Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

vấn đề ruộng đất ở đồng bằng sông cửu long từ 1996 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.18 KB, 42 trang )

1
MỞ ĐẦU
Vấn đề ruộng đất ở đồng bằng Sông Cửu Long có tầm quan trọng đặc biệt
trong mối liên hệ mật thiết với vấn đề nông dân, nông dân và sản xuất nông
nghiệp, là cơ sở của sự biến đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội ở nông thôn. Giải
quyết đúng quy luật vận động của vấn đề ruộng đất trong cách mạng dân tộc dân
chủ hay cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ có ý nghĩa chiến lược trong việc giải phóng
lực lượng sản xuất, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta đã giải quyết tốt yêu
cầu ruộng đất cho nông dân và để lại nhiều bài học kinh nghiệm hết sức quý báu.
Nhưng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa quá trình tiếp tục hoàn thành những
nhiệm vụ còn lại của cách mạng ruộng đất – chúng ta không kế thừa đúng kinh
nghiệm lịch sử trong việc giải quyết vấn đề ruộng đất nên đã dẫn đến nhiều tổn thất
cho đời sống kinh tế - xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long với mô hình tập thể hóa
nông nghiệp đã để lại hậu quả nặng nề: cơ cấu sở hữu ruộng đất của các nông hộ bị
xá trộn, biến động phức tạp, lực lượng sản xuất bị kìm hãm, sản xuất nông nghiệp
trì trệ, giảm sút.
Tuy nhiên, công cuộc “Đổi Mới” của Đảng sau Đại hội VI đã làm thay đổi
khá nhiều về vấn đề ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long mang tính tích cực. Đại
hội đã chủ trương mạnh dạn loại bỏ mô hình sản xuất cũ, xây dựng tiền đề cho mô
hình sản xuất mới đã tạo ra những động lực tích cực giải phóng lực lượng sản xuất,
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Kể từ thập niên 90 cho đến nay, vấn đề
ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long luôn là vấn đề lịch sử đặt ra cho đồng bằng
này trên đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việc xác định “Vấn đề ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long” thời kỳ hiện
đại sau giải phóng đến nay để nghiên cứu là đi vào một trong những vấn đề cốt lỗi
1
2
trong lịch sử phát triển của đồng bằng này, có ý nghĩa khoa học sâu xa, góp phần
vào việc làm sáng tỏ lịch sử phát triển kinh tế - xã hội của đồng bằng sông Cửu
Long và lịch sử Việt Nam hiện đại.


Đồng thời với vấn đề ruộng đất là việc kinh tế trang trại phát triển
mạnh mẽ ở đồng bằng sông Cửu Long từ giữa những năm 90 trở về sau, nhất là sau
khi luật Đất đai 1993 ra đời. Kinh tế trang trại đã đem lại những hiệu quả khá lớn
về kinh tế đối với nhân dân ở đồng bằng sông Cửu Long. Tuy là một nghề không
mới nhưng trước đó nó chỉ thực sự mới chỉ là manh mún, nó chỉ thực sử nở rộ khi
mà những chính sách về sở hữu đất đai của Đảng và Nhà nước trở lên thông thoáng
hơn và có phần nới lỏng hơn so với trước Đổi mới.
Cùng với việc tìm hiểu về vấn đề ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu
Long, vấn đề kinh tế trang trại ở đồng bằng thuộc dạng màu mỡ nhất cả nước cũng
là vấn đề đáng lưu tâm cho sự phát triển kinh tế của đồng bằng sông Cửu Long nói
riêng và Việt Nam nói chung.
2
3
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ 1996 ĐẾN NAY
1.1. Khái quát về tình hình ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long đến
Đại hội VI của Đảng
Xuất phát từ tình hình, đặc điểm kinh tế-xã hội ở Nam Bộ-đồng bằng
sông Cửu Long, trong những năm 1976-1978, Trung ương Đảng và Chính phủ đã
ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng nhằm giải quyết vấn đề nông thôn,
nông nghiệp và ruộng đất ở Nam Bộ.
Trên cơ sở thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về giải quyết vấn đề ruộng đất sau giải phóng, trong những năm 1976 – 1978,
các ấp ủy Đảng và chính quyền cơ sở ở nông thôn miền Nam nói chung, đồng bằng
sông Cửu Long nói riêng đã khẩn trương tiến hành điều chỉnh ruộng đất trong nội
bộ nông dân. Tỉnh Tiền Giang đã chia cấp 10.527ha cho 8.618 hộ không có ruộng
đất , bằng 18% số hộ nông dân trong tỉnh. Tỉnh Minh Hải đã chia cấp gần 3.000ha
cho 2.800 hộ và đã hoàn thành xóa bỏ bóc lột phong kiến. Còn ở xã Phú Mỹ,
huyện Mỹ Tú tỉnh Hậu Giang tính đến đầu năm 1977, Phú Mỹ tuyên bố giải quyết
hoàn thành vấn đề ruộng đất với 1.252ha thu hồi của địa chủ, 165ha mượn của phú

nông và trung nông để chia cấp cho 890 hộ nông dân nghèo thiếu ruộng và không
có ruộng theo mức bình quân 2 công/người. Tính chung đến cuối năm 1977, tỉnh
Hậu Giang đã rút được 91.050ha ruộng đất, bao gồm 88.352ha của địa chủ, 178ha
của ngụy quân, ngụy quyền và 2.578ha của phú nông – tư sản nông thôn và đem
chia cấp cho 31.363 hộ nông dân không có và thiếu đất sản xuất với diện tích
63.169ha. Ở Bến Tre thi hành quyết định 254-BCT, Chỉ thị 235-BBT, Quyết định
188 của Hội đồng bộ trưởng về việc “xóa bỏ triệt để những tàn tích chiếm hữu
ruộng đất và các hình thức bóc lột phong kiến thực dân”, Bến Tre đã đề ra kế
hoạch 05/1977, Chỉ thị 04/1978 để giải quyết vấn đề ruộng đất. Tính đến cuối năm
3
4
1978, Bến Tre đã tiến hành đo đạc ruộng đất, điều tra số địa chủ để rút bớt ruộng
đất.
Trên thực tế, các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long đang trong quá
trình thực hiện điều chỉnh ruộng đất. Việc điều chỉnh này diễn ra ở nhiều nơi có sự
nhanh, chậm khác nhau. Mặc dù vậy, quá trình điều chỉnh ruộng đất ở Nam Bộ nói
chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng cũng đạt được kết quả nhất định.
Tính đến 1978, đã có 10% số hộ nông dân không có hoặc thiếu đất sản xuất được
chia cấp 191.931ha. Tuy kết quả đạt được là như vậy nhưng giải quyết vấn đề
ruộng đất ở Nam Bộ gặp phải nhiều khó khăn.
Bước sang năm 1980, việc điều chỉnh ruộng đất ở nông thôn Nam Bộ
gặp nhiều khó khăn, trở ngại khó có thể kết thúc nhanh chóng theo đúng tiến độ mà
Trung ương đã đề ra. Ngay tại thời điểm đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V
của Đảng diễn ra và đề ra những chính sách nhằm khắc phục những khúc mắc khó
khăn còn đang đọng lại trong việc giải quyết vấn đề ruộng đất ở Nam Bộ. Từ sau
năm 1980, các địa phương Nam Bộ tiếp tục điều chỉnh ruộng đất, thực hiện
“nhường cơm sẻ áo”, giao khoán ruộng đất cho người lao động. Kết quả điều tra
của Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh ở 4 xã thuộc tỉnh Hậu
Giang, An Giang, Minh Hải vào tháng 4 và 5 năm 1981 cho thấy: có 30,6% số hộ
đã nhường bớt số ruộng đất của mình, trong đó có 15% số hộ trung nông lớp dưới

phải nhường bớt ruộng đất, chiếm ¼ số hộ trung nông lớp dưới. Tỉnh Tiền Giang,
năm 1982 điều chỉnh 1.675,20ha của 5.342 hộ có nhiều ruộng đất chia cấp cho
6.354 hộ ít ruộng đất, trong đó tập trung chủ yếu ở các huyện Cái Bè, Chợ Gạo,
Cai Lậy, Gò Công,…Tỉnh An Giang đã rút 16.000ha, bằng 5,8% diện tích đất nông
nghiệp của tỉnh để chia cho nông dân. Tỉnh Minh Hải đã chia 5.432ha cho 4.353
hộ. Đến giữa năm 1983, các tỉnh Nam Bộ đã chia cấp tổng cộng là 271.758ha cho
các hộ nông dân không có và thiếu ruộng đất.
4
5
Trên thực tế, trong nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, quá trình
điều chỉnh ruộng đất có những diện biến phức tạp. Sau đợt đầu, nhiều nơi dừng lại
không làm tiếp, có nơi mãi đến 1983 vẫn chưa điều chỉnh lần nào. Chủ trương xây
dựng tập đoàn sản xuất rồi mới điều chỉnh ruộng đất nhưng thực chất là trì hoãn
việc giải quyết vấn đề ruộng đất. Có noi làm ào ạt, cào bằng theo kiểu phân phối
bình quân về ruộng đất.
Đến giữa năm 1983, trên cơ sở nhận xét tình hình và tiến độ điều
chỉnh ruộng đất ở Nam Bộ, Trung ương nhận thấy cần phải sớm kết thúc công tác
điều chỉnh ruộng đất và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Ngày
3/5/1983, Chỉ thị 19-CT/TU của Ban bí thư được ban hành. Chỉ thị 19 chủ trương
chia cấp ruộng đất cho những hộ nông dân chưa có hoặc thiếu ruộng đất tính theo
bình quân nhân khẩu của xã. Ở những nơi điều chỉnh ruộng đất song còn chênh
lệch ít nhiều về ruộng đất trong nội bộ nông dân thì kết hợp với xây dựng tập đoàn
sản xuất và thực hiện khoán sản phẩm để giải quyết tiếp. Đến năm 1985, hầu hết
các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã hoàn thành cơ bản việc thực hiện điều chỉnh
ruộng đất. Như vậy, trong gần 10 năm, công tác điều chỉnh ruộng đất ở Nam Bộ
nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng coi như đã hoàn thành. Kết quả,
có 381.517 ha ruộng đất được rút ra để điều chỉnh cho 480.342 hộ nông dân không
có và thiếu ruộng đất. Chỉ tính riêng năm 1985 số ruộng đất rút ra là 114.713 chia
cho 148.342 hộ nông dân.
Tóm lại, từ sau giải phóng miền Nam 1975, Trung ương Đảng và Nhà

nước đã chủ trương điều chỉnh ruộng đất trong nông thôn Nam Bộ, giải quyết
những bất hợp lý về ruộng đất, xem đây là công tác hết sức quan trọng nhằm hoàn
thành những nhiệm vụ còn lại của cách mạng ruộng đất – thuộc phạm trù của cách
mạng dân tộc dân chủ-để chuyển sang cuộc cách mạng mới: cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên toàn quốc.
5
6
Sự xáo trộn ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long diễn ra mạnh mẽ
kể từ sau năm 1980 trở đi khi hầu hết các địa phương tiến hành giao khoán ruộng
đất một cách đại trà và bình quân hóa. Việc chia ruộng đất bình quân theo nhân
khẩu lao động trong xã, thực chất mang tính “cào bằng” đã để lại nhiều tác hại.
Diện tích ruộng đất bị phân tán, manh mún, quá trình tích tụ tập trung ruộng đất
được hình thành rất lâu trông nông thôn Nam Bộ theo hướng sản xuất hàng hóa bị
phá vỡ. Phổ biến ở nhiều nơi đã giao khoán một cách đại trà, nhiều gia đình đã
thoát ly nông nghiệp vẫn nhận được ruộng đất khoán. Có một số hộ rời bỏ nông
thôn ra thành thị sinh sống rất lâu vẫn quay về nông thôn để nhận phần ruộng được
chia cấp sau đó cho thuê, trở ra thành thị làm nghề cũ. Có nơi còn chia ruộng đất
cho những hộ hoạt động sản xuất kinh doanh,…ngoài nông nghiệp. Ở những vùng
đất rộng, người thưa như An Giang, Đồng Tháp,…quá trình điều chỉnh ruộng đất
đã cắt đất xâm canh-vốn là đặc thù ở vùng này của nông dân để cấp lại cho những
hộ không đất.
Quá trình điều chỉnh ruộng đất theo kiểu bình quân, cào bằng thông
qua cuộc vận động “nhường cơm sẻ áo” đã tác động mạnh đến bộ phận đông đảo
nhất, quan trọng nhất, lực lượng trung tâm trong nông thôn Nam Bộ là trung nông,
nhất là trung nông lớp trên, làm tổn hại đến lợi ích kinh tế và triệt tiêu động lực sản
xuất hàng hóa của họ. Việc điều chỉnh ruộng đất và tập thể hóa tư liệu sản xuất đã
gây nên những phản ứng khác nhau đối với tầng lớp trung nông. Ở nhiều nơi trong
nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, trung nông phân tán ruộng đất, triệt phá tư
liệu sản xuất dưới nhiều hình thức khác nhau. Chế dộ sở hữu ruộng đất của trung
nông được hình thành qua một quá trình lịch sử lâu dài có tác dụng tích cực trong

nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa đến đây bị tác động và suy sụp.
Tất cả những hạn chế, sai lầm từ quá trình điều chỉnh ruộng đất trong
gần 10 năm từ sau giải phóng miền Nam 1975 đến trước Đại hội VI của Đảng 1986
6
7
đã được Ban Nông nghiệp Trung ương chỉ ra trong cuộc họp được tổ chức tại Cần
Thơ về việc thực hiện các quan điểm cải tạo và khoán sản phẩm trong nông nghiệp
là : “Trong điều chỉnh ruộng đất, ta đã thực hiện cào bằng, rút bớt ruộng đất của
người sản xuất giỏi, có vốn,…đã vô tình hay cố ý biến sản xuất hàng hóa thành sản
phẩm tự sản xuất tự cấp tự túc”.
1.2. Vấn đề sở hữu ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long từ 1996 đến
nay
Bước vào những năm cuối thập niên 1980 và đầu 1990, trước những
yếu tố tác động đến nông thôn, nông nghiệp và ruộng đất nhưng chủ yêu là do tác
động của chính sách đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, đất đai, cùng với việc
giải quyết tranh chấp ruộng đất của Đảng, cơ cấu sở hữu ruộng đất của các nông
hộ ở đồng bằng sông Cửu Long có nhiều biến đổi quan trọng. Điểm nôi bật của
quá trình chuyển biến đó là những biến động tăng, giảm vẻ quy mô diện tích ruộng
đất sử dụng trong các hộ nông dân. Điều này phản ánh rõ nét một xu hướng phát
triển mới về sở hữu ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long. Mặt khác, trong sự vận
động từ các chủ trương, chính sách đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp nhằm giải
phóng lực lượng sản xuất trong nông thôn từ cuối những năm 1980 đã tạo ra những
động thái tích cực làm cho các loại tư liệu sản xuất, sức lao động, mang tính chất
hàng hoá. Trong đó, ruộng đất - một tư liệu sản xuất cơ bản và chủ yếu của nông
nghiệp không tránh khỏi xu hướng tất yếu trở thành đối tượng trao đổi, chuyển
nhượng. Mối quan hệ giữa ruộng đất và người nông dân bị đưa đến chỗ không còn
bền chặt. Thông qua quá trình chuyển nhượng, trao đổi sẽ tạo nên những tiền đề
mới làm tan rã kết cấu kinh tế cũ luôn trói chặt người nông dân vào ruộng đất.
Thêm nữa, nền kinh tế hàng hoá thị trường phát triển sẽ thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển nhượng ruộng đất và phá vỡ đầu óc tư hữu của người tiểu nông vốn chỉ biết

bám víu vào ruộng đất, dù đó chi là một mảnh ruộng nhỏ bé. Trước những chi phối
7
8
đó, dù lý do này hay lý do khác, người nông dân sẵn sàng chuyển nhượng, sang
bán ruộng đất, chuyển thể hình thức kinh doanh. Trên cơ sở hai khía cạnh đó, cho
thấy một khi nền kinh tế hàng hoá thị trường phát triển, nhu cầu đô thị hoá cấp
bách, nhịp độ phát triển công nghiệp, dịch vụ tàng nhanh, dẫn đến giá trị đất đai
tăng cao thì nhu cầu mua bán. chuyến nhượng, cho thuê, thế chấp,— ruộng đất
cùng các tư liệu sản xuất khác diễn ra phổ biến. Thông qua quá trình đó, diện tích
ruộng đất sử dụng có thể gia tăng ở những hộ này nhưng cũng có thể giảm sút hay
mất đi ở một số hộ khác Điều đó phán ánh một xu hướng chuyển biến cơ cấu sở
hữu ruộng đất theo hướng mới.
Trên thực tế, từ cuối những năm 1980, đầu 1990 trở đi, nhiều nơi
trong nông thôn đồng bằng sông Cửu Long đã diễn ra quá trình mua bán, sang
nhượng ruộng đất giữa các hộ nông dân với nhau. Báo cáo tổng hợp kinh tế - xã
hội vùng đồng bằng sông Cửu Long do Giáo sư Nguyễn Công Bình (chủ biên) cho
biết : trong 621 hộ được điều tra ở 15 vùng khác nhau của đồng bằng sông Cửu
Long vào năm 1995 có 396 hộ, chiếm tỉ lệ 63,77 % số hộ nông dân có diện tích
ruộng đất sở hữu tương đối ổn định, không bị chuyển biến so với năm 1987 nhưng
có 142 hộ, chiếm tỉ lệ 22,87 % số hộ có diện tích ruộng đất gia tăng và 14,33 % số
hộ có diện tích ruộng đất giảm sút, trong đó số hộ mua và thuê đất chiếm đến 45,77
% trong tổng số hộ có diện tích ruộng đất gia tăng. Ngược lại, số hộ bán hoặc cho
thuê ruộng đất chiếm 14,61% trong tổng số 89 hộ có diện tích ruộng đất giảm. Quá
trình tăng, giảm về sở hữu ruộng đất diễn ra ngày càng phổ biến ở nhiều địa
phương đồng bằng sông Cửu Long. Lúc đầu diễn ra lẻ tẻ ở một vài nơi nhưng từ
sau năm 1990 trở đi, quá trình đó diễn ra nhanh hơn và phổ biến hơn. Chẳng hạn, ở
một số xã thuộc tỉnh Tiền Giang, tính từ sau năm 1990, số hộ có diện tích ruộng
đất không bị biến động là 78.19 % nhưng có đến 12,33 % số hộ có diện tích ruộng
đất gia tăng. Trong số này, có 1.32 % sô hộ được nhận khoán thêm từ hợp tác xã và
8

9
nhà nước giao khoán, 0,53 % số hộ thuê ruộng đất, 1,86 % số hộ sang nhượng,
mua lại ruộng đất của người khác và có đến 10,9 % số hộ thừa kế lại ruộng đất từ
cha mẹ. Ngược lại chỉ có 8,2 % số hộ có diện tích ruộng đất giảm. Ở một vùng có
quy mô bình quân ruộng đất cao như An Giang, những biến động tăng giảm về quy
mô ruộng đất theo hướng sang bán, chuyển nhượng diễn ra với mức độ cao hơn.
Tiêu biểu như ở xã Bình Mỹ, huyện Châu Phú trong số 4.000 hộ nông dân thì có
đến 1.000 hộ, chiếm 1/4 số hộ có chuyển nhượng ruộng đất. Ở xã Nhơn Mỹ, huyện
Chợ Mới, chỉ trong hai năm 1995 1996, có đến 176 hộ, chiếm ti lệ 5,7 % số hộ
trong xã chuyển nhượng tới 127 ha. Còn ở Hậu Giang, trung binh có từ 7 % đến 10
% số hộ có chuyển nhượng ruộng đất, nơi cao nhất tập trung ở những huyện cố
người Khơ me sinh sống, có đến 10-15%, nơi thấp nhất cũng từ 5% đến 10%. Ở
một xã khác như Tân Hoà, huyện Châu Thành, có 100 hộ chuyển nhượng ruộng
đất và sống bằng nghề làm mướn. Chỉ tính riêng ở nông trường Cờ Đỏ, huyện Thốt
Nốt, có 342 trường hợp sang nhượng ruộng đất với 625,35 ha trên tổng số 5.988
hạ, chiếm khoảng 10 % diện tích ruộng đất đã được nông dân sang nhượng.
Trong 16.147 hộ không có ruộng đất thì có đến 9.495 hộ, chiếm tỉ lệ
58,8 % số hộ so với hộ không đất, 3,07 % số hộ so với hộ toàn tỉnh đã bị mất ruộng
đất chuyển cho những hộ khác, trong đó, chỉ tính riêng việc cầm cố, sang bán
ruộng đất chiếm đến 32,95 % số hộ so với hộ không đất và 1,72 % số hộ so với hộ
toàn tỉnh. Như vậy, một bộ phận khá lớn ruộng đất đã được chuyển sang tập trung
cho một số hộ khác. Trong đó, chỉ tính riêng việc cầm cố không đủ khả năng chuộc
lại và sang bán ruộng đất chiếm đến 5,05 % số hộ so với hộ chung toàn tỉnh, 6,38
% số hộ so với hộ nông nghiệp và chiếm đến 32,99% số hộ so với hộ không ruộng
đất điều tra. Trong tổng số hộ không ruộng đất thì số hộ có ruộng đất chuyển cho
hộ khác chiếm tỉ lệ xấp xỉ 60 %, trong đó chỉ tính riêng cầm cố, chuyển nhượng
ruộng đất chiếm tỉ lệ trung bình từ 32,95% đến 32,99 % số hộ. Theo báo cáo của
9
10
Tổng cục Địa chính, càng lùi về những năm sau này do việc sang bán, chuyển

nhượng ruộng đất nên dẫn đến thực trạng số hộ nông dân không ruộng đất ngày
càng gia tăng. Trong số những hộ nông dân không đất, có đến 20 % sô hộ do sang
bán ruộng đất để chuyển sang làm các ngành nghề khác và đặc biệt có đến 40 % số
hộ do gặp mất mùa, tại nạn, bệnh tật, nghèo, thiếu vốn sản xuất, phái bán dần
ruộng đất để trả nợ. Qua phân tích trên, rõ ràng có một bộ phận các hộ nông dân di
chuyển ruộng đất theo hướng giảm diện tích ruộng đất ở một số hộ này và tăng lên
ở một số hộ khác. Như vậy, la có thể thấy rằng : xu hướng biến động, phát triển về
sở hữu ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long chính là xu hướng tích tụ, tập trung
dần ruộng đất vào một bộ phận nông dân sản xuất nông nghiệp hiệu quả, có khả
năng đầu tư mua thêm ruộng đất.
Cũng như nhiều vùng nông thôn nước ta, ở đồng bằng sông Cửu
Long, xu hướng tích tụ, tập trung ruộng đất có mối quan hệ tương hỗ với sự phân
hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội trong nông thôn. Hai quá trình này diễn ra đồng
thời với nhau. Bởi một khi nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá ở đồng bằng sông
Cửu Long ngày càng phát triển tất yếu lạo ra quá trình phân hoá xã hội giữa các hộ
nông dân. Bước sang đầu những năm 90, sự phân hoá giàu nghèo diễn ra rõ nét ở
hầu hết các nơi trong nông thôn. Song, mặt tích cực của sự phân hoá này là tao ra
những điều kiện khách quan huy động tối đa tiềm năng tư liệu sản xuất, đất đai,
vốn, lao động, tập trung vào các quá trình sản xuất, làm gia tăng sản lượng nông
sản hàng hoá. Do vậy, ruộng đất được dần dần tập trung vào những hộ làm ăn giỏi,
có khả năng sản xuất nông nghiệp, sử dụng ruộng đất hiệu quả. Những hộ này sẽ
giàu lên và có thêm điều kiện thuận lợi tích tụ, tập trung ruộng đất. Ngược lại, một
bộ phân nông dân nghèo có ít ruộng đất nhưng không có khả năng, vốn, kinh
nghiệm sản xuất sẽ bán lại ruộng đất để chuyển sang các ngành nghề khác thích
hợp. Trong điều kiện đó, sự phân công lao động xã hội cũng sẽ diễn ra nhanh
10
11
chóng và mạnh mẽ hơn theo xu hướng “ai giỏi nghề nào làm nghề đó". Sự phân
hoá giàu nghèo gắn liền với quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất. Đày là một xu
hướng mới đang diễn ra trong nông thôn đồng bằng sông Cửu Long. Bởi một nền

kinh tế nông nghiệp đang tăng trưởng và phát triển, kinh tế hàng hoá thị trường
đang trong quá trình xâm nhập tuy mức độ chưa lớn lắm như thời gian qua và hiện
nay nhưng cũng đủ sức phá vỡ tình hình phân tán, manh mún về ruộng đất. Đồng
thời quá trình đó sẽ phá thế kìm giữ lao động trong nông nghiệp, nông thôn quá
đông. Thực vậy, xu hướng tích tụ, tập trung ruộng đất đang là xu hướng phát triển
trong nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, bởi nền nông nghiệp sản xuất hàng
hoá đang tập trung mạnh. Xu hướng ấy chủ yếu tập trung ở những vùng có quy mộ
ruộng đất cao, bình quân ruộng đất trên hộ nhân khẩu và lao động lớn. Tiêu biểu
như An Giang, cuộc điều tra thực trạng kinh tế hộ gồm 738 hộ ở 6 địa bàn khác
nhau là Thoại Sơn, Tây Phú, Long Giang, Phú Tân, Tri Tôn, Châu Phú vào năm
1996 của sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn An Giang cho thấy : nhiều hộ
nông dân có thu nhập cao nhờ vào tích tụ và tập trung ruộng đất. Trên cơ sở đó,
những hộ này phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế gia đình với nhiều ngành
nghề kết hợp. Nhưng trong đó, phần lớn là nhờ vào tích tụ ruộng đất. Quá trình tích
tụ ruộng đất diễn ra tỷ lệ thuận với quá trình phát triển kinh tế hộ. Thật vậy, trong
số 738 hộ điều tra, có đến 68% số hộ có nhu cầu tích tụ ruộng đất, đẩy mạnh sản
xuất bằng cách mua hoặc sang thêm ruộng đất, có đến 47% số hộ muốn thuê thêm
đất để sản xuất, 96% số hộ muôn nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài
và ổn định, 98% số hộ muôn giao đất trồng cây hàng năm vô thời hạn. Ngược lại,
chỉ có 5% số hộ muốn sang nhượng ruộng đất để chuyển sang làm những ngành
nghề khác thích hợp. Cuộc điều tra trên còn cho biết thêm, ưu tiên hàng đầu của
các nông hộ là sẽ mua thêm ruộng đất và các tư liệu sân xuất, máy móc quan trọng
khác. Trong nông thôn, nông dân mua sắm ngày càng nhiều hơn các loại máy kéo
lớn nhỏ, động cơ chay xăng dầu, máy bơm nước, máy suốt lúa, Con số thống kê
11
12
cho thấy, số máy móc mua sắm của nông dân tăng 1,52 lần đối với máy công tác,
1,21 lần đối với các loại nông cụ sản xuất, Cũng như An Giang, ở một khu vực
khác có quy mô ruộng đất cao, vùng trọng điểm sản xuất lương thực của đồng bằng
sông Cửu Long là Đồng Tháp. Các cuộc điều tra của ngành nông nghiệp và sở

Khoa học Công nghệ và Môi trường vào đầu năm 1995 đã phản ánh khá rõ sự biến
động ruộng đất theo xu hướng tích tụ dần vào những hộ giàu có, khá giả, biết làm
ăn, có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, Một xu hướng đang vận động tuy chưa
mạnh nhưng thực sự diễn ra ở nhiều nơi là các hộ giàu khá đã bỏ vốn mua sắm
ruộng đất, gia tăng diện tích canh tác, trong khi những hộ nghèo không có điều
kiện sản xuất cứ sang bán dần ruộng đất, diện tích canh tác cứ ngày càng thu hẹp.
Theo xu hướng vận động đó, một kết quả trong sự phân chia về ruộng
đất dần dần hiện rõ là ở nhiều nơi trong nông thôn những hộ giàu có, khá già chiếm
giữ nhiều ruộng đất, có bình quân ruộng đất trên hộ và nhân khẩu cao. Ngược lại,
những hộ nghèo thiếu ruộng đất, bình quân ruộng đất trên hộ thấp lại càng giảm
hơn. Trong nông thôn, một bộ phận các hộ giấu khá, có bình quân ruộng đất cao
nhờ tích tụ, tập trung ruộng đất thêm, cao gấp 4 lần loại hộ trung bình và gấp 5 lần
loại hộ nghèo, nếu so với hộ giàu và cao gấp 2 lần loại hộ trung bình, gấp 3 lần loại
hộ nghèo nếu so với loại hộ khá.
Xu hướng tích tụ ruộng đất vẫn rơi vào những hộ giàu khá, có khả
năng sản xuất hàng hoá cao. Trung bình sở hữu ruộng đất của hộ giàu cao hơn hộ
nghèo ở các nơi từ 3 đến 4 lần. Chênh lệch giữa nơi cao nhất - hộ giàu ở Thớ Đông
và thấp nhất - hộ nghèo ở Vĩnh Thuận Tây đến hơn 10 lần và chênh lệch giữa nơi
thấp nhất - hộ giàu ở Phước Thới và hộ nghèo cao nhất ở Thới Đông là gần gấp
đôi.
12
13
Trong khi bình quân diện tích ruộng đất ở hầu hết các nơi ngày càng
thu hẹp dần do áp lực gia tăng dân số và hộ nông nghiệp thì xu hướng tích tụ, tập
trung ruộng đất vẫn diễn ra theo chiều hướng ngày càng gia tăng số hộ có sở hữu
ruộng đất cao, giảm dần số hộ có sở hữu ruộng đất thấp. Trong nhóm hộ giàu có,
khá giả do sản xuất và thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau thì từ sản xuất nông
nghiệp trên cơ sở khai thác ruộng đất là chính. Nếu chỉ tính riêng những hộ có mức
ruộng đất sở hữu cao, vượt hơn mức bình quân chung của địa phương, tức là những
hộ có sở hữu ruộng đất từ 2 ha trở lên chiếm đến 40,80 % số hộ. Và số hộ có mức

sở hữu ruộng đất từ 0,5 ha đến 2 ha/ hộ, tức là trên dưới mức bình quân chung của
địa phương cũng đạt đến một tỉ lệ rất cao, chiếm 36,60 % số hộ trên tổng số hộ
trong nông thôn. Điều này cho thấy, xu hướng tập trung, tích tụ ruộng đất thật sự
đã diễn ra tuy còn ỏ một mức độ nhất định. Nhìn một cách bao quát hơn, xét trên
tổng thể tất cả các nhóm hộ trong nông thôn, ta thấy : cũng ở Đồng Tháp, ngoài số
hộ không đất chiếm 2,27% thì những hộ có diện tích ruộng đất binh quân một nhân
khẩu dưới 1.000 m 2 chiếm 37,7 % số hộ, từ 1.000 m2 đến 1.500 m2 chiếm 19,58
% số hộ, và từ 1.500 m2 trở lên chiếm 42,72 % số hộ. Tuy nhiên, đối với các
huyện nằm trong vùng Đồng Tháp Mười thì có mức bình quân ruộng đất rất cao, từ
2.766 m2 đến 4.258 m2/ khẩu, thậm chí có nhiều hộ sở hữu đến hàng chục ha. Như
vậy, chỉ tính riêng những hộ có từ 1.500 m2/ khẩu trở lên, tương đương với khoảng
1 ha/ hộ trở lên, chiếm đến 42,72 %, tức là có hơn 2/3 số hộ có mức tích tụ ruộng
đất vượt hơn mức bình quân chung của địa phương.
Bên cạnh đó, xu hướng tích tụ và tập trung ruộng đất còn được thể
hiện trong mối tương quan giữa diện tích ruộng đất với thu nhập của các hộ sân
xuất nông nghiệp, có khả năng tích tụ cao. Quá trình tích tụ ruộng đất đối với các
hộ nông dân gắn liền với sự gia tăng thu nhập nói riêng và nhịp độ phát triển kinh
tế nói chung trong từng nông hộ. Diện tích ruộng đất càng được tích tụ nhanh vói
13
14
quy mô bình quân lớn sẽ có tác động gia tăng mức thu nhập. Ngược lại, những hộ
có diện tích ruộng đất bình quân thấp, tất yếu mức thu nhập sẽ không cao
Như vậy, xu hướng tích tụ, tập trung ruộng đất đã thật sự diễn ra ở
nhiều nơi trong nông thôn đồng bằng sông Cửu Long từ cuối những năm 1980 trở
đi. Tuy mức độ của nó còn thấp và quá trình diễn ra còn chậm chạp. Song, trong
điều kiện thuân lợi, chắc chắn xu hướng tích tụ, lập trung ruộng đất sẻ có chiều
hướng tăng nhanh. Đối với đồng bằng sông Cửu Long, một trong những yếu tố tích
cực thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất diễn ra nhanh là quá trình
chuyển dịch cớ cấu kinh tế trong nông thôn cần phải diễn ra một cách mạnh mẽ và
khẩn trương hơn. Các ngành nghề phi nông nghiệp ở cả hai khu vực II và III cần

phải tăng nhanh tỉ trọng thì mới có thể phân công lại lao động và dân số đang tập
trung đông đảo trong nông thôn, thu hút vào các ngành nghề kinh tế ngoài nông
nghiệp. Điều đó còn có ý nghĩa quan trọng cho việc sử dụng ruộng đất có hiệu quả
cao sau khi được tích tụ. Vì mức độ và quy mô ruộng đất bình quân trên hộ lúc này
sẽ đạt đến tỉ lệ rất lớn. nhất là ở những vùng trọng điểm vể sản xuất nông nghiệp.
Xu hướng tích tụ, tập trung ruộng đất trong nông thôn đồng bằng sông
Cửu Long một khi dã diễn ra sẽ dẫn đến sự phân công lao động trong nông nghiệp
một cách hợp lý, nhất là đối với diện tích ruộng đất sử dụng. Những hộ nông dân
có quy mô ruộng đất sử dụng thấp và sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả có xu
hướng chuyển dịch ruộng đất để chuyển hình thức kinh doanh. Nói cách khác, quá
trình tích tụ, tập trung ruộng đất sẽ gắn liền với quá trình phân hoá nông dân, đầy
một bộ phân nông dân nghèo, ít và thiếu ruộng đất đến chỗ mất dần ruộng đất,
chuyển sang các ngành nghề ngoài nông nghiệp hoặc trở thành những người làm
thuê. Song, trong nông thôn đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua, quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhịp độ đô thị hoá, công nghiệp hoá diễn ra không
nhanh đã phần nào hạn chế quá trình này.
14
15
Trên thực tế, trong nông thôn đồng bằng sông Cửu Long cho đến
những năm giữa thập niên 90, số hộ nông dân ít và thiếu ruộng đất đã không giảm
mà còn gia tăng. Một phần đông trong số họ trở thành những người làm thuê trong
nông thôn vì lý do chuyển nhượng, sang bán hết ruộng đất và các tư liệu sản xuất
khác, số liệu báo cáo của Hội nông dân Việt Nam cho thấy : trung bình mỗì tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long có từ 10.000 đến 15.000 hộ nông dân không có ruộng
đất sản xuất phải đi làm thuê. Con số thống kê được trong toàn vùng có đến 83.563
hộ nông dân không ruộng đất. Xu hướng này ngày càng tăng trong những năm lùi
về sau này bởi một nguyên nhân cơ bản là các hộ nông dân có ít ruộng đất lại thiếu
vốn, nông cụ, các phương tiện sản xuất, không đủ khả năng cạnh tranh trong nền
nông nghiệp hàng hoá đang ngày một phát triển cao dẫn đến làm ăn thất bát, thua
lỗ, cuối cùng phải sang bán ruộng dất với giá rẻ để rồi trắng tay, đi làm thuê. Chỉ

tính riêng tỉnh Trà Vinh vào năm 1994, số hộ nông dân không ruộng đât sau khi
cầm cố, chuyển nhượng, chỉ chiếm có 0,67 % nhưng chỉ ba năm sau dó, năm 1997
tăng lên đến 14,4 %, tức là số hộ nông dân nghèo sang bán ruộng đất tăng lên 20
lần. Ở Tiền Giang, từ 957 hộ năm 1994 đă tăng lên 1.240 hộ năm 1997. Ở một nơi
khác có quy mô ruộng đất cao như xã Nhơn Hội, huyện An Phú, tỉnh An Giang, số
hộ nông dân không ruộng đất chiếm đến 34,9 %. Ở xã Khánh Trung (tỉnh Đồng
Tháp) chiếm 28 % số hộ, Tân Hiệp (Trà Vinh) là 15,2 %, Vĩnh Châu (Sóc Trăng)
là 15,4 %. Ở Cần Thơ, trong tổng số 36.264 hộ nghèo đói, có đến 20.264 hộ hoàn
toàn không có ruộng đất và 16.176 hộ thiếu ruộng đất để canh tác. Trong 20.264 hộ
không cổ ruộng đất thì có tới 16.147 hộ là lao động thuần nông nghiệp.
Tóm lại, trong nông thôn đồng bằng sông Cửu Long từ cuối thập niên
80 trở đi, cơ cấu sở hữu ruộng đât của các nông hộ có những chuyển biến mà xu
hướng chính là quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất. Ở giai đoạn đầu, xu hướng
này diễn ra một cách chậm chạp do việc mua bán, sang nhượng, thừa kế, ruộng
15
16
đất chưa được pháp chế hoá dù trên thực tế nó đã ngấm ngầm, lén lút xảy ra trong
các hộ nông dân. Bước sang những ngày đầu 1990 trở đi, nhất là từ sau năm 1993,
việc chuyển nhượng, mua bán, cho thuê mướn, thừa kế, ruộng đất đã được pháp
luật thừa nhận thì xu hướng tích tụ, lập trung ruộng đất diễn ra nhanh và phổ biến
hơn, trở thành xu hướng phát triển chủ yếu và nổi bật trong sự chuyển biến về sở
hữu ruộng đất ỏ đồng bằng sông Cửu Long. Con số tính toán được ở nhiều nơi cho
thây: trong tổng số hộ không ruộng đất thì có khoảng 60 % số hộ đã có chuyển
dịch ruộng đất với lý do này hay lý do khác. Và chỉ có khoảng từ 7 % đến 10 % số
hộ thông qua việc cầm cố, sang nhượng ruộng đất có chuyển ruộng đất cho những
hộ khác. Ngược lại, có từ 10 % đến 15 % số hộ đã mua sắm, sang lại ruộng đất lừ
các hộ khác trong số hộ nông dân ở nông thôn sống bằng nông nghiệp. Tuy nhiên,
trong nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
diễn ra còn chậm, đô thị hoá và nhịp độ gia tăng các ngành nghề kinh tế ngoài
nông nghiệp chưa tiến hành nhanh và mạnh đã phần nào ngăn cản quá trình tích tụ,

tập trung ruộng đất. Do đó, xu hướng tích tụ, tập trung ruộng đất tuy diễn ra ở mức
độ chưa lớn nhưng mặt trái dễ nhận thấy của nó là sự gia tăng số hộ không ruộng
đất ở nông thôn ngày một đông hơn. Kéo theo đó, một đội ngũ khá đông lao động
làm thuê và lao động thất nghiệp trong nông thôn cứ ngày càng tăng đần lên. Kết
quả điều tra của Tổng cục Thông kê vào năm 1997 cho thấy trong nông thôn đồng
bằng sông Cửu Long có đến 436.000 hộ không ruộng đất, chuyên đi làm thuê,
chiếm tỉ lệ 17,4 % số hộ nông thôn toàn vùng và chiếm 64,8 % tổng số hộ nông
thôn chuyên làm thuê của cả nước. Lực lượng này tập trung đông ở những vùng có
xu hướng tích tụ, lập trung ruộng đất cao như Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang,
Sóc Trăng, Nhìn chung, ở đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 17,37 % số hộ
nông dân chuyên làm thuê và có thu nhập từ lao động làm thuê chiếm chủ yếu thì
các tính Đồng Tháp, Kiên Giang có tỉ lệ cao hơn và đặc biệt là An Giang cao gần
gấp đôi . Như vậy, trong xu hướng vận động, phát triển mới của vấn đề ruộng đất ở
16
17
đồng bằng sông Cửu Long, một bộ phận nông dân không ruộng đất chuyên làm
thuê trong nông thôn tồn tại khá đông chính là hệ quả khách quan của quy luật phát
triển của nền kinh tế thị trường, nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá.
17
18
CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG TỪ 1996 ĐẾN NAY
2.1. Vài nét về sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở
Việt Nam.
Quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam là
một quá trình tương đối phức tạp và trải qua nhiều thời kỳ thăng trầm khác nhau.
Sau giải phóng, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
thực hiện chủ trương cải tạo nông nghiệp, Nhà nước quốc hữu hóa các đồn điền
thành các nông trường quốc doanh. Các điền trang, trang trại tư nhân lớn của địa
chủ, phú nông, tư sản nông thôn cũng bị cải tạo, phần lớn ruộng đất chia cho nông

dân không ruộng hay ít ruộng. Đồng thời tuyệt đại đa số ruộng đất của nông dân đề
đưa vào Hợp tác xã hay tập đoàn sản xuất nông nghiệp.
Đặc điểm nông nghiệp thời kỳ này là kinh tế hợp tác, kinh tế quốc
doanh phát triển nhanh chóng, kinh tế đồn điền thực dân và điền trang, trang trại
của các địa chủ, phú nông, tư sản nông thôn và cả của trung nông lớp trên không
còn. Kinh tế tiểu chủ, kinh tế hộ gia đình sản xuất hàng hóa giảm bớt.
Kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã đã làm mất đi vai trò kinh tế
hộ, biến kinh tế hộ thành kinh tế tập thể. Kinh tế hợp tác càng phát triển thì kinh tế
hộ gia đình càng thu hẹp lại, kinh tế hộ sản xuất hàng hóa bị xóa bỏ dần. Có thể nói
trong giai đoạn này kinh tế trang trại không tồn tại. Tuy nhiên trong thực tế, có
những hộ gia đình không đủ điều kiện vào Hợp tác xã do nhiều nguyên nhân, do đó
ở thời kỳ phát triển cao nhất của Hợp tác xã và Tập đoàn sản xuất nông nghiệp,
vẫn còn một số ít hộ gia đình cá thể hoạt động và phát triển dần thành những hộ
trang trại nhỏ, sau này có điều kiện mở rộng ra.
18
19
Như vậy, trong thời kỳ những năm 1975 – 1986, song song với phong
trào hợp tác hóa và kinh tế quốc doanh phát triển, kinh tế hộ gia đình tiểu nông và
kinh tế hộ gia đình sản xuất hàng hóa vẫn còn tồn tại và hoạt động.
Sau Đại hội VI của Đảng, đường lối Đổi mới toàn diện cộng với sự
vận dụng sáng tạo của các địa phương, đã tạo ra những chuyển động mới trong
nông nghiệp nông thôn. Đồng thời Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (NQ10) và Nghị
quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 đã khẳng định vai trò của kinh tế hộ
nông dân, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ , nông dân chỉ còn một
nghĩa vụ đó là nộp thuế; Nhà nước thực hiện chính sách thỏa thuận với nông dân
khi mua nông sản và thực hiện thương mại hóa vật tư. Đến Đại hội Đảng lần thứ
VII lại ghi rõ thêm: Ở nông thôn trên cơ sở tăng cường vai trò đơn vị kinh tế tự chủ
của hộ xã viên không còn có điều kiện tự làm hoặc làm không có hiệu quả và “Các
hộ nông dân được Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và cấp giấy
chứng nhận. Luật pháp quy định cụ thể việc thừa kế và chuyển quyền sử dụng

đất”
1
. Như vậy sau 30 năm tổ chức phong trào hợp tác hóa, đến đây đã có quan hệ
đúng đắn về kinh tế hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Do việc coi hộ gia
đình nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, nên các hộ được giao quyền sử dụng đất-
loại tư liệu sản xuất chủ yếu, một cách ổn định lâu dài và có quyền sở hữu các tư
liệu sản xuất khác. Các hộ gia đình phát triển theo cơ chế thị trường tự hoạch toán,
tự trang trải, lấy thu bù chi và làm ăn có lãi…Đây chính là động lực cho các hộ gia
đình hoạt động theo phương thức sản xuất hàng hóa để trở thành “Các trang trại
gia đình”. Bên cạnh đó, Chính phủ thực hiện Chương trình 327 về phủ xanh đất
trống đồi trọc, chủ trương giao đất rừng cho dân, nhiều hộ gia đình nhất là ở khu
vực miền Đông Nam Bộ, đã mượn đất trồng rừng, trồng cây công nghiệp dài ngày
1 Nghị quyết của Bộ chính trị về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn. NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1998, trang 12.
19
20
như cao su, điều, bạch đàn, cây ăn quả…và đã hình thành các hộ có diện tích canh
tác lớn theo mô hình kinh tế trang trại gia đình.
Như vậy kinh tế trang trại gia đình đã ra đời và phát triển nhờ những
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Chỉ thị 100/CT – TW ngày 13/1/1981 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng chủ trương khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động, thì kinh
tế hộ gia đình mới dần dần được khẳng định là đơn vị kinh tế tự chủ. Đây chính là
điều kiện cơ bản cho kinh tế trang trại ở Việt Nam ra đời và phát triển. Sau đó Ban
chấp hành Trung ưởng Đảng khóa IV và khóa V còn ra một loạt các chỉ thị quan
trọng khác liên quan đến khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa trong lĩnh vực
nông, lâm, ngư nghiệp là:
-Chỉ thị 29/CT – TW về giao đất, giao rừng và củng cố quan hệ sản
xuất ở miền núi.
-Chỉ thị 35/CT – TW về phát triển kinh tế gia đình.

-Chỉ thị 50/CT – TW về kiện toàn nông nghiệp quốc doanh.
-Chỉ thị 65/CT – TW về củng cố quan hệ sản xuất ở miền biển.
-Chỉ thị 67/CT –TW về hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm đến nhóm
và người lao động.
Từ đó nông dân gắn bó với đồng ruộng và nghĩ cách làm giàu chính
đáng bằng sức lao động của mình. Kinh tế hộ nông dân bắt đầu phát triển sản xuất
nông sản hàng hóa. Một số nông, lâm trường quốc doanh và Hợp tác xã nông
nghiệp không còn thích hợp, ở một số nơi các trang trại gia đình nhận khoán đất
của nông dân, lâm trường quốc doanh và của Hợp tác xã. Kinh tế trang trại đã
manh nha xuất hiện.
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng với nghị quyết về Đổi mới
toàn diện nền kinh tế đất nước, nhờ có chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa
20
21
nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà đất nước có sự chuyển động mang tính cách
mạng sâu sắc và toàn diện, đoạn tuyệt với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu
bao cấp. Mọi người hồ hởi lao vào công cuộc làm ăn, làm giàu cho đất nước và cho
gia đình.
Nghị quyết 10 – NQ/TW của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VI về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp đã xác định rõ: “Nhà nước
công nhận sự tồn tại lâu dài và tác dụng tích cực của kinh tế cá thể, tư nhân trong
quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, thừa nhận tư cách pháp nhân, bảo đảm quyền
bình đẳng về nghĩa vụ trước pháp luật, bảo hộ quyền làm ăn chính đáng và thu
nhập hợp pháp của các hộ cá thể, tư nhân và quyền thừa kế sử dụng doanh nghiệp
của con cái họ; tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các thành phần này phát
triển tròng trọt, chăn nuôi, trồng rừng khi thác thủy hải sản, chế biến nông lâm,
thủy sản, kinh doanh dịch vụ nông nghiệp và mở mang ngành nghề ở nông thôn.
Mọi hành vi xâm phạm các quyền nêu trên đều bị xử lý theo pháp luật; các định
kiến hẹp hòi đối với kinh tế cá thể, tư nhân phải được xóa bỏ”.

2
Tiếp sức cho kinh tế trang trại phát triển, Nghị quyết số 05-NQ/TW
của Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII và sau đó là
Luật Đất đai (tháng 9/1993), đã chủ trương: “…Nhà nước khuyến khích phát triển
kinh tế cá thể, tư nhân trong nông thôn, lâm ngư nghiệp, công nghiệp dịch vụ nông
thôn. Đặc biệt khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các loại
giống mới có hiệu quả kinh tế cao; khai thác đồi núi trọc, bãi bồi ven biển, nuôi
trồng thủy sản, đánh bắt ngoài khơi; xây dựng các nông, lâm, ngư trại với quy mô
thích hợp; phát triển tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp, dịch vụ nông thôn, tham
2 Nghị quyết của Bộ chính trị về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn. NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1998, trang 17.
21
22
gia xây dựng kết cấu hạ tầng. Khuyến khích các nhà kinh doanh từ thành phố, thị
xã về nông thôn lập nghiệp…”
3
.
Đặc biệt là ngày 02/2/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
03/2000/ NQ – CP về kinh tế trang trại. Toàn bộ nghị quyết nêu rất đầy đủ về sự
đánh giá của Nhà nước đối với những mặt tích cực cũng như hạn chế của kinh tế
trang trại; đồng thời cũng nêu rõ những quan điểm và chính sách của Nhà nước đối
với sự phát triển kinh tế trang trại: “Sự phát triển của kinh tế trang trại đã góp
phần khai thác thêm nguồn vốn trong dân, mở mang thêm diện tích đất trồng, đất
núi trọc, đất hoang hóa, nhất là ở các vùng trung du, miền núi và ven biển; tạo
thêm việc làm cho lao động nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo; tăng thêm
nông sản hàng hóa. Một số trang trại đã góp phần sản xuất và cung ứng giống tốt,
làm dịch vụ, kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân trong vùng…”.
4
Từ đây, kinh tế hộ nông dân đã hoàn toàn tự chủ trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Sản xuất nông nghiệp phát triển, xuất khẩu lương thực, thực

phẩm hàng năm tăng lên rõ rệt, đời sống nhân dân được cải thiện, bộ mặt nông
thôn có nhiều thay đổi theo hướng ngày càng văn minh tiến bộ hơn. Trong cả nước
theo thống kê chưa đầy đủ hiện có trên 300.000 trang trại, thu hút vốn đầu tư
khoảng 40.000 tỷ đồng vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp là lĩnh vực khó kêu gọi
vốn đầu tư nước ngoài nhất; đã khai thác khoảng 6-750.000 ha đất trống, đồi núi
trọc, sàn xuất đạt hiệu quả kinh tế; tạo ra một khối lượng nông sản hàng hóa lớn có
giá trị xuất khẩu cao. Chính vị vậy, kinh tế trang trại đá có chỗ đứng và luôn phát
triển một cách tích cực, góp phần giải quyết việc làm ở nông thôn, nâng cao năng
suất lao động xã hội, góp phần phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, khai phá những
3 Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VII. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, trang
67.
4 Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP về kinh tế trang trại ngày 02/02/2000 của Chính phủ.
22
23
vùng đất hoang hóa ở nông thôn tạo ra ngày càng nhiều nông sản hàng hóa có chất
lượng cao cho xã hội.
Như vậy, chúng ta có thể thấy cơ sở pháp lý của sự xuất hiện trở lại
kinh tế trang trại ở nước ta là NQ 10/BCT-BCH-TW khóa VI, NQ-TW 5 khóa VII
và hàng loạt các chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước ta kể từ sau Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI.
Trong những năm gần đây, số lượng các trang trại đã gia tăng đáng
kể. Tính một cách tương đối thì cả nước có tới 300.000 trang trại với quy mô về
đất đai ở mỗi vùng, mỗi miền có khác nhau.
Kinh tế trang trại ở nước ta mới phát triển, việc thu nhập các số liệu
và đánh giá về nó còn nhiều hạn chế cho nên chưa thể đánh giá hết tác dụng của nó
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Tuy nhiên có những điều rất rõ
ràng, là ở những nơi kinh tế trang trại phát triển thì ở đó bộ mặt của nông thôn
ngày càng thay đổi theo chiều hướng tốt, mức sống vật chất và tinh thần của nông
dân được nâng cao.
2.2. Sự phát triển kinh tế trang trại ở đồng bằng sông Cửu Long từ 1996

đến nay
2.2.1. Những đặc điểm cơ bản của kinh tế trang trại ở đồng bằng sông
Cửu Long
Sự phát triển kinh tế trang trại ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ thực
sự nở rộ từ năm 1996 và những đặc điểm của kinh tế trang trại ở khu vực đồng
bằng Sông Cửu Long với các khu vực khác trong cả nước cũng có những điểm
khác biệt. Nhìn chung so với miền Bắc, miền Trung, Tây Nguyên thì kinh tế trang
trại ở đồng bằng Sông Cửu Long có số lượng nhiều hơn. Đây là vùng có diện tích
3.987.6000ha, thuộc loại đất nông nghiệp phì nhiêu nhất và có nhiều điều kiện
23
24
thuận lợi khác nhau cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lúa nước, vì thế
đồng bằng Sông Cửu Long được coi là vựa lúa của cả nước. Chỉ tính riêng diện
tích trồng lúa đã lên tới 2.038.840ha, hơn gấp hai lần diện tích lúa ở đồng bằng
sông Hồng và cho sản lượng gấp ba lần so với đồng bằng sông Hồng, do đó các
trang trại ở đồng bằng sông Cửu Long cũng có một số đặc điểm khác các vùng.
Trang trại ở đồng bằng sông Cửu Long đại đa số là trang trại trồng lúa
có kết hợp với chăn nuôi lợn, gà, vịt la loại gia súc, gia cầm sống chủ yếu vào
nguồn nông sản phong phú ở đây. Nhìn chung đây là vùng “đất ít, người đông”,
bình quân đất đai trên một hộ nông dân ở vùng này thấp. Theo điều tra khảo sát ở
tỉnh An Giang – một tỉnh có nhiều ruộng đất phì nhiêu nhất đồng bằng sông Cửu
Long cũng chỉ trên dưới 7000 mét vuông trên một hộ, một mức diện tích khá
khiêm tốn cho việc phát triển trang trại ở một vùng thiên về trồng trọt. Tuy bình
quân đất thấp, nhưng bù lại đất phần lớn là phù sa mới bồi đắp nên rất màu mỡ, phì
nhiêu, lại có đầy đủ nước ngọt quanh năm, rất thích hợp cho các loại cây hàng năm
nhất là lúa màu và cây ăn quả. Những ưu đãi của thiên nhiên đã biến đồng bằng
sông Cửu Long thành vùng nổi tiếng là vựa lúa, miệt vườn độc đáo nhất của Việt
Nam. Các trang trại ở đồng bằng sông Cửu Long phát triển theo hướng phù hợp
với đặc điểm môi trường tự nhiên: đó là các trang trại trồng lúa, trồng cây hoa màu
hàng năm như đậu, lạc, và cây ăn quả…chứ không có các trang trại trồng cây công

nghiệp như ở Đông Nam Bộ. Vì đất ít và rất phì nhiêu nên đất ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long là rất quý, nông sản hàng hóa được làm ra rất nhiều, xuất khẩu đem
lại ngoại tệ nhiều cho đất nước, góp phần đưa nước ta trở thành nước đứng thứ hai
về xuất khẩu gạo trên thế giới. Các trang trại ở đồng bằng này, tuy diện tích không
lớn, đại đa số đều ở mức hạn điền (3ha) và số vượt hơn phổ biến cũng chỉ có quy
mô diện tích từ 5-10ha, còn loại từ 20-50ha trở lên không nhiều, trái lại các trang
trại đều thu nhập tương đối lớn, tỷ suất nông sản hàng hóa đều đạt trên 70%, vốn
24
25
đầu tư cũng khá cao từ 300-700 triệu và cá biệt có trang trại đầu tư đến hàng chục
tỷ đồng.
Vùng Đồng Tháp Mười là vùng có diện tích rất lớn đất đầm lầy và
hoang hóa, đá có nhiều hộ nông dân ở khắp các nơi đến phá hoang, cải tạo, gây
dựng cơ nghiệp. Họ đã lập những trang trại trồng lúa, trồng mía có quy mô hàng
ngàn ha trên vùng đất hoang, nước phèn ngập quanh năm.
Trang trại ở đồng bằng sông Cửu Long có đất canh tác tự khai hoang
là ít, còn đất tích tụ, tập trung chuyển nhượng, cầm cố, mua bán lại là nhiều ( như ở
An Giang). Vì vậy, ở đây có vấn đề xã hội cần quan tâm và có cách giải quyết hợp
tình hợp lý vừa phù hợp với cơ chế thị trường vừa phải giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa đảm bảo “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Trang trại ở đồng bằng sông Cửu Long có tỷ suất hàng hóa cao, vì vậy
không thể chỉ lấy tiêu chí có tính chất hàng hóa trên 70% để xác định trang trại, bởi
vì đa số nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long đã có ý thức sản xuất nông sản
hàng hóa từ rất sớm, nếu chỉ căn cứ chủ yếu vào tỷ suất hàng hóa trên 70% để quy
định, thì có thể nói chủ trang trại trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ có rất
nhiều, có thể tính tới con số hàng vạn chứ không chỉ hàng trăm, hàng ngàn như
miền Bắc, miền Trung. Vì vậy bên cạnh tỷ suất hàng hóa cần kèm theo các tiêu chí
khác về đất đai, tiền vốn, lao động và thuận lợi…như Ban kinh tế tỉnh ủy An Ging
đề nghị.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có sông ngòi, kênh rạch chằng

chịt, mặt nước ao hồ, đầm lầy, bưng, vịnh nhiều dày đặc khắp nơi do đó ngành
nuôi trồng đánh bắt thủy sản không chỉ phát triển ở vùng ven biển như miền Đông
Nam Bộ mà còn được phân bố phát triển mạnh ở khắp tất cả các tỉnh miền Tây
Nam Bộ. Tỉnh nào cũng có nhiều trang trại chuyên nuôi trồng thủy sản với quy mô
25

×