Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Phần 1. Ảnh hưởng của thời gian thu hoạch đến sự nứt gãy gạo và tỉ lệ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.27 KB, 11 trang )

Phần 1. Ảnh hưởng của thời gian thu hoạch đến sự nứt gãy gạo và tỉ
lệ thu hồi gạo nguyên tại ĐBSCL
TĨM TẮT
Thu hoạch đúng thời hạn chiếm vị trí quan trọng trong việc kiểm soát sự nứt gãy hạt gạo. Tỉ lệ
thu hồi gạo nguyên giảm sẽ làm giảm giá trị và thu nhập của nơng hộ. Các thí nghiệm trên đồng
được thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của thời gian thu hoạch xung quanh thời điểm chín
sinh lý của hạt đến độ nứt gãy và tỉ lệ thu hồi gạo nguyên của 7 giống gạo phổ biến (OM1490,
OM2718, OM2517, OM4498, AG24, IR50404 và Jasmine) tại 3 địa điểm khác nhau trong 2 năm
canh tác (2006-2008) ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Kết quả cho thấy thời gian thu hoạch và
giống gạo rất ảnh hưởng đến độ nứt gãy gạo. Xu hướng chung là tỉ lệ hạt nứt tăng khi thời gian
thu hoạch trễ hạn so với ngày chín sinh lý dự tính. Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên cũng theo xu hướng
trên khi thu hoạch trễ. Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên giảm trung bình 11.3% và lên đến 50% nếu bị
thu hoạch trễ từ 4-6 ngày. Xu hướng này như nhau đối với cả mùa khô và mùa mưa. Tỉ lệ gạo
gãy giữa các giống gạo chênh lệch nhiều (0.9 đến 60.5%) vào ngày thứ 6 sau ngày chín sinh lý
cho thấy có thể lựa chọn giống gạo phù hợp để canh tác nhằm giảm thiểu mức độ gãy hạt do thu
hoạch trễ hạn gây ra.

GIỚI THIỆU
Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên được định nghĩa là phần trăm gạo nguyên (nhân gạo có chiều dài hạt ít
nhất là ¾ chiều dài ban đầu) so với số lượng lúa đem đi xay xát. Đây là chỉ tiêu chất lượng chủ
yếu do tấm thường chỉ còn một nửa giá trị thương phẩm so với gạo nguyên. Thời gian thu hoạch
được xem là yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến năng suất xay xát gạo. Thu hoạch gạo tại thời điểm
chín sinh lý của hạt giúp đạt được tỉ lệ thu hồi gạo nguyên tối đa (Kester và ctv. 1963, Bal và
Oiha 1975). Nếu thời gian thu hoạch bị trễ hạn sẽ gây ra tỉ lệ thu hồi gạo nguyên giảm (Bal và
Oiha 1975, Ntanos và ctv. 1996, Berrio và ctv. 1989) và thu hoạch quá trễ dẫn đến tổn thất to lớn
lượng gạo nguyên thu hồi. Nghiên cứu của Berrio và ctv. (1989) trên 16 giống gạo cho thấy tỉ lệ
gạo nguyên bị giảm 18% khi thu hoạch trễ 2 tuần. Tuy nhiên, thu hoạch trễ hạn không ảnh hưởng
đến các giá trị cảm quan của gạo (Champagne và ctv. 2005, Chae và Jun 2002).

5



Gạo bị nứt gãy trên đồng ảnh hưởng đáng kể đến tỉ lệ thu hồi gạo nguyên. Đây là một tác động
tiềm ẩn vì hạt gạo có thể đã bị nứt khi hàm ẩm bị thay đổi do ngày nắng đêm ẩm ướt. Thời gian
thu hoạch ảnh hưởng đến tỉ lệ hạt nứt gãy và tất yếu ảnh hưởng đến tỉ lệ thu hồi gạo nguyên. Khi
thu hoạch gạo quá sớm có thể dẫn đến số lượng hạt chưa chín nhiều. Các hạt chưa chín thường
mỏng và bị khuyết tật do đó dễ bị gãy vỡ trong q trình xay xát sau đó (Swamy và Bhattacharya
1980). Ngược lại, thu hoạch hạt trễ hạn làm cho hạt quá khô và dễ bị nứt gãy. Các điều tra
nghiên cứu của Chau và Kunze (1982) cho biết các vết nứt có thể phát triển ở những nhân gạo có
ẩm độ thấp (13% hay 14% cơ sở ướt) trước khi thu hoạch do sự thay đổi đột ngột độ ẩm tương
đối khơng khí. Hơn nữa, các thao tác thu hoạch không đúng như không suốt lúa ngay mà để qua
đêm trên đồng làm tăng khả năng hút ẩm do hàm ẩm và độ chín của khối hạt không đồng đều
(Kunze và Prasad 1978).
Tỉ lệ gạo nguyên giảm do nứt gạo là một trong những nguyên nhân trực tiếp làm giảm thu nhập
và lượng lương thực của nông hộ ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), vựa lúa lớn nhất của
cả nước. Hạt gạo bị gãy hay bị nứt tế vi có thể xảy ra ngay trên đồng do thời điểm thu hoạch
khơng thích hợp, thao tác thu hoạch chưa đúng, cũng như do tác động của các điều kiện sấy sau
thu hoạch và thao tác xay xát chưa phù hợp. Nông hộ ở ĐBSCL canh tác lúa trong cả hai mùa
mưa và khô. Điều kiện khí hậu tại thời điểm thu hoạch vì thế là khác nhau giữa hai mùa, sự khác
nhau này có thể làm hạt gạo bị nứt và gãy trong quá trình xay xát. Tuy nhiên, hiện nay chưa có
số liệu thực nghiệm về tác động của thời điểm thu hoạch đến sự nứt gãy của gạo và tỉ lệ thu hồi
gạo nguyên trên các giống gạo được canh tác tại các mùa khác nhau ở ĐBSCL. Nghiên cứu này
được thực hiện nhằm mục đích thu thập số liệu một cách có hệ thống tỉ lệ gạo nứt gãy và tỉ lệ thu
hồi gạo nguyên với các thí nghiệm trên đồng trong 4 mùa thu hoạch liên tiếp từ năm 2006 đến
năm 2008. Yếu tố chính trong thí nghiệm là thời điểm thu hoạch trước và sau ngày chín sinh lý.
Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá ảnh hưởng của thời điểm thu hoạch trên nhiều giống
gạo đến mức độ nứt gãy hạt và tỉ lệ thu hồi gạo nguyên ở các mùa vụ khác nhau. Nghiên cứu này
sẽ giúp xác định thời điểm thu hoạch tối ưu cho một số giống gạo trồng tại ĐBSCL.

6



VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Lấy mẫu gạo
Thí nghiệm được thực hiện tại ba địa điểm khác nhau là Trung tâm Giống tỉnh An Giang, Hợp
tác xã Tân Phát A (tỉnh Kiên Giang) và Hợp tác xã Tân Thới 1 (TP. Cần Thơ) trong 4 mùa vụ
liên tiếp trong 2 năm (2006-2008). Chọn 7 giống gạo trồng phổ biến tại các Hợp tác xã và Trung
tâm Giống cho các thí nghiệm trên đồng như trình bày ở Bảng 1. Ngày lúa chín của từng giống
gạo được xác định dựa trên khuyến cáo của các Trung tâm khuyến nông địa phương là từ 86-98
ngày (Bảng 1). Ngày chín sinh lý trong nghiên cứu này được định nghĩa là ngày thu hoạch lúa kể
từ ngày sạ lúa. Ngày chín sinh lý này được ước tính dựa trên kinh nghiệm của nơng hộ và các
thơng tin sẵn có từ các cơ quan khuyến nơng.
Bảng 1. Các giống lúa và ngày chín sinh lý (CSL) được lựa chọn trong nghiên cứu
Giống lúa

Mùa vụ

OM1490

Mưa
Khô

OM2718

Mưa
Khô

OM2517

Mưa
Khô


OM4498

Mưa
Khô

Ngày CSL khuyến
cáo†
87-92
90-95
85-90
90-95

Ngày CSL thí
nghiệm††
92
92
92
92
90
86
90
91

Jasmine

95-105

98


AG 24

Mưa

90-95

90

IR50404



Mưa
Mưa

90-95

92
Ngày chín sinh lý khuyến cáo (ngày sau sạ) của Trung tâm khuyến nông địa phương cung cấp.

††

Ngày chín sinh lý (ngày sau sạ) lựa chọn cho thí nghiệm.

Thiết kế thí nghiệm
Mỗi thí nghiệm gồm có 7 nghiêm thức tương ứng với thời điểm thu hoạch trước và sau ngày lúa
chín dự tính cho mỗi giống gạo trong 7 giống được chọn. Các giống gạo này được trồng tại các
đồng lúa khác nhau trong 3 địa điểm thực hiện thí nghiệm. Thí nghiệm gồm có 7 nghiệm thức, 6
ngày trước và 6 ngày sau ngày thu hoạch. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối đầy đủ RCBD
(Random Complete Block Design), gồm có 5 khối, số khối tương ứng với số lần lặp lại của một

nghiệm thức (Bảng 2).

7


Bảng 2. Các nghiệm thức (ngày thu hoạch) so với ngày chín sinh lý (CSL). 0, +2, +4, +6 và -2, -4, -6 là ngày thu
hoạch trước và sau ngày CSL dự tính. A, B, C, D, và E là khối lặp lại.
Khối
Nghiệm
thức
1
2
3
4
5
6
7

(-6)
(-4)
(-2)
(0)
(+2)
(+4)
(+6)

A

B


C

D

E

-6A
-4A
-2A
0A
+2A
+4A
+6A

-6B
-4B
-2B
0B
+2B
+4B
+6B

-6C
-4C
-2C
0C
+2C
+4C
+6C


-6D
-4D
-2D
0D
+2D
+4D
+6D

-6E
-4E
-2E
0E
+2E
+4E
+6E

Qui trình thí nghiệm
Lựa chọn một số ruộng lúa của nơng hộ và phân lơ thí nghiệm trước thời gian thu hoạch. Lúa thí
nghiệm trong mùa mưa được gieo vào tháng 3-4 và thu hoạch vào tháng 6-7 (năm 2006 một số
giống gạo được gieo vào mùa mưa trễ và thu hoạch vào tháng 9). Đối với lúa thí nghiệm trong
mùa khơ được gieo vào tháng 11-12 và thu hoạch tháng 3-4. Hình 1 minh họa sơ đồ bố trí thí
nghiệm thời điểm thu hoạch cho mỗi giống gạo. Thu hoạch lúa trong 35 lơ có kích thước 1 m x 2
m (tổng diện tích thu hoạch là 70 m2) tại 7 ngày thu hoạch tương ứng với các nghiêm thức 6
ngày trước và 6 ngày sau ngày chín sinh lý với 5 lần lặp lại cho mỗi nghiệm thức (Hình 1). Lúa
được gặt bằng liềm và suốt bằng tay. Gặt lúa vào buổi sáng sớm để tránh ánh nắng gắt nhằm
giảm khả năng gây nứt hạt do sự thay đổi đột ngột phân bố ẩm bên trong hạt trong điều kiện đêm
ẩm, ngày khô. Sau khi gặt, chuyển lúa vào bóng râm để suốt bằng tay, làm sạch và tách bỏ rơm,
hạt lép, tạp chất.
Mẫu lúa được chuyển đến nơi sấy sau khi đo ẩm độ. Mẫu được sấy nhẹ ở 35 oC bằng máy sấy
khay của Đại học Nông Lâm TP.HCM đến ẩm độ 14 % cơ sở ướt. Mẫu sấy được làm sạch một

lần nữa để loại bỏ các hạt lép, đo ẩm độ bằng máy Kett (Kett Co. Ltd., Japan), bao gói và chuyển
về phịng thí nghiệm để xác định tỉ lệ nứt gãy và tỉ lệ thu hồi gạo nguyên.
Phân tích và đo đạc
Xác định độ nứt trước khi xay xát (độ nứt hạt tự nhiên trên đồng).
Đây là chỉ tiêu phản ánh nhiều nhất khả năng ảnh hưởng của thời điểm thu hoạch đến độ nứt hạt.
Lấy 3 mẫu nhỏ (150 g) từ mẫu của khối, đảm bảo độ lặp lại của mỗi khối. Mỗi mẫu được bóc vỏ
bằng tay để tránh nứt gãy trong q trình thực hiện. Sau đó, đếm số vết nứt trên hạt (50 hạt) dưới
kính soi phóng đại và tính tỉ lệ nứt.
Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên
Cân chính xác 180 g lúa và đem xay, lấy 100 g trong số đó cho vào máy xát trắng trong 60 giây.
Gạo sau khi được xát trắng được phân loại bằng máy phân loại để tách gạo nguyên, cám và tấm

8


ra khỏi nhau. Sau khi xay, các sản phẩm phụ như lúa sót, trấu được tách khỏi gạo lức và tỉ lệ của
chúng được tính và ghi nhận dựa trên tổng khối lượng lúa đưa vào. Gạo nguyên là các hạt bảo
đảm được ít nhất 75% chiều dài ban đầu sau khi xay xát.
Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý ANOVA (phân tích phương sai) bằng phần mềm thống kê Statgraphics® 3.0
(StatPoint, Inc.).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Tỉ lệ nứt gãy hạt gạo
Tỉ lệ nứt hạt tự nhiên trước xay của 7 giống gạo trong 4 mùa thu hoạch liên tục, mùa mưa 2006,
mùa khô và mưa 2007 và mùa khơ 2008 được trình bày trong Bảng 3. Tỉ lệ nứt gãy gạo tự nhiên
khác biệt đáng kể giữa các ngày thu hoạch đối với từng giống gạo (P<0.05). Thu hoạch lúa sớm
hạn (trước ngày chín sinh lý) thì tỉ lệ hạt nứt ít hơn. Xu hướng chung là tỉ lệ hạt nứt gãy tăng
tương ứng với thời gian thu hoạch trễ hạn so với ngày chín sinh lý (ngày 0). Ví dụ, đối với tất cả
giống gạo, tỉ lệ nứt gãy hạt đạt đỉnh điểm tại ngày thứ 6 sau ngày chín sinh lý là ngày thu hoạch
trễ nhất trong thí nghiệm này (Bảng 3). Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc thu hoạch lúa

đúng thời điểm trong giai đoạn chín sinh lý của hạt. Kết quả của nghiên cứu này trên các giống
gạo Việt Nam phù hợp với các nghiên cứu trước đây cho thấy tác động xấu của tập quán thu
hoạch trễ hạn đến chất lượng gạo về mặt tỉ lệ hạt nứt gãy (Ntanos và ctv 1996, Berrio và ctv
1989). Khi hạt bị phơi q khơ trên đồng (hay trên gié lúa) có thể dẫn đến số lượng hạt nứt gãy
tăng.
Tỉ lệ hạt nứt gãy tăng do thu hoạch trễ cũng phụ thuộc vào giống gạo. Giống gạo OM2517 và
AG24 có số lượng hạt nứt gãy cao sau ngày chín sinh lý lần lượt là 16.00 – 60.53% và 21.47 –
53.07% trong mùa khô 2007 và mùa khô 2008. Ngược lại, tỉ lệ hạt nứt gãy của các giống
IR50404, OM2718, và OM4498 thấp hơn trong cả hai mùa mưa và khô (lần lượt khoảng 0.4 –
12.27%, 3.20-10.80% và 1.07-10.40%) sau ngày chín sinh lý. Kết quả này chứng tỏ tỉ lệ hạt nứt
gãy tùy thuộc vào giống gạo và do đó lựa chọn giống gạo phù hợp để canh tác là một bước quan
trọng để làm giảm tỉ lệ hạt nứt gãy.
Theo dự đoán hạt gạo nứt gãy trên cánh đồng sẽ phụ thuộc vào mùa vụ vì điều kiện thời tiết khác
biệt như nhiệt độ thay đổi đột ngột giữa ngày và đêm, cường độ bức xạ mặt trời, số giờ chiếu
sáng và số lần mưa. Trong mùa mưa, hạt gạo có thể bị nứt trong giai đoạn chín trễ do hiện tượng
hồi ẩm. Trong mùa khơ, hạt có thể bị q khơ tại giai đoạn chín trễ nếu khơng được thu hoạch
đúng thời điểm chín. Tuy nhiên, kết quả tại Bảng 3 trong 4 mùa vụ liên tiếp (mưa 2006, mưa và
khô 2007, và khô 2008) cho thấy mùa vụ không ảnh hưởng nhiều đến tỉ lệ nứt gãy hạt vì trong cả
mùa mưa và khơ đều có chiều hướng tỉ lệ hạt nứt gãy tương tự nhau.

9


Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên
Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên theo thời gian của 7 giống gạo được trình bày trong Bảng 4. Nhìn
chung, tỉ lệ thu hồi gạo nguyên giảm khi thu hoạch trễ. Thu hoạch trễ 4-6 ngày có thể làm giảm tỉ
lệ thu hồi gạo nguyên đến 50% so với tỉ lệ này tại thời điểm hạt chín sinh lý. Tỉ lệ thu hồi gạo
ngun có xu hướng nghịch với tỉ lệ hạt nứt gãy chứng tỏ rằng hạt nứt hiện diện trong hạt lức
ban đầu làm giảm tỉ lệ thu hồi gạo nguyên.
Ảnh hưởng của thời điểm thu hoạch đến kết quả chung được trình bày trong Bảng 5. Lưu ý rằng

tỉ lệ thu hồi gạo nguyên bị ảnh hưởng bởi hệ thống xay xát thí nghiệm do đó tỉ lệ thu hồi gạo
ngun là một hàm số của hiệu suất xay xát. Vì vậy, số liệu tỉ lệ thu hồi gạo nguyên trình bày
trong Bảng 5 mang tính tương đối với tỉ lệ thu hồi tại ngày chín sinh lý (ngày 0) được gán giá trị
100%. Ngồi ra, do số lượng thí nghiệm hạn chế, các giá trị được trình bày theo khoảng khảo sát
đối với từng giống gạo.
Nói chung, thời điểm thu hoạch tối ưu trình bày trong Bảng 5 tương tự thời điểm chín sinh lý
trong Bảng 1 đối với tất cả các giống gạo được khảo sát. Thời điểm thu hoạch đề nghị cho giống
OM 1490 (94 ngày) và OM 2517 (94 ngày) trong mùa mưa dài hơn ngày chín sinh lý khuyến cáo
của trung tâm khuyến nông địa phương là 2-4 ngày. Từ các kết quả trên, có thể kết luận rằng (1)
ngay cả khi lúa được thu hoạch đúng thời điểm, tỉ lệ nứt gãy vẫn khác nhau tùy vào giống gạo và
do đó cơ hội can thiệp ở đây là đề nghị nông hộ canh tác các giống gạo có độ nứt gãy thấp như
OM 2718 và các nhà khoa học phát triển các giống gạo như vậy, (2) tỉ lệ hạt nứt gãy tại thời
điểm thu hoạch tối ưu ít nhưng thu hoạch trễ hạn 6 ngày sẽ dẫn đến tỉ lệ nứt gãy cao và cơ hội
can thiệp là đảm bảo lúa được thu hoạch đúng thời điểm, và (3) tỉ lệ nứt gãy gạo tại từng thời
điểm thu hoạch của các giống gạo là khác nhau, một số giống dễ bị ảnh hưởng hơn các giống
khác như giống OM 2517, vậy cơ hội can thiệp là bảo đảm các giống này được thu hoạch nhanh.
KẾT LUẬN
Thu hoạch gạo sớm hạn vài ngày (trước ngày chín sinh lý) tốt hơn thu hoạch trễ hạn từ 4 đến 6
ngày vì thu hoạch trễ hạn làm cho hạt gạo dễ bị nứt gãy. Do đó, thời điểm thu hoạch càng kéo
dài thì tổn thất càng trầm trọng ngay cả trong trường hợp thu hoạch bằng tay như nghiên cứu
này. Mức độ ảnh hưởng của thời điểm thu hoạch đến tỉ lệ nứt gãy hạt cũng phụ thuộc vào giống
gạo.
LỜI CẢM ƠN
Các tác giả chân thành cảm ơn Chương trình Hợp tác Phát triển Nơng nghiệp và Nơng Thơn
(CARD) đã tài trợ cho nghiên cứu này. CARD là một dự án do Chính phủ Úc tài trợ cho Việt
Nam để tăng cường nông nghiệp và phát triển nông thôn bằng cách áp dụng nghiên cứu, kỹ
thuật, kỹ năng và quản lý cho các nông hộ.

10



TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bal, S., & Oiha, T. P., 1975. Determination of biological maturity and effect of harvesting and
drying conditions on milling quality of paddy. Journal Agricultural Engineering Resource,
20, 353-361.
Berrio, L. E., & Cuevas-Perez, F. E., 1989. Cultivar differences in milling yields under delayed
harvesting of rice. Crop Science, 24, 1510-1512.
Calderwood, D. L., Bollich, C. N., & Scott, J. E., 1980. Field drying of rough rice: Effect on
grain yield, milling quality energy saved. Agronomy Journal, 72, 644-653.
Chae, J. C., & Jun, D. K., 2002. Effect of harvesting date on yield and quality of rice. Korean J.
Crop Sci., 47(3), 254-258.
Champagne, E. T., Bett-Garbet, K. L., Thompson, J., Mutters, R., Grimm, C. C., & McClung, A.
M., 2005. Effects of Drain and Harvest Dates on Rice Sensory and Physicochemical
Properties. Cereal Chemistry, 82(4), 369-274.
Chau, N. N., & Kunze, O. R., 1982. Moisture content variation among harvested rice grains.
Transactions of the ASAE, 25(4), 1037-1040.
Kester, E. B., Lukens, H. C., Ferrel, R. E. M., A., & FIinfrock, D. C., 1963. Influences of
maturity on properties of western rice. Cereal Chemistry, 40, 323-326.
Kunze, O. R., & Prasad, S., 1978. Grain fissuring potentials in harvesting and drying of rice.
Transactions of the ASAE, 21(2), 361-366.
Ntanos, D., Philippou, N., & Hadjisavva-Zinoviadi, S., 1996. Effect of rice harvest on milling
yield and grain breakage. CIHEAM-Options Mediterraneennes, 15(1), 23-28.
Swamy, Y. M. I., & Bhattacharya, K. R., 1980. Breakage of rice during milling- Effect of kernel
defects and grain dimension. Journal of Food Process Engineering, 3, 29-42.

11


Hình 1. Minh họa bố trí thí nghiệm ngày thu hoạch cho mỗi giống gạo.


1.5 m

Mỗi lơ có chiều dài 2 m và chiều rộng 1 m và đường biên quanh khu vực thu hoạch là 1.5 m.

1A

3B

4C

5D

7E

2A

1B

3C

6D

4E

3A

5B

1C


7D

6E

4A

2B

6C

3D

5E

5A

6B

7C

1D

2E

6A

7B

2C


4D

3E

7A

4B

3C

2D

1E

1m

1m

2m

12


Bảng 3. Tỉ lệ nứt gãy hạt của bảy giống gạo trước và sau ngày CSL trong hai năm canh tác
Giống

Mùa vụ

gạo


Tỉ lệ hạt nứt gãy (%) trước và sau ngày CSL
-6

-4

-2

0

+2

+4

+6

OM1490 Mưa‘06

0.80a

3.20a

9.60bc

4.80ab

10.80bc

15.20c

23.60d


Khô ‘07

1.87a

0.53a

2.27a

2.80a

5.60a

14.40b

22.40c

Mưa ‘07

2.00a

2.13a

2.27a

1.07a

1.33a

2.13a


2.40a

Mưa ‘06

0.40a

0.40a

1.20a

2.80a

10.80b

4.00a

5.20ab

Khô ‘07

2.40a

0.67a

6.27b

2.00a

3.20a


7.20b

8.53b

OM2517 Khô ‘07

1.47a

2.00a

3.60a

5.73a

16.00b

33.60c

60.53d

Mưa ‘07

3.47a

10.27b

15.73bc

18.67c


12.13b

12.67b

20.27c

Khô ‘08

0.67a

1.73a

3.33a

8.13b

9.33b

14.13c

25.73d

OM4498 Khô ‘07

3.73a

1.07a

1.47a


1.47a

1.07a

2.93a

9.33b

Mưa ‘07

2.53a

3.73ab

3.87ab

4.67ab

8.93b

10.40c

8.13ab

Mưa‘06†

1.33a

0.13a


1.60a

0.53a

1.33a

5.47b

5.47b

Khô ‘08

6.50a

18.17bc

16.44bc

17.67ab

21.47bc

32.40c

53.07d

Mưa ‘07

1.47b


1.60b

1.07b

0.67a

0.93ab

0.4a

1.33b

Khô ‘08

0.80a

1.47a

2.80a

1.07a

1.73a

1.60a

12.27b

Mưa‘06†


4.00a

3.90a

5.18ab

5.14ab

6.00ab

8.66c

7.60bc

0M2718

AG24
IR50404

Jasmine

Số liệu là giá trị trung bình của năm lần lặp lại. Các chữ giống nhau trong cùng một hàng biểu thị
các giá trị khác biệt không đáng kể (P>0.05).


thu hoạch trong ‘mùa mưa trễ’ vào tháng chín 2006.

13



Bảng 4. Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên của bảy giống gạo biến thiên theo thời gian thu hoạch
khác nhau (sau ngày CSL dự tính)
Giống

Mùa vụ

gạo

Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên (%) trước và sau ngày CSL
-6

-4

-2

0

+2

+4

+6

OM1490 Mưa ‘06

51.06cd

52.30d


50.73cd

48.08c

42.23b

36.51a

34.53a

Khô ‘07

63.13bc

66.21c

66.93c

67.90c

64.57bc

60.25ab

56.35a

Mưa ‘07

50.03a


45.10a

52.15a

45.56a

49.81a

49.26a

49.01a

Mưa ‘06

45.41c

51.47d

43.54bc

43.91bc

38.76ab

36.83a

40.72abc

Khô ‘07


67.93b

67.01b

66.40b

67.48b

66.22b

63.81a

62.41a

OM2517 Khô ‘07

64.58d

41.09b

45.19b

56.68c

53.18c

43.74b

28.63a


Mưa ‘07

48.01c

44.16bc

37.88a

42.19ab

44.47bc

49.24c

44.34bc

Khô ‘08

65.68c

65.36c

64.67c

59.84c

60.55b

55.29a


52.90a

OM4498 Khô ‘07

43.80a

54.35bc

54.02bc

58.33d

56.95cd

53.78bc

52.55b

Mưa ’07

36.64a

37.77a

35.83a

39.35ab

37.87ab


42.42b

35.35a

Mưa ‘06†

40.35b

42.35bc

40.76b

43.50bcd

46.99d

35.90a

35.35a

Khơ ‘08

61.66c

55.42bc

52.38b

42.62a


43.55a

36.48a

37.94a

Mưa ‘07

58.08c

56.94b

57.79c

53.27a

56.54bc

55.67abc

54.55ab

IR50404

Khơ ‘08

64.28de

61.75cd


64.57e

60.28c

57.40b

56.99b

51.68a

Jasmine

Mưa‘06†

41.59a

54.65c

51.82bc

55.36c

54.59bc

48.15b

49.46bc

0M2718


AG24

Số liệu là giá trị trung bình của năm lần lặp lại. Các chữ giống nhau trong cùng một hàng biểu thị
các giá trị khác biệt không đáng kể (P>0.05).


thu hoạch trong ‘mùa mưa trễ’ vào tháng chín 2006.

14


Bảng 5. Ảnh hưởng của thời gian thu hoạch trước và sau ngày CSL theo mùa vụ (4-6 ngày
trước và 4-6 ngày sau ngày CSL dự tính) đến tỉ lệ hạt nứt gãy (trước xát) và tỉ lệ thu hồi
gạo nguyên. Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên được biểu diễn theo giá trị tương đối so với ngày CSL.
Mùa vụ

Giống

Tỉ lệ hạt nứt gãy %

Ngày thu

tương đối %

gạo

Tỉ lệ thu hồi gạo ngun

hoạch tối


Trước chín

Sau chín

ưu

OM1490

0.8-9.6

1.1-23.6

101-109

72-88

94

0.4-1.2

4.0-10.8

103-117

84-93

92

OM2517


3.5-15.7

12.1-20.3

90-114

105-117

94

OM4498

2.5-3.9

8.1-10.4

91-93

96-108

94

AG24

0.3-1.5

1.1-4.1

93-97


83-108

94

IR50404

1.1-1.5

0.4-1.3

103-105

99-106

90

Jasmine
Khơ

Trước chín

OM2718

Mưa

Sau chín

4.0-4.5

6.0-7.7


75-99

87-99

98

OM1490

0.5-2.3

5.6-22.4

93-99

83-95

92

OM2718

0.7-6.3

3.2-8.5

98-101

92-98

92


OM2517

0.7-3.6

9.3-60.5

77-106

51-97

86

OM4498

1.1-3.7

1.1-9.3

75-93

90-98

91

AG24

6.5-16.4

21.5-53.1


133-145

86-102

88

IR50404

0.8-2.8

1.7-12.3

105-107

86-95

88

15



×