cuộc chiến đó?.
Trả lời
Nền quốc phòng – an ninh của nước ta dưới lá cờ vinh quang của Tổ quốc
đã có những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong suốt chiều dài lịch sử nền quốc phòng – an ninh đã thực hiện nhiệm vụ
cách mạng to lớn cho dân tộc, đã thắng lợi trong công cuộc đánh đuổi quân xâm
lược, góp phần giữ vững nền an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt
trong công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền quốc phịng - an
ninh có vai trị to lớn trong việc giữ vững ổn định nền chính trị, phịng chống các
thế lực thù địch trong và ngồi nước.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nịng cốt có trách
nhiệm trong việc tăng cường quốc phịng, giữ vững an ninh.
Trong cơng cuộc đổi mới, đi đơi với mài sắc ý chí chiến đấu bảo vệ vững
chắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, Quân đội Việt Nam còn là lực lượng nòng
cốt trong tham gia phát triển kinh tế - xã hội, ln ln có mặt ở những nơi trọng
điểm, những nơi gian khổ, khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo để
giúp đỡ nhân dân, cùng với nhân dân chống giặc dốt, giặc lũ, giặc đói... làm trịn
chức năng của đội qn chiến đấu, đội quân công tác, đội quân sản xuất. “Quân
đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do
của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, đó là truyền thống rực rỡ nhất và
cũng là sự đúc kết quý giá, cốt tử nhất trong xây dựng Quân đội nhân dân, xây
dựng nền quốc phịng tồn dân. Đồng thời đó cũng là hệ quả của tình qn dân
đồn kết, gắn bó, của đội qn hết lịng vì nhân dân, được nhân dân ni dưỡng,
đùm bọc. Và đó cũng chính là sức mạnh thần kỳ Việt Nam, sức mạnh của một
dân tộc mà quân đội và nhân dân là một. Quân đội nhân dân Việt Nam là lực
lượng chính trị tin cậy, lực lượng vũ trang sắc bén, lực lượng chiến đấu trung
thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Để quân đội vững mạnh về mọi mặt, đủ
sức làm nịng cốt cho tồn dân thực hiện thắng lợi những yêu cầu, nhiệm vụ của
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất thiết phải quan tâm xây
dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt, mà trước hết vững mạnh về chính trị tư
tưởng. Cần cảnh giác với những luận điểm về “quân đội phi giai cấp”, “phi
chính trị hóa quân đội”, chia rẽ Đảng với quân đội, quân đội với nhân dân. Quân
đội phải nắm vững mục tiêu chiến đấu, kiên quyết bảo vệ đường lối quan điểm
của Đảng, không dao động, ngả nghiêng trước những diễn biến phức tạp của
tình hình, nhạy bén, sắc sảo và kiên quyết đấu tranh làm thất bại chiến lược
“diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch. Với một quân đội “tinh nhuệ” về
chính trị, mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch đều sẽ bị đập tan. Non
sơng gấm vóc Việt Nam sẽ mãi mãi trường tồn trong độc lập tự do. Những thách
thức mới, nhiệm vụ mới đang đặt ra yêu cầu vừa cấp thiết, vừa cơ bản, nhưng
cũng rất khẩn trương, đòi hỏi Quân đội phải có bước tiến mạnh mẽ về chất
lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu và khả năng sẵn sàng chiến đấu nhằm bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân;
bảo vệ sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ thực tiễn 35 năm đổi mới và trong nhiệm kỳ Đại hội XII, đứng trước
tình hình thế giới, khu vực liên tục có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp,
khó lường, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương
(QUTƯ), Bộ Quốc phòng (BQP), qua 5 năm thực hiện quan điểm BVTQ “từ
sớm, từ xa”, chúng ta đã đạt được những kết quả quan trọng, đạt được mục tiêu
bao trùm là “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để
phát triển đất nước”.
Đạt được mục tiêu nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó vấn đề cơ bản
là quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, QUTƯ, BQP, sự vào cuộc
của hệ thống chính trị và nhân dân, trong đó LLVT là nòng cốt. Nhiệm kỳ qua,
cũng khẳng định tư duy BVTQ của Đảng đã có những bước phát triển quan
trọng. Với việc chỉ đạo xây dựng và ban hành hệ thống các chiến lược chuyên
ngành về quân sự, quốc phòng(3), bổ sung và ban hành một số Luật về Biên
phòng Việt Nam, dự bị động viên, Nghị quyết về tham gia lực lượng gìn giữ hịa
bình Liên hợp quốc và định hướng xây dựng Quân đội nhân dân, Sách trắng
Quốc phòng Việt Nam... cùng với Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX, khóa XI)
đã tạo nên chỉnh thể thống nhất, tồn diện Chiến lược BVTQ cả trên bình diện lý
luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới.
Trong tổ chức thực hiện, QUTƯ, BQP đã có những bước đột phá quan
trọng, chỉ đạo công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược; cơng tác đối
ngoại quốc phịng, xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng tồn
dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; trong xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh,
thành phố; chuẩn bị LLVT, xây dựng lực lượng, tiềm lực và thế trận quốc phòng,
xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, chú trọng những địa bàn có
tính chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo và trên không gian
mạng... Tất cả những vấn đề đó đã khẳng định tinh thần chủ động để ngăn ngừa
các nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ vững chắc Tổ quốc "từ sớm, từ xa".
BÀI TIỂU LUẬN 4
Ngày nay với sự phát triển của nền Khoa học – Kỹ thuật và Công nghệ
điện tử hiện đại trên thế giới được ứng dụng vào các cuộc chiến tranh Qn sự
với tính chất, mức độ khó lường, cực kì nguy hiểm và khốc liệt. Vậy mỗi sinh
viên chúng ta nhận thức vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của súng Tiểu liên AK
đối với người lính trong chiến đấu như thế nào để dành thắng lợi trên chiến
trường? Liên hệ minh chứng lịch sử qua các cuộc chiến tranh tại Việt Nam.
Trả lời
Súng Tiểu liên AK do Liên Xô sản xuất đầu tiên. AK viết tắt của Atomat
Kalashnicov (súng Kalashnicov tự động), do Kalasnicov chế tạo năm 1947,
còn gọi là súng AK 47, AK thường hay AK cỡ 7,62 mm..
Ngay từ sau những năm 1960, giai đoạn Kháng chiến chống Mỹ ở Miền
Nam Việt Nam diễn biến vô cùng ác liệt, Liên Xô đã viện trợ cho ta những khẩu
súng trường tự động AK-47 có sức mạnh tuyệt vời với độ công phá cao, mật độ
hỏa lực tốt và dễ dàng sử dụng. Có thể nói, mẫu súng này vượt trội hơn hẳn so
với những vũ khí cá nhân của kẻ thù của ta trên chiến trường lúc đó. Ảnh: Bộ
đội giải phóng với súng trường tấn công AK-47 trong kháng chiến chống Mỹ.
Tuy nhiên, theo số liệu mà William F. Abbott thu thập sau khi chiến tranh
kết thúc, chỉ có 31.8% trong số hơn 58.000 quân Mỹ tử trận là chết do súng
trường và các loại vũ khí cá nhân. Đây là một con số khiến nhiều người bất ngờ
về khả năng mà súng trường tấn cơng mang lại.
Do đó, dù cho thời điểm giữa những năm 1960, khi mà lính Mỹ và ngụy
quân Sài Gịn chưa được trang bị súng trường tấn cơng AR-15/M-1 trong khi
quân Giải phóng đã được trang bị súng trường AK-47 hiện đại nhưng quân ta
bước đầu vẫn chưa thể áp đảo được quân địch trên chiến trường.
Đối với cuộc chiến tranh Việt Nam, có thể nói rằng AK-47 và các biển thể
của nó đã góp phần quan trọng để đưa nghệ thuật chiến tranh nhân dân lên một
tầm cao mới. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, đối đầu với những đế quốc hùng
mạnh vượt trội về vũ khí trang bị, Việt Nam đã chọn cho mình một lối đánh phù
hợp nhất, đó là chiến thuật du kích với những phương châm nổi tiếng “đánh gần,
đánh đêm” “bám thắt lưng địch mà đánh”, “đánh nở hoa trong lòng địch”. Với
cách đánh này, ưu thế về vũ khí trang bị đế quốc Mỹ đều đã bị hạn chế rất nhiều.
Tuy nhiên, để làm được điều đó thì cần phải có một loại vũ khí cá nhân
phù hợp với lối đánh gần và AK-47 cũng như các biến thể của nó chính là một
miếng ghép vơ cùng hoàn hảo.
Với đế quốc Mỹ, phương châm tận dụng tối đa ưu thế về vũ khí trang bị
nên bộ binh chỉ giao chiến ở tầm xa và đóng vai trị kết thúc chiến trận sau
những màn hỏa lực phủ đầu. Do đó, tiêu chí của qn đội Mỹ là các vũ khí cá
nhân có tầm bắn xa, tốc độ bắn cao nhằm tạo ra uy lực nhờ màn đạn dày đặc.
Điển hình cho loại vũ khí này đó là AR-15 (phiên bản cải tiến là M-16) có
tốc độ bắn liên thanh là 750 phát/phút. Tốc độ bắn thực tế liên thanh: 150-200
phát/ phút, tốc độ bắn thực tế phát một: 45-65 phát/ phút. Tầm bắn hiệu quả:
200-300 m, tầm bắn xa nhất: 2653 m, tốc độ ban đầu của đầu đạn: 990 m/s. Loại
súng này cịn có quai xách tháo rời có thể dùng để gắn kính ngắm, dụng cụ chấm
mục tiêu bằng tia laser, kính nhìn ban đêm, đèn và súng phóng lựu.
Ngược lại, với chiến thuật du kích đánh gần, đánh đêm của Việt Nam, phù
hợp nhất là một loại vũ khí có độ tin cậy cao trong mọi điều kiện thời tiết, kết
cấu đơn giản, uy lực lớn và đạt hiệu quả cao trong các cự ly gần.
Súng AK-47 có tốc độ bắn liên thanh lý thuyết là 600 phát/phút, tốc độ
bắn liên thanh thực tế là 100 phát phút, tốc độ bắn phát một: 40 phát/phút. Tầm
bắn xa nhất 1.000 m, sơ tốc đầu đạn 710 m/s.
Tốc độ bắn và cự ly hoàn toàn thua kém so với AR-15, nhưng bù lại uy
lực của AK lại hồn tồn vượt trội do sử dụng đầu đạn kích thước lớn hơn.
AK có piston trích khí lớn, độ rơ giữa các bộ phận chuyển động lớn, điều
này làm cho độ chính xác trở nên kém hơn, độ tản mát của đạn cũng lớn hơn
nhưng đối với tầm gần và thực hiện bắn loạt, các nhược điểm này không phải là
điều quan trọng bởi xác suất và hiệu quả ở tầm gần của AK đạt mức độ rất cao,
gần như tuyệt đối. Các trận đánh theo lối du kích của Việt Nam thường được
lệnh bắt đầu nổ súng ở khoảng cách cực gần trên dưới 100 m.
Do cấu tạo không quá phức tạp, dễ tháo lắp, chỉ cần một số dụng cụ cơ khí
đơn giản (búa, kìm, đột, tống chốt, giũa, chổi con sâu), xạ thủ có thể bảo dưỡng
và sửa chữa nhỏ dễ dàng. Các bộ phận phụ: ốp che tay, báng, tay nắm bóp cò
đều làm bằng gỗ nên rất dễ tự chế tạo theo mẫu.
Súng có thể chịu được bùn, nước, cát bụi; rất phù hợp với những chiến
trường có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như Việt Nam. Thậm chí, khi vớt khỏi
bùn (thời gian ngâm bùn không quá lâu), chỉ cần tháo ra, dùng nước rửa sạch
các bộ phận, lắp ráp lại là có thể bắn được. Với chiến thuật du kích khơng có
điều kiện bảo vệ kỹ càng trước tác động của mơi trường cũng như thực hiện các
quy trình bảo dưỡng, sữa chữa bài bản thì AK thực sự là loại vũ khí phù hợp
nhất.
Rõ ràng với hai đặc điểm: 1. Uy lực lớn và hiệu quả cao trong tầm gần. 2.
Độ tin cậy cao, dễ sử dụng, sữa chữa trong mọi điều kiện môi trường khắc
nghiệt và giá thành rẻ đã khiến AK trở thành miếng ghép hoàn hảo của lối đánh
du kích Việt Nam. AK đã góp phần quan trọng trong sự thắng lợi của nghệ thuật
quân sự độc đáo này và Quân đội nhân dân Việt Nam cũng chính là người khiến
tên tuổi AK cũng như nhà sáng chế Mikhail Kalashnikov trở thành những huyền
thoại.
Ngày nay với sự phát triển của nền Khoa học – Kỹ thuật và Công nghệ
điện tử hiện đại trên thế giới được ứng dụng vào các cuộc chiến tranh Quân sự
với tính chất, mức độ khó lường, cực kì nguy hiểm và khốc liệt. Tuy nhiên, đối
với một nước có nền kinh tế và nguồn ngân sách quốc phòng như Việt Nam,
việc ưu tiên đầu tư hiện đại hóa, mua sắm khơng qn, xe tăng, tự hành hóa các
loại pháo,… trong thời gian gần đây mà chưa vội thay thế ồ ạt trang bị súng
trường cá nhân dẫu cho đã qua sử dụng nhiều năm cũng là lựa chọn hợp lý.
Súng trường bộ binh là loại vũ khí khơng thể thiếu của mỗi người lính
thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến đấu. Dẫu vậy, quân đội ta vẫn
còn đang biên chế đại trà loại súng AK-47 và các biến thể của nó do khối Xã hội
Chủ nghĩa anh em sản xuất vốn được viện trợ cho ta từ những năm Kháng chiến
chống Mỹ, mẫu súng này vốn đã có lịch sử ra đời đến nay đã hơn 70 năm.
Bản thân súng trường tấn công AK-47 và các biến thể của nó dù đã ra đời
hơn 70 năm nhưng vẫn đảm bảo được tính tin cậy cao, hoạt động tốt trong nhiều
loại môi trường phức tạp, dễ dàng bảo trì bảo dưỡng, thân thiện với người dùng
và có uy lực mạnh. Cộng với đó là nó vẫn cịn khả năng chiến đấu tốt cùng với
việc tỉ lệ tiêu diệt địch trên chiến trường không phải đến chủ yếu từ vũ khí cá
nhân. Do đó, qn đội ta vẫn tiếp tục sử dụng mẫu súng trường huyền thoại này.