Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Bài tiểu luận địa lý kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.7 KB, 23 trang )

Trang số 1

BÀI TIỂU LUẬN ĐỊA LÝ KINH TẾ
Họ và tên: Vũ Thị Thu Loan
Lớp: CQ.61.KTBC
MSSV: 6154021025
Môn thi: Địa lý kinh tế 2-20 KTBC (KBC 301.2)
Đề bài tiểu luận: Dân cư và nguồn lao động ở Việt Nam. Phân tích sức ép dân số của địa
phương đối với vấn đề phát triển kinh tế xã hội và tài nguyên môi trường?

1

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 2

MỤC LỤC
.

Trang

LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................................4
PHẦN I: Khái quát chung về dân cư và nguồn lao động
PHẦN II: Nội dung-Giải quyết vấn đề......................................................................................
I. Dân cư và nguồn lao động việt nam..................................................................................
II.Sức ép dân số của địa phương đối với vấn đề phát triển kinh tế xã hội và tài nguyên môi
trường.................................................................................................................................
PHẦN III: Kết luận....................................................................................................................

..



2

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 3

LỜI MỞ ĐẦU
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô Phạm Thị Hằng.Trong q
trình học tập và tìm hiểu bộ mơn Địa lý kinh tế em đã nhận được sự quan tâm hướng dẫn rất
tận tình của Cơ.Cơ đã giúp em có cái nhìn sâu sắc và tồn diện hơn về mơn học Địa lý kinh
tế,về việc tổ chức và phân bố không gian của các hoạt động kinh tế trên đất nước ta.Từ
những kiến thức được cô truyền tải em đã dần nắm bắt và hiểu hơn về vai trò của dân cư và
nguồn lao động Việt Nam trong việc phát triển kinh tế đất nước.
Xuất phát từ lịch sử của đất nước cũng như đặc điểm phát triển kinh tế đất nước từ quá
khứ cho đến hiện tại và tương lai.Bắt đầu từ quá trình dựng nước và giữ nước ,nước ta đã trải
qua nhiều cuộc chiến tranh cũng như đứng trước bao thách thức,đặc biệt là đối với một nền
kinh tế nông nghiệp là chủ yếu như nước ta. Cho đến nay mặc dù nền kinh tế nước ta đã
vững vàng và đang trên đà phát triển, nhưng sự phát triển đó cịn hạn chế bởi nhiều yếu tố,
những yếu tố nội bộ và những yếu tố khách quan bên ngồi. Trong đó yếu tố nội bộ cần đề
cập và xem xét, nghiên cứu, phân tích đó là dân cư và nguồn lao động. Vì vậy em quyết định
chọn đề tài : “Dân cư và nguồn lao động ở Việt Nam. Phân tích sức ép dân số của địa
phương đối với vấn đề phát triển kinh tế xã hội và tài nguyên môi trường?” để nghiên cứu
trong bài tiểu luận này.
Do chưa có kinh nghiệm nghiên cứu và làm đề tài cũng như những hạn chế về kiến thức,
trong bài tiểu luận chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự
nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía Cơ(thầy) để bài tiểu luận được hồn thiện hơn.
Lời cuối cùng, em xin kính chúc quý cô(thầy) nhiều sức khỏe, thành công và hạnh phúc.


I.Khái quát chung về dân cư và nguồn lao động
3

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 4

1. Dân cư
Dân số và dân cư, hai khái niệm tuy có vẻ là có cùng một nét nghĩa, đều chỉ người thuộc một
địa phương nhưng chúng không có nghĩa hồn tồn giống nhau.
Sự khác biệt của dân số và dân cư là dân số có nghĩa hẹp hơn dân cư.
Dân số là tập hợp những người trong một lãnh thổ hoặc một quốc gia. VD: dân số Việt Nam,
dân số Hà Nội... Khái niệm dân số được nghiên cứu ở góc độ quy mơ và cơ cấu (quy mơ là
khái niệm chỉ số người, cịn cơ cấu gồm có cơ cấu độ tuổi và cơ cấu giới tính).
Dân cư là tập hợp những con người cùng cư trú trên một lãnh thổ nhất định VD: dân cư miền
núi, dân cư Hà Nội, dân cư Việt Nam... Như vậy nếu dân số là khái niệm chỉ lượng người tồn
tại trên một lãnh thổ thì dân cư là khái niệm chỉ lượng người sinh sống trên lãnh thổ đó.
Khái niệm dân cư được nghiêm cứu ở góc độ quy mô, cơ cấu và chất lượng. Chất lượng dân
cư bao gồm các vấn đề kinh tế, văn hóa, sức khỏe, ngơn ngữ... Vì bao gồm cả góc độ chất
lượng nên dân cư là đối tượng nghiên cứu chung của nhiều môn khoa học như Y học, Kinh tế
học, Ngôn ngữ học,Địa lý học ...
2. Nguồn lao động và lực lượng lao động
Lao động là hoạt động có mục đích của con người, trong quá trình lao động, con người vận
dụng sức lực của bản thân, sử dụng công cụ lao động để tác động vào các yếu tố tự nhiên,
biến đổi chúng và làm cho chúng trở nên có ích cho đời sống của con người.
Trong phát triển kinh tế, quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động
để đưa các tư liệu lao động vào sản xuất để tạo ra sản phẩm, của cải vật chất cho xã hội.
Nguồn lao động và lực lượng lao động là những khái niệm có ý nghĩa quan trọng làm cơ sở
cho việc xác định và tính tốn cân đối lao động – việc làm trong xã hội.

Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật có
khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động đang làm việc trong các ngành
kinh tế quốc dân.
Việc quy định cụ thể về độ tuổi lao động là khác nhau giữa các quốc gia, thậm chí khác nhau
qua các thời kỳ trong cùng một quốc gia, tùy thuộc trình độ phát triển của nền kinh tế. Đa số
các nước quy định cận dưới (tuổi tối thiểu) của độ tuổi lao động là 15 tuổi, còn cận trên (tuổi
tối đa) có sự khác nhau (60 tuổi, hoặc 65 tuổi…). Ở nước ta, theo quy định của Luật Lao
động (1994), độ tuổi lao động đối với nam từ 15 tuổi đến 60 tuổi và nữ là từ 15 tuổi đến 55
tuổi.Hiện nay, quy định độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động tại Việt Nam là 15 tuổi
trừ một số trường hợp đặc biệt theo luật định.
Hiện nay, tuổi nghỉ hưu đối với nam là từ đủ 60 tuổi và với nữ là từ đủ 55 tuổi. Theo quy
định mới tại Bộ Luật Lao động năm 2019 thì độ tuổi nghỉ hưu đối với những người làm việc
4

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 5

trong điều kiện lao động bình thường sẽ được điều chỉnh theo lộ trình. Bắt đầu từ 01 tháng 01
năm 2021, tuổi nghỉ hưu đối với lao động nam làm việc trong điều kiện bình thường sẽ là 60
tuổi 03 tháng và sau đó cứ mỗi năm tăng lên 03 tháng cho đến khi đủ 62 tuổi vào năm 2028.
Đối với nữ lao động làm việc trong điều kiện bình thường sẽ là 55 tuổi 04 tháng, sau đó mỗi
năm tăng thêm 04 tháng cho đến khi đủ 60 tuổi vào năm 2035.
Nguồn lao động luôn được xem xét trên 2 mặt biểu hiện là số lượng và chất lượng.
Xét về mặt số lượng, nguồn lao động bao gồm:
-

Bộ phân dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm.


- Và dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi
học, đang làm cơng việc nội trợ trong gia đình, khơng có nhu cầu làm việc và những người
thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ hưu trước tuổi quy định).
Xét về mặt chất lượng, nguồn lao động
Chất lượng của nguồn lao động về cơ bản được đánh giá ở trình độ chun mơn, tay
nghề (trí lực) và sức khoẻ (thể lực) của người lao động.
Lực lượng lao động theo quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) là bộ phận dân
số trong độ tuổi lao động theo quy định, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp
song đang có nhu cầu tìm việc làm.
Ở nước ta hiện nay, lực lượng lao động được xác định là bộ phận dân số đủ 15 tuổi trở lên
có việc làm và những người thất nghiệp. Lực lượng lao động theo quan niệm như trên là
đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế và nó phản ánh khả năng thực tế về cung ứng lao
động của xã hội.
II. Đặc điểm Dân cư và nguồn lao động Việt Nam:
1. Vai trò của dân cư và nguồn lao động trong tổ chức lãnh thổ kinh tế:
Dân cư và nguồn lao động là lực lượng tiên quyết mọi hoạt động kinh tế - xã hội, là nguồn
lực sáng tạo mọi quy trình cơng nghệ, làm ra mọi của cải và sản phẩm xã hội, ảnh hưởng trực
tiếp tới sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Dân số là một nguồn lực quan trọng để phát triển nền kinh tế.Với dân số đơng nước ta có
nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ rộng lớn.Song trong điều kiện nước ta hiện nay
dân số đông là một trở ngại trong việc phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân.
Trong nền kinh tế thị trường, nguồn lực lao động cũng được xem như một yếu tố đầu vào
của sản xuất, do đó nó có liên quan tới giá cả sức lao động, tiền lương và thất nghiệp, phúc
5

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 6


lợi công cộng và an sinh xã hội, địi hỏi phải có sự điều tiết của chính phủ hay chính quyền
địa phương.
Dân cư và các nguồn lao động đồng thời là lực lượng tiêu thụ chủ yếu mọi sản phẩm xã
hội. Nhu cầu tiêu dùng của dân cư ngày càng to lớn, phức tạp, khó dự báo ảnh hưởng nhiều
tới tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội vùng.
Dân cư và các nguồn lao động cũng là một yếu tố tác động tới môi trường: đi lại, tiếng ồn,
trật tự trị an, rác thải sinh hoạt, thu hẹp đất sản xuất, mở rộng đất thổ cư...
Nước ta có 54 dân tộc anh em.Hiện nay việc phát triển kinh tế giữa các thành phần dân tộc
nước ta vẫn cịn có sự chệnh lệch rõ rệt.Vì vậy phải chú trọng hơn nữa việc phát triển kinh tế
ở các vùng dân tộc ít người.
Dân cư và các nguồn lao động vốn khó di chuyển đi xa, vì vậy khi lựa chọn địa điểm kinh
doanh, sản xuất, quy hoạch vùng, nên giảm bớt những xáo trộn, di chuyển dân cư nhiều:
phân bố dân cư ảnh hưởng tới phân bố sản xuất. Và ngược lại, việc phát triển kinh tế - xã hội
ở những vùng thưa dân sẽ tạo ra sức hút đối với dân cư và các nguồn lao động từ các vùng
khác tới: phân bố sản xuất ảnh hưởng tới phân bố dân cư.
2. Đặc điểm, phân bố dân cư và nguồn lao động Việt Nam:
2.1 .Dân số, mật độ, sự phân bố và di động dân cư
a. Việt Nam là một nước đông dân, mật độ dân số lớn.
Đông dân
Dân số Việt Nam theo số liệu tổng điều tra dân số 1/4/1989 là 64,5 triệu người,
năm 1999 là 76,5 triệu người, năm 2003 là 80,9 triệu người và năm 2009 là 86,024
triệu người. Với số dân này, Việt Nam đứng thứ 14 trong tổng số hơn 220 quốc gia và
lãnh thổ trên thế giới.
Dân số Việt Nam tính đến ngày 04/07/2021 là 98.176.244 người.Đây là số liệu mới nhất từ
liên hợp quốc (UN).
Dân số VN .......
Mật độ dân số lớn
Mật đô.......
Với .......
Độ tuổi tb.......

* thuận lợi:
- Là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế đất nước.
- Có nguồn lao động dồi dào.
- Có thị trường tiêu thụ rộng lớn.
* khó khăn:
6

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 7

- Là 1 trở ngại lớn cho việc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
người dân.
b. Dân cư Việt Nam phân bố khơng đều giữa các vùng trong nước và tính chất
bất hợp lý trong phân bố dân cư được thể hiện:
+ Dân cư tập trung đông đúc nhất ở hai vùng đồng bằng lớn của nước ta.
+ Dân cư phân bố thưa thớt nhất ở 3 vùng núi và cao ngun.
+ Dân cư phân bố khơng đều trên bình diện vĩ mô (giữa các vùng) và vi mô (ở các đơn
vị hành chính - lãnh thổ cấp thấp hơn
Sự phân bố dân cư không đông đều do tác động của nhiều yếu tố như: lịch sử định cư,trình
độ phát triển kinh tế xã hội,mức độ màu mỡ của đất đai,....Tính chất không đông đều này thể
hiện rõ rệt giữa các vùng và ngay trong nội bộ từng vùng lãnh thổ.
Tình hình phân bố dân cư như vậy đã gây ra khó khăn cho việc sử dụng hợp lý nguồn lao
động và việc khai thác nguồn tài nguyên hiện có ở mỗi vùng.
Sự phân bố dân cư ở đồng bằng:
Đồng bằng là nơi dân cư trú với mật độ cao nhất, trên lãnh thổ chưa đầy 1/4 diện tích
đã tập trung hơn 3/4 số dân cả nước.
Mật độ dân số cao có quan hệ trực tiếp với nền nơng nghiệp trồng lúa nước
thâm canh và cơ cấu ngành đa dạng. Sự hiện diện của các thành phố và các trung tâm

công nghiệp lớn cũng góp phần vào việc tăng mật độ dân số của đồng bằng.
- Đồng bằng sông Hồng: Trên diện tích 21.063,1km2 có tới 19.625.000 người. Dân cư
tập trung nhiều nhất ở Hà nội: 6.472,2 người/km2; Bắc Ninh: 1.026,7 người/km2;
Hưng Yên 1.131,2 người/km2 , Nam Định: 1.826,3 người/km2; Hải Phịng: 1.841,7
người/km2 .
- Đồng bằng sơng Cửu Long: Có diện tích 40.518,5km2 và dân số 17.213.000 người.
Các tỉnh có mật độ dân số cao là Cần Thơ: 849 người/km2; Vĩnh Long: 696
người/km2; Tiền Giang: 674 người/km2 . Ở phần Tây Nam của đồng bằng mới được
khai phá nên dân cư còn thưa thớt hơn những nơi khác: Cà Mau: 226 người/km2 .
-Đồng bằng duyên hải miền Trung: Đồng bằng này nhỏ hẹp, tiềm năng nông
nghiệp không lớn bằng 2 đồng bằng trên nên mật độ dân số không cao lắm (khoảng
hơn 197 người/km2), những vùng có mật độ dân số cao thường gắn với việc trồng lúa
nước, làm nghề thủ công và đánh bắt cá ven biển hoặc trung tâm cơng nghiệp như Đà
Nẵng: 694 người/km2; Thanh Hóa: 306 người/km2; nơi thưa nhất là Quảng Bình: 105
người/km2 .
Sự phân bố dân cư ở trung du và miền núi:
7

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 8

Nước ta có 3/4 diện tích là đồi núi, có nhiều nguồn lực để phát triển kinh tế nhưng
dân cư còn thưa thớt. Đây cũng là địa bàn cư trú của các dân tộc ít người, một mặt nó
phản ánh trình độ phát triển kinh tế, một mặt nó thể hiện sự ảnh hưởng của địa hình
đến phân bố dân cư. Nhìn chung địa hình càng cao thì mật độ dân số càng thấp.
Giữa các vùng trung du và miền núi, mật độ dân số cũng rất khác nhau: Tây Nguyên
(700 - 1000m) có tài nguyên phong phú, đặc biệt là nguồn đất bazan nhưng sự phân bố
dân cư thì khơng tương xứng với nguồn tài ngun của vùng. Nếu tính theo tỉnh thì

Kon Tum là tỉnh có mật độ dân số thấp nhất: 45 người/km2
- Vùng trung du, miền núi : mật độ dân số thấp, nhưng tập trung nhiều tài nguyên thiên
nhiên quan trọng của đất nước.
Sự phân bố dân cư ở thành thị và nông thôn:
Tổng số dân thành thị của nước ta năm 2009 sơ bộ gần 25,4 triệu người
Tỷ lệ dân thành thị nước ta từ ngày giải phóng đến 1994 thay đổi không đáng kể,
dao động trên dưới 20%, chỉ trong những năm gần đây khi tốc độ đơ thị hóa tăng
nhanh thì tỷ lệ này mới cao được nâng lên, năm 2009 đạt 29,53%, cịn lại là dân cư
nơng thơn 70,47%.
Gần 41% dân cư đô thị tập trung ở 5 thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng
Cần Thơ và TP Hồ Chí Minh. Phần lớn các thành phố, thị xã nằm ở các vùng đồng
bằng ven biển. Có 8 tỉnh dân cư đô thị chỉ chiếm dưới 10% dân số, chứng tỏ nền kinh
tế ở đó cịn chủ yếu dựa vào nông nghiệp năng suất thấp và công thương nghiệp dịch
vụ chưa phát triển như Hà Tây, Thái Bình, Hà Nam, Tun Quang, Bắc Giang, Lai
Châu, Thanh Hóa, Bến Tre.
Với q trình đơ thị hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, ở trung du và miền núi, nhiều
đô thị nhỏ ra đời trong q trình cơng nghiệp hóa và trong tương lai sẽ tạo điều kiện
làm giảm dần sự chênh lệch về phân bố dân cư giữa thành thị và nông thôn.
c. Các hướng chuyển cư:
- Hướng di chuyển từ đồng bằng lên miền núi và cao nguyên
- Hướng di chuyển Đông - Tây là phổ biến ở nhiều vùng, nhiều tỉnh, vào những năm 60 ở các
tỉnh phía Bắc và vào những năm 1975 - 1985 ở các tỉnh phía Nam.
- Hướng di chuyển Bắc - Nam là hướng di chuyển lịch sử, hình thành từ những thế kỷ trước
và đang còn tiếp diễn do mật độ dân cư miền Nam còn chưa cao lắm và phần lớn đất đai, tài
nguyên mới được khai thác trong vài ba thế kỷ gần đây, đang còn nhiều sức hấp dẫn đối với
các nguồn dân cư và lao động ở các vùng phía Bắc.
Ngồi 3 hướng chính kể trên, ở nước ta hiện nay cịn có một vài hướng di động khác như:
từ cao xuống thấp do việc định canh, định cư của đồng bào rẻo cao; từ phân tán tới tập trung
do quy hoạch nông thôn và đô thị hóa từ nội đồng ra ven biển và hải đảo do phát triển kinh tế
8


Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 9

biển, quốc phịng; dầu khí, du lịch, nghỉ mát... Việc thực hiện nền kinh tế mở, tham gia thị
trường thế giới về dịch vụ, sức lao động, vốn đầu tư cũng đang hình thành những hướng di
động mới của dân cư.
*Hiện tại hướng di dân từ nông thôn lên thành thị đang chiếm tỷ lệ cao:
- Di dân từ nông thôn đến thành thị nguyên nhân chủ yếu do người dân tìm kiếm việc làm
hoặc tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn đã trở thành một phần của quá trình tăng trưởng kinh tế
nhanh; đồng thời, cũng tạo ra những thách thức lớn cần phải giải quyết trong quá trình phát
triển kinh tế – xã hội. Vì vậy, cần có sự quan tâm của Nhà nước và chính quyền địa phương
từ góc độ chính sách đối với vấn đề di dân.
- Thực trạng của di dân từ nông thôn đến thành thị thời gian qua:
+ Trong thập niên vừa qua, q trình cơng nghiệp hóa và đơ thị hóa đang diễn ra sự tăng
trưởng mạnh mẽ về dân cư ở các vùng thành thị. Đồng thời, lối sống đơ thị ngày càng được
định hình rõ nét. Đặc điểm nhân khẩu học của dân cư thành thị khác biệt đáng kể so với dân
cư nông thôn, như: quy mô gia đình ở thành thị nhỏ hơn; người dân thành thị kết hơn muộn
hơn và có ít con hơn. Dân cư thành thị cũng có nhiều lợi thế so với dân cư nơng thơn trong
q trình phát triển: điều kiện nhà ở tốt hơn, có nhiều cơ hội tiếp cận với tiện nghi cuộc sống
như điện lưới, nước hợp vệ sinh và điều kiện học tập cũng như được làm việc trong mơi
trường địi hỏi được đào tạo chun mơn. Những lợi thế này thể hiện rõ nét tại những địa bàn
có mức độ đơ thị hóa cao. Điều này càng làm tăng thêm sức hấp dẫn của các thành phố lớn
và thúc đẩy sự tăng trưởng dân số mạnh mẽ ở các khu vực này.
+ Việt Nam là một trong những nước có tốc độ đơ thị hóa cao nhất Đông Nam Á. Năm 1986
tỷ lệ dân cư sống tại đơ thị Việt Nam chiếm khoảng 19%, thì đến năm 2013 tỷ lệ này đạt gần
34%. Năm 2019, dân số thành phố Hà Nội khoảng 8 triệu dân; TP. Hồ Chí Minh hơn 10 triệu
dân, thuộc diện các thành phố lớn nhất của khu vực 1. Với tốc độ phát triển đơ thị hóa và dân

số thành thị gia tăng như hiện nay, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp nảy
sinh, như: thiếu việc làm; thiếu hụt nhà ở; ô nhiễm môi trường… Điều đó địi hỏi cần có sự
quan tâm lớn hơn đến vấn đề đơ thị hóa ở Việt Nam hiện nay.
+ Di cư chủ yếu vì lý do học tập và lao động nên phần lớn người di cư có độ tuổi 15-39 tuổi,
chiếm tỷ lệ 84% so với tổng số người di cư. Những vùng có điều kiện kinh tế thuận lợi có tỷ
lệ người di cư đến rất cao, ví dụ: vùng Đơng Nam Bộ có tỷ lệ người di cư đang làm việc cao
nhất nước (87,8%); đồng bằng sơng Hồng (81%)… Hiện tượng “nữ hóa” di cư đang gia tăng,
với 52,4% người di cư là nữ2. Tại một số tỉnh, tỷ lệ hộ gia đình có ít nhất một người di cư
9

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 10

(vĩnh viễn hoặc tạm thời) cao hơn hẳn các tỉnh khác. Ví dụ: Nghệ An là 47%, Quảng Nam,
Đắc Lắc, Lâm Đồng là 27- 28%. Tính chung trong năm 2014, có 73% số người di cư di
chuyển từ tỉnh này sang một tỉnh khác, 47% số người đến các trung tâm lớn như Hà Nội hoặc
TP. Hồ Chí Minh và 10% ra nước ngoài, tăng nhiều so với tỷ lệ 1% năm 2012.
- Yếu tố ảnh hưởng tới di dân từ nông thôn ra thành thị
+ Thứ nhất, nhu cầu việc làm. Di dân lên thành phố là một hiện tượng kinh tế – xã hội mang
tính quy luật, là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường nhưng cũng là
biểu hiện của sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền của đất nước. Trước đây,
vấn đề di dân lên thành phố chịu sự chi phối mạnh mẽ của chế độ tuyển dụng lao động theo
kế hoạch, quản lý lao động theo hộ khẩu.
Với điều kiện kinh tế – xã hội hiện tại, di cư là tất yếu, trong đó di cư nội địa có những đóng
góp quan trọng và khơng thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam.
Với việc đáp ứng phần lớn nhu cầu việc làm do phát triển khu công nghiệp, đầu tư trực tiếp
và chuyển một phần tiền thu nhập về những khu vực nghèo hơn ở Việt Nam, di cư đã tạo ra
cơ hội đáng kể cho sự phát triển đồng đều hơn và rộng rãi hơn, góp phần giảm sự chênh lệch

giữa các vùng miền (UNDP, 2012). Người di cư ra thành phố chủ yếu đến các khu cơng
nghiệp để tìm việc làm, xu hướng này bắt nguồn từ q trình đơ thị hóa và sự phát triển
nhanh chóng của các khu cơng nghiệp, khu chế xuất, làm giảm đáng kể diện tích đất đai sản
xuất nơng nghiệp.
+ Thứ hai, cơ chế quản lý của nhà nước. Nhà nước ban hành hệ thống chính sách kinh tế vĩ
mơ hướng vào thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước trên cơ sở đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Các chính sách này tác động mạnh đến q trình cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa,
qua đó, tạo ra nhu cầu rất lớn về lao động, tạo sức hút hấp dẫn lao động di cư tới thành phố.
Các chính sách khác như: chính sách khuyến khích đầu tư trong nước và FDI; chính sách
khuyến khích phát triển doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa ngồi quốc doanh;
chính sách đất đai, tín dụng và thuế; chính sách khuyến khích phát triển ngành, nghề nơng
thơn; chính sách phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục, đào tạo và dạy nghề là các
chính sách vĩ mơ tác động vào tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều việc làm và tăng tổng cầu lao
động phi nông nghiệp để tạo nhu cầu thúc đẩy thu hút lao động tới đô thị6.
+ Thứ ba, di dân vì nhu cầu thay đổi cuộc sống. Một bộ phận dân cư nông thôn di dân lên
thành phố chủ yếu muốn thay đổi số phận và cuộc sống của mình. Khơng muốn khép mình
dưới những lũy tre làng với những điều kiện khắt khe về hương ước của làng. Một số người
dân mong muốn thoát khỏi sự ràng buộc, tìm đến đơ thị, nơi có cuộc sống văn minh, hiện đại
hơn với cơ ở hạ tầng kỹ thuật tốt hơn để học tập và phát triển… Nhóm này thuộc nhóm
người di dân “dịch cư”, họ làm việc tại thành phố và định cư lâu dài. Đối với nhóm di dân
10

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 11

này, họ không làm ảnh hưởng nhiều đến vấn đề nhà ở của đô thị, họ tự lo được nhà ở và một
số sử dụng nhà ở xã hội do Nhà nước cung cấp.
- Thách thức đặt ra cho việc phát triển kinh tế – xã hội tại các đô thị lớn

+ Lao động di cư thường gặp khó khăn về tiếp cận các dịch vụ xã hội, có 90% lao động di
cư gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội công, 70% không tiếp cận
được các dịch vụ y tế công và chỉ có 44% có bảo hiểm y tế và sử dụng thẻ bảo hiểm y tế. Tỷ
lệ người lao động di cư có bảo hiểm y tế thấp một phần do nhận thức, một phần do gặp khó
khăn về hộ khẩu và thủ tục phức tạp nên khó khăn khi mua. Nhóm lao động này thường tập
trung trong khu vực phi chính thức, làm các cơng việc như thu gom rác, bán hàng rong, giúp
việc trong gia đình hoặc các cơ sở dịch vụ nhỏ lẻ… Họ khơng có hợp đồng lao động, khơng
có bảo hiểm y tế để hỗ trợ giảm thiểu những rủi ro khi bị ốm đau, tai nạn lao động, tuổi già…
+Bên cạnh đó, hầu hết lao động phi chính thức thường khơng có bảo hiểm xã hội chiếm
97,9% và chỉ có 0,2% được đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, cịn lại 1,9% đóng bảo hiểm xã
hộitự nguyện, điều này dễ dẫn đến tình trạng người lao động khơng có cơ hội thụ hưởng
những chính sách an sinh xã hội của Nhà nước, nhất là khi hết độ tuổi lao động. Các nhóm di
dân này đang trong độ tuổi lao động và chủ yếu là phụ nữ di dân vì lý do kinh tế. Với số
lượng di dân đông và phức tạp về thành phần xã hội về giới, về trình độ lao động… sẽ làm
cho việc giải quyết nhà ở tại các đô thị thêm gánh nặng và phức tạp hơn, trong đó có thành
phố Hà Nội.
+ Do dân số đơ thị tăng nhanh, nhóm người thu nhập thấp ngày càng tăng cao đã làm giảm
diện tích bình qn nhà ở xã hội xuống thấp. Bên cạnh đó, nhiều khu nhà ở xã hội do đã hư
hỏng, xuống cấp, khơng cịn an tồn cho người sử dụng. Đối với người di dân từ nơng thơn
lên đơ thị tìm kiếm làm việc thì vấn đề nhà ở càng khó khăn hơn. Hiện chưa có những chính
sách giải quyết nhà ở cho đối tượng này, họ đang phải tá túc vỉa hè, công viên, gầm cầu, khu
vực chứa rác thải thành phố hoặc phải thuê nhà ở trọ tại các khu nhà ổ chuột tồi tàn, tạm bợ
với giá cao hơn nhiều so với mức thu nhập của họ. Do việc làm và mức thu nhập bấp bênh,
không ổn định nên người di dân phải thuê nhà theo ngày và tập trung hàng chục người ở
trong một không gian chật hẹp, vừa ăn, ở sinh hoạt trong cùng một không gian. Các khu ở trọ
này về vấn đề an ninh trật tự không được bảo đảm, chất lượng mơi trường sống kém, chất
thải khí và các chất độc hại khác đang làm cho chất lượng cuộc sống của người di dân ngày
một tồi tệ hơn, nhiều tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm ngày càng gia tăng.
- Một số giải pháp cần thực hiện.
(1) Đầu tư cơ sở hạ tầng toàn diện cho các tỉnh và tính tốn lại cơ cấu kinh tế của các

vùng. Đối với các đô thị lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng… nên hạn chế phát
11

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 12

triển các ngành, nghề thu hút nhiều lao động phổ thơng, ít đầu tư chất xám và giá trị gia tăng
không cao. Để các doanh nghiệp trụ được tại các tỉnh để thu hút lao động thì Nhà nước cần
chú ý đầu tư hạ tầng hoàn thiện như: đường, bến cảng, nhà ga cả trong các khu kinh tế, khu
cơng nghiệp và bên ngồi; đồng thời, phát triển tại chỗ cơ sở vật chất phục vụ người dân
như: bệnh viện, trường học, trung tâm thương mại… và các tiện nghi khác để người dân
không phải di cư về các thành phố lớn.
(2) Cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhằm khuyến khích những người di dân từ nơng
thơn lên đô thị tránh những xung đột xã hội, giảm tải các vấn đề phức tạp về nhà ở và xã hội
cho đơ thị. Cần có chính sách hỗ trợ để người nơng dân có thể quay trở về nơng thơn sinh
sống. Nhà nước cần tăng cường chính sách chăm lo đời sống tại các vùng nông thôn, tiếp tục
phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương VII
(khóa X) nhất là vấn đề xây dựng nhà ở nông thôn mới. Quản lý chặt chẽ đất đai sản xuất,
hạn chế tối đa việc xây dựng các khu đô thị, khu công nghiệp trên vùng đất có khả năng
trồng trọt, canh tác tốt.
2.2 Cơ cấu dân cư và lao động
a.Việt Nam là nước có nhiều dân tộc, nhưng dân tộc Kinh chiếm đa số
Nước ta có 54 dân tộc cùng chung sống trên dải đất hình chữ S. Dân tộc Kinh chiếm
87,2% tổng dân số của Việt Nam. Các dân tộc khác chiếm 13,8% dân số, trong đó, những
dân tộc có số dân lớn chiếm từ l,4 đến 1,9% dân số Việt Nam là các dân tộc Tày, Hoa, Kh'
me, Mường.
- Ngồi ra cịn khoảng 3,2 triệu người Việt đang sinh sống ở nước ngồi.
* Thuận lợi:

- Các dân tộc ln đồn kết,tương trợ lẫn nhau, bên nhau.
- Các dân tộc ở Việt Nam đều có truyền thống lao động cần cù, sáng tạo với nhiều ngành
nghề cổ truyền, nhiều kỹ năng độc đáo, khéo léo, thích hợp với các ngành nghề địi hỏi sự tỉ
mỉ, kiên nhẫn như thêu đan, mỹ nghệ, cơ khí điện tử, tinh vi, chính xác
-Nhiều nền văn hóa,bản sắc được gìn giữ và phát huy thu hút bạn bè quốc tế đến với nước ta.
- Phát huy truyền thống sản xuất, phong tục tập quán, tạo nên sức mạnh phát triển kinh tế,
xây dựng đất nước.
* Khó khăn:
- Sự phát triển kt – xh các vùng có sự chênh lệch.Mức sống của một bộ phận dân tộc ít
người cịn thấp.
-> Cần chú trọng đầu tư và có nhiều hơn các chính sách hơn nữa đối với việc phát triển kinh
tế - xã hội ở các vùng này.
b. Tỉ lệ dân số trong tuổi lao động đang tăng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
12

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 13

Việt Nam đang ở trong giai đoạn cơ cấu "dân số vàng" khi có 69% dân số trong tuổi lao
động. Đây được xem là cơ hội thuận lợi để nâng cao hiệu quả lao động, đóng góp vào sự tăng
trưởng kinh tế cho đất nước.
Với tổng số dân là hơn 98 triệu người, hiện nay số người trong độ tuổi lao động ở nước ta
chiếm 2/3 số dân. Mỗi năm, nước ta có từ 1,5 - 1,6 triệu người bước vào độ tuổi lao động,
tuy nhiên lực lượng này vẫn chưa tạo nên sức bật cho nền kinh tế, vì có trên 70% là lao động
giản đơn. Sự thiếu hụt trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp
trong các ngành thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch... là những thách thức không nhỏ
đặt ra cho giai đoạn cơ cấu "dân số vàng".
Mối lo nếu không thực sự "vàng" về tri thức và tay nghề

Một thực tế là khơng ít những người học càng cao thì khi ra trường cơ hội có được việc
làm tương xứng lại càng khó, nhiều sinh viên đại học ra trường 2-3 năm nhưng vẫn chưa thể
kiếm được việc làm. Ngày 4/4/2019 , số người thất nghiệp dài hạn, trên 12 tháng có xu
hướng gia tăng, chiếm 34,42% tổng số người thất nghiệp. Trong đó, tỉ lệ thất nghiệp cao nhất
vẫn ở nhóm có trình độ cao đẳng.
Thời kỳ cơ hội "dân số vàng" là cơ hội có một khơng hai dành cho Việt Nam. Do đó đầu tư
cho thế hệ trẻ về giáo dục, y tế, sức khỏe sinh sản có ý nghĩa quan trọng đối với năng suất lao
động và sự phát triển của Việt Nam trong tương lai.
c. Dân số Việt Nam có cơ cấu giới tính tương đối cân bằng
Theo kết quả TĐT năm 2019, tính tới 0 giờ ngày 01/4/2019, tổng số dân của Việt Nam
là 96.208.984 người. Trong đó, dân số nam là 47.881.061 người, chiếm 49,8%; dân số nữ là
48.327.923 người, chiếm 50,2%.
Kết quả TĐT năm 2019 cho thấy, tỷ số giới tính của dân số Việt Nam là 99,1 nam/100
nữ. Trong đó, tỷ số giới tính khu vực thành thị là 96,5 nam/100 nữ, khu vực nông thơn là
100,4 nam/100 nữ. Tỷ số giới tính của dân số Việt Nam liên tục tăng nhưng luôn ở mức dưới
100 kể từ TĐT năm 1979 đến nay.
Tỷ số giới tính có sự khác biệt theo các nhóm tuổi, tuổi càng cao tỷ số giới tính càng
thấp, cao nhất ở nhóm 0-4 tuổi (110,3 nam/100 nữ) và thấp nhất ở nhóm từ 80 tuổi trở lên
(48,6 nam/100 nữ). Tỷ số giới tính gần như cân bằng ở nhóm 45-49 tuổi (100,2 nam/100 nữ)
và bắt đầu giảm xuống dưới 100 ở nhóm 50-54 tuổi (95,9 nam/100 nữ).
Kết quả TĐT năm 2019 cũng cho thấy có sự khác biệt đáng kể về tỷ số giới tính giữa
các vùng. Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Ngun là hai vùng có tỷ số giới tính cao
nhất, tương ứng là 100,9 nam/100 nữ và 101,7 nam/100 nữ; trong khi đó, Đơng Nam Bộ là
vùng có tỷ số giới tính thấp nhất, 97,8 nam/100 nữ.
13

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 14


d.Già hóa dân số :
Dân số Việt Nam đang già hóa với tốc độ nhanh chưa từng thấy. Việt Nam hiện là nước có
tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới.
Người cao tuổi chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu dân số nước ta và là một trong những
nhóm người dễ tổn thương trong xã hội, cần được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe tồn diện. Là
một nước có thu nhập trung bình thấp nhưng Việt Nam đã bước vào giai đoạn già hóa dân số
với tốc độ rất nhanh. Hiện tại, nước ta đang trong giai đoạn cuối của thời kỳ cơ cấu dân số
vàng, bước đầu vào giai đoạn già hóa. Việt Nam nằm trong số 10 nước có tốc độ già hóa
nhanh nhất trên thế giới. Già hóa dân số đặt Việt Nam trước nhiều thách thức liên quan đến
chăm sóc sức khỏe cũng như nguồn cung lao động và sử dụng lao động người cao tuổi. Theo
giới chuyên môn, tạo điều kiện cho người cao tuổi tiếp tục lao động không chỉ giúp họ có
thêm thu nhập mà cịn làm giảm những tác động bất lợi đến tình hình phát triển kinh tế-xã
hội do sự biến động của cơ cấu dân số gây ra.
Trong thời gian qua, do làm tốt công tác giảm sinh nên số lượng và tỷ lệ trẻ em trong cơ cấu
dân số của Việt Nam ngày càng giảm. Bên cạnh đó, sự phát triển kinh tế - xã hội và việc
chăm sóc sức khỏe tốt hơn nên tỷ lệ và số lượng người cao tuổi tăng lên. Việt Nam chính
thức bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011 với tỷ lệ người trên 65 tuổi đạt 7%. Đến
khi tỷ lệ người cao tuổi trở lên đạt 14%, chúng ta sẽ bước vào giai đoạn dân số già. Điều
đáng lo ngại là, nếu như các nước trên thế giới phải trải qua nhiều thập kỷ, thậm chí hàng thế
kỷ mới chuyển từ giai đoạn già hóa dân số sang dân số già, (như Pháp: 115 năm, Thụy Điển:
85 năm, Hoa Kỳ: 70 năm…) thì Việt Nam được dự báo giai đoạn dân số già sẽ đến trong
vòng 16 - 18 năm nữa. Như vậy, Việt Nam là một trong các quốc gia có tốc độ già hóa dân
số nhanh nhất thế giới.
Tỷ lệ và số lượng người cao tuổi Việt Nam sẽ tăng lên nhanh chóng trong những năm tới.
Năm 2017, số người cao tuổi ở Việt Nam đã chiếm 11,9% tổng dân số. Theo dự báo của
Tổng cục Thống kê, đến năm 2038 nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên sẽ chiếm khoảng 20% tổng
dân số. Lúc này, dân số trong độ tuổi lao động sẽ giảm xuống và sự biến động dân số này sẽ
tác động bất lợi đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội nếu khơng có chính sách phù hợp.
Vì vậy, Việt Nam cần phải có các chính sách và chương trình kịp thời và hiệu quả để có thể

giải quyết được vấn đề già hóa dân số và chuẩn bị cho dân số già trong tương lai. Nếu chúng
ta có các giải pháp phù hợp về chăm sóc sức khỏe, thu nhập ổn định, mạng lưới an sinh xã
hội và hỗ trợ về mặt pháp lý cho người cao tuổi thì các thế hệ hiện nay và trong tương lai sẽ
được hưởng lợi từ chính sự già hóa dân số.
Tăng cường chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
14

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 15

Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách về an sinh xã hội dành cho người cao tuổi như:
chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trợ cấp xã hội… Tuy nhiên, hệ thống chính
sách an sinh xã hội ở nước ta mới hỗ trợ nâng cao đời sống cho một bộ phận người cao tuổi.
Hiện cả nước mới có khoảng 39% người cao tuổi được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội,
chính sách đối với người có cơng và trợ cấp xã hội. Như vậy, còn tới 61% dân số cao tuổi
sống dựa hồn tồn vào kinh tế của chính mình.
Chất lượng cuộc sống của người cao tuổi nhất là ở vùng nơng thơn cịn rất khó khăn, tỷ lệ
người nghèo ở người cao tuổi là 23,5%. Chỉ có khoảng 60% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm
y tế. Tuổi thọ trung bình cao nhưng tuổi thọ khỏe mạnh của người cao tuổi ở nước ta thấp (64
tuổi); đặc biệt, có 67,2% người cao tuổi có tình trạng sức khỏe yếu và rất yếu, 70% người cao
tuổi có khó khăn về vật chất
Bên cạnh đó, người cao tuổi cịn có những u cầu khác biệt, đặc thù về chăm sóc sức
khỏe. Đặc điểm bệnh lý của người cao tuổi cũng khác với các lứa tuổi khác như lão hóa các
cơ quan, tính chất đa bệnh lý, các hội chứng đặc trưng ở người cao tuổi; sử dụng nhiều thuốc,
tình trạng phụ thuộc; tăng nguy cơ tai biến. Bệnh nhân cao tuổi thường có các hội chứng lão
khoa đặc trưng (như hội chứng dễ bị tổn thương, sa sút trí tuệ, rối loạn vận động, suy dinh
dưỡng, giảm hoạt động chức năng, lú lẫn, trầm cảm, loét, mất nước) có nguy cơ tai biến điều
trị cao… Chính vì thế, ngành y tế cần đáp ứng đầy đủ nhu cầu khám chữa bệnh của người

cao tuổi với chất lượng ngày càng cao, chi phí và hình thức phù hợp; đồng thời, phối hợp
chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại cơ sở y tế và dựa vào cộng đồng. Trong đó, việc thành
lập khoa lão khoa trong các bệnh viện sẽ giúp người cao tuổi được chăm sóc một cách
chun nghiệp, tồn diện và liên tục.
Về cơ sở vật chất, cả nước hiện có 106 khoa lão khoa được thành lập tại bệnh viện đa
khoa tỉnh, thành phố và bệnh viện trung ương; hơn 900 khoa khám bệnh có
buồng riêng cho người cao tuổi; trên 10.000 giường điều trị nội trú ưu tiên
cho người cao tuổi và có 1.791 nhân viên y tế được đào tạo về lão khoa. Bên
cạnh những kết quả đạt được, cơng tác khám, chữa bệnh cho người cao tuổi
cịn nhiều khó khăn, thách thức. Một số địa phương hiện vẫn chưa bố trí kinh
phí thực hiện chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi như khám sức khỏe định
kỳ do điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị để thành lập khoa lão còn thiếu;
bác sỹ, điều dưỡng học về chuyên ngành lão khoa còn thiếu nên chưa tư
vấn, tuyên truyền và phổ biến kiến thức phòng và chữa bệnh cho người cao
tuổi tại cộng đồng…
Mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu trong công tác chăm sóc sức
khỏe cho người cao tuổi, tuy nhiên, với tốc độ già hóa dân số như hiện nay,
15

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 16

Nhà nước, mà cụ thể là ngành y tế cần có cơ chế, chính sách cũng như
chương trình mở rộng mạng lưới các cơ sở y tế, tăng cường trang thiết bị,
đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu cho công tác khám, chữa bệnh và điều
trị cho người cao tuổi.
Sử dụng hợp lý lao động người cao tuổi
Bên cạnh việc đẩy mạnh tổ chức và triển khai thực hiện các hoạt động chăm

sóc sức khỏe người cao tuổi thì một việc rất quan trọng khác là cần tạo điều
kiện cho người cao tuổi lao động trong khả năng, để một mặt tạo ra thu
nhập cho cá nhân người cao tuổi, mặt khác, góp phần giảm tác động bất lợi
đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội do sự biến động của cơ cấu dân số
gây ra.
Ở nước ta, độ tuổi nghỉ hưu đối với nữ hiện nay là 55 tuổi và nam là 60 tuổi.
Từ độ tuổi này trở lên khi tiếp tục tham gia lao động thì được coi là lao động
cao tuổi. Tỷ lệ người lao động cao tuổi tiếp tục làm việc hiện rất cao. Báo cáo
của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho thấy, có tới 60% người cao tuổi
trong độ tuổi 60-69 đang tiếp tục làm việc.
Những lao động cao tuổi tiếp tục làm việc xuất phát từ nhu cầu tăng thêm
thu nhập phục vụ cho cuộc sống. Bên cạnh đó, khi tham gia vào thị trường
lao động, người cao tuổi có một vị trí đặc biệt; họ là những người có kinh
nghiệm và các kỹ năng để làm việc tốt nhất đã được tích lũy qua thời gian.
Bên cạnh đó là ý thức chấp hành, sự am hiểu pháp luật tốt hơn; đồng thời ít
bị tai nạn lao động hơn... Vì vậy, khi chúng ta bước vào giai đoạn già hóa dân
số thì việc sử dụng người lao động là người cao tuổi là rất cần thiết.
Có rất nhiều công việc người cao tuổi làm được mà không ảnh hưởng tới
nguồn cung việc làm của người trẻ. Họ có thể tham gia làm việc tại các đơn
vị, doanh nghiệp từ cổng vào như bảo vệ đến những cơng việc hành chính,
phục vụ, kho, quản lý… Thậm chí, trong nhiều nhà máy của các doanh
nghiệp, những dây chuyền sản xuất cũng có sự tham gia của người lao động
cao tuổi. Dù chỉ làm những công việc giản đơn, nhưng họ làm rất tỉ mỉ. Chính
vì thế, nhiều doanh nghiệp cho biết, trong tương lai nhu cầu sử dụng lao
động cao tuổi cịn có thể nhiều hơn.
Rõ ràng, người cao tuổi là một nguồn lực quan trọng của xã hội. Người cao
tuổi là những người có kiến thức, kinh nghiệm, trong số họ, rất nhiều người là
những chuyên gia, người lao động trình độ cao của các ngành, lĩnh vực; có
sức khỏe, có nguyện vọng tiếp tục cống hiến cho gia đình và xã hội. Họ
khơng muốn nghỉ ngơi thụ động, phụ thuộc vào con cái mà muốn có cuộc

16

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 17

sống chủ động, tích cực, tham gia cơng việc gia đình, xã hội. Vì vậy, Nhà
nước và xã hội cần thay đổi quan niệm, cách tiếp cận, cách nhìn đối với vấn
đề người cao tuổi. Người cao tuổi khơng chỉ là vấn đề cần giải quyết mà cịn
là cơ hội, nguồn lực cho sự phát triển, cần quan tâm tạo cơ chế, chính sách
để thu hút, khai thác nguồn lực đó một cách hiệu quả.
Để người cao tuổi tiếp tục đóng góp cho gia đình, xã hội, Nhà nước có thể
ban hành các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy các hoạt động của người cao tuổi.
Đây là vai trị nổi bật của Nhà nước trong việc khuyến khích, hỗ trợ doanh
nghiệp, cộng đồng, gia đình, cá nhân bảo vệ, chăm sóc, phát huy khả năng
đóng góp của người cao tuổi.
Nhà nước cũng có thể lồng ghép yếu tố người cao tuổi, chính sách đối với
người cao tuổi vào chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách, pháp
luật của Nhà nước cũng hướng trực tiếp đến người cao tuổi; khuyến khích,
tạo điều kiện, hỗ trợ cho họ rèn luyện sức khỏe; tham gia học tập; hoạt động
kinh tế, văn hoá, xã hội

e, Cơ cấu lao động:
- Lao động nơng nghiệp cịn chiếm tỷ trọng lớn
- Trình độ văn hóa của lao động Việt Nam ngày càng đang được nâng cao
-Tỷ lệ lao động có trình độ chun mơn kỹ thuật của Việt Nam cịn thấp mà cơ cấu đào tạo
lại bất hợp lý nên vẫn xảy ra tình trạng "thừa thầy, thiếu thợ"
-Bên cạnh những tín hiệu khả quan, thị trường lao động, việc làm và nguồn nhân lực của
Việt Nam vẫn còn tồn tại những hạn chế cần phải khắc phục như: Cơ cấu lao động của Việt

Nam còn khá lạc hậu; một tỉ lệ lớn lao động làm việc trong các nghề giản đơn, khơng địi hỏi
chun mơn kỹ thuật. Đặc biệt, số người thất nghiệp có trình độ cao đẳng, đại học trở lên vẫn
cịn cao. Chính vì vậy, việc trang bị kiến thức, kỹ năng cho nguồn nhân lực tương lai trong
bối cảnh hội nhập, các giải pháp hợp tác nhằm kết nối cung - cầu lao động hiệu quả hơn là
điều vô cùng cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
3. Gia tăng dân số nguồn lao động
3.1. Gia tăng dân số
Hiện nay Việt Nam có tỉ lệ gia tăng dân số vào loại trung bình với mức tăng 1,07% năm
2016 và 1,15% năm 2019. Như vậy, nhờ công tác KHHGĐ nên tốc độ gia tăng dân số Việt
Nam có xu hướng giảm xuống
Tuy nhiên, công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình vẫn gặp nhiều hạn chế do chính sách 2
con cộng với văn hóa trọng nam khinh nữ dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính trong
dân số. Điều này cũng phần nào lý giải tỷ lệ giới tính khi sinh ở mức 112 bé trai/ 100 bé
gái. Năm 2019, tỉ lệ này giảm nhẹ còn 111.5 bé trai/100 bé gái.
Ngồi ra cơng tác quản lý dân số còn một số hạn chế, cụ thể là:
17

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 18

1. Chưa có giải pháp đồng bộ phát huy lợi thế của thời kỳ dân số vàng và thích ứng với già
hóa dân số.
2. Các chỉ số về Nhân khẩu học và Phát triển con người còn thấp (chỉ số HDI của Việt Nam
năm 2020 là 0,704, không có cải thiện gì nhiều so với 0,691 của năm 2016, hiện xếp thứ 117
trên tổng số 189 quốc gia).9
3. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng, tỷ lệ tử vong bà mẹ, trẻ em còn ở mức cao.
4. Tuổi thọ bình quân tăng nhưng số năm sống khỏe mạnh thấp so với nhiều nước.
5. Tình trạng tảo hơn và hơn nhân cận huyết vẫn còn phổ biến trong cộng đồng dân tộc thiểu

số.
Việt Nam đặt ra mục tiêu duy trì vững chắc mức sinh thay thế đạt quy mô dân số 104 triệu
người vào năm 2030, đồng thời cải thiện chất lượng dân số để đóng góp một cách cân bằng
cả về lượng và chất cho xã hội.
3.2. Gia tăng nguồn lao động
Việt Nam là nước có quy mơ dân số lớn, tháp dân số tương đối trẻ và bắt đầu bước vào thời
kỳ “cơ cấu dân số vàng” với nguồn nhân lực dồi dào nhất từ trước đến nay. Tính đến hết năm
2017, dân số nước ta đạt 96,02 triệu người, trong đó nữ chiếm khoảng 48,94%. Gia tăng dân
số trong những năm qua kéo theo gia tăng về lực lượng lao động. Nhìn chung, mỗi năm Việt
Nam có khoảng gần 1 triệu người bước vào độ tuổi lao động, đây là một lợi thế cạnh tranh
quan trọng của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài góp phần phát triển kinh tế xã hội.
Xét cơ cấu lực lượng lao động theo giới tính, tỷ lệ lao động nam lại nhiều hơn nữ với trên
50% lao động là nam giới. Tuy nhiên, sự chênh lệch này không đáng kể và cho thấy lao động
nữ chiếm một lượng đông đảo. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ khá cao so với lao động
nam do hạn chế về sức khỏe, những mâu thuẫn giữa sinh đẻ và làm việc, cơ hội tìm được
việc làm vừa ý sau khi sinh là thấp.
Hiện nay, lực lượng lao động vẫn tập trung đông nhất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng
(chiếm trên 22%), tiếp đến là khu vực Bắc trung bộ, Duyên hải miền Trung (trên 21%) và
Đồng bằng sông Cửu Long.
Thời gian qua, mặc dù lực lượng lao động tăng cả về số lượng và trình độ chun mơn, song
vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đối với lực lượng lao động Việt Nam hiện nay, cụ thể:
+Một là, lao động phân bổ không đều giữa các vùng: Các vùng đất rộng có tỷ trọng lao động
thấp (vùng trung du và miền núi phía Bắc chỉ chiếm 13,8% lực lượng lao động, Tây Nguyên
18

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 19


chiếm 6,5% lực lượng lao động), phân bổ lao động chưa tạo điều kiện phát huy lợi thế về đất
đai, tạo việc làm cho người lao động và tác động tích cực đến sự di chuyển lao động từ các
vùng nông thôn ra thành thị.
+ Hai là, chất lượng lao động thấp, chủ yếu là lao động nông nghiệp, nông thôn, chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển: Nguồn cung lao động ở Việt Nam hiện nay luôn xảy ra tình
trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động một số ngành dịch vụ
(ngân hàng, tài chính, thơng tin viễn thơng, du lịch…) và công nghiệp mới. Tỷ lệ lao động
được đào tạo nghề còn thấp, kỹ năng, tay nghề, thể lực và tác phong lao động cơng nghiệp
cịn yếu nên khả năng cạnh tranh thấp. Tình trạng thể lực của lao động Việt Nam ở mức
trung bình kém, cả về chiều cao, cân nặng cũng như sức bền, sự dẻo dai, chưa đáp ứng được
cường độ làm việc và những yêu cầu trong sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế.
Kỷ luật lao động của người Việt Nam nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của quá
trình sản xuất công nghiệp. Một bộ phận lớn người lao động chưa được tập huấn về kỷ luật
lao động công nghiệp. Phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn, nông nghiệp, mang nặng
tác phong sản xuất của một nền nông nghiệp tiểu nông, tùy tiện về giờ giấc và hành vi.
Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, khơng có
khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm
việc.
+ Ba là, còn nhiều rào cản, hạn chế trong dịch chuyển lao động: Phần lớn lao động di cư chỉ
đăng ký tạm trú, khơng có hộ khẩu, gặp khó khăn về nhà ở, học tập, chữa bệnh... trình độ học
vấn của lao động di cư thấp và phần đông chưa qua đào tạo nghề. Hầu hết các khu công
nghiệp và khu chế xuất – nơi sử dụng đến 30% lao động di cư khơng có dịch vụ hạ tầng xã
hội (ký túc xá, nhà trẻ, nhà văn hóa, đào tạo nghề, tham gia bảo hiểm xã hội…), lao động di
cư ít có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Tình trạng trên dẫn tới hậu quả là
nguồn cung lao động khơng có khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của các vùng,
các khu công nghiệp, khu chế xuất.
+ Bốn là, Hàng năm Việt Nam được bổ sung thêm hơn 1 triệu lao động nên giải quyết việc
làm là một vấn đề cấp bách.
- Phân bố lại dân cư và nguồn lao động giữa các vùng để vừa khai thác tốt tiềm năng của
mỗi vùng vừa tạo thêm nhiều việc làm mới

- Đẩy mạnh kế hoạch hóa gia đình, da dạng hóa các hoạt động kinh tế ở nông thôn, đẩy
mạnh thâm canh và chuyên canh sản xuất hàng hoá.
19

Vũ Thị Thu Loan-6154021025


Trang số 20

- Cần phục hồi và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống, các hoạt động dịch vụ ở
nông thôn, phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng cơng nghiệp hóa - hiện đại hố.
- Hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, phụ nữ nghèo
nơng thơn, thí điểm đặt hàng hợp đồng với trung tâm dich vụ việc làm và các tổ chức, đơn vị
có liên quan
- Tăng cường đào tạo trình độ chun mơn nghiệp vụ cho nguồn nhân lực. Đa dạng hóa các
loại hình đào tạo, đẩy mạnh hoạt động hướng nghiệp ở nhà trường, chú trọng hoạt động dạy
nghề và giới thiệu việc làm để giúp người lao động tự tạo việc làm hoặc để tìm việc làm
thuận lợi. Thơng tin, tun truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về lao động, việc
làm, nhất là cho lao động nông thôn, lao động di cư và các đối tượng lao động đặc thù...
- Ban hành chế độ chính sách thoả đáng để thu hút nguồn vốn đầu tư ở trong nước và nước
ngoài cho phát triển các hoạt động công nghiệp và dịch vụ. Mở rộng liên doanh đầu tư nước
ngoài và hợp tác xuất khẩu lao động sang các nước phát triển
III. Sức ép dân số của địa phương đối với vấn đề phát triển kinh tế xã hội và tài nguyên
môi trường
1. Sức ép dân số của địa phương đối với vấn đề phát triển kinh tế xã hội
Dân số tăng kéo theo nhu cầu việc làm cũng tăng.Tuy nhiên khi nhu cầu việc làm không
đáp ứng đủ sẽ là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn xã hội,làm trì hỗn sự phát triển kinh tế tại
địa phương, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế - xã hội và lãng phí nguồn nhân lực.
Sự chênh lệch về tốc độ phát triển dân số giữa các nước cơng nghiệp hố và các nước đang
phát triển gia tăng, dẫn đến sự nghèo đói ở các nước đang phát triển và sự tiêu phí dư thừa ở

các nước cơng nghiệp hố. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa các nước phát triển công
nghiệp và các nước kém phát triển, giữa đô thị và nông thôn,giữa các tỉnh, địa phương với
nhau dẫn đến sự di dân ở mọi hình thức. Làm mất cân bằng môi trường sống gây nên sức ép
việc làm đến các vùng công nghiệp.
Sức ép đối với y tế, giáo dục: Dân số tăng nhanh, trẻ em chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong
khi đất nước còn nghèo đã tạo nên sức ép nặng nề đối với các lĩnh vực y tế, giáo dục: tỷ lệ
suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi cao (9,8%). Một số vùng nông thôn chưa phổ cập xong
chương trình tiểu học. Số trẻ em bỏ học hoặc khơng được đến trường cịn nhiều.Đặc biệt là ở
các vùng núi cao tỷ lệ người không biết chữ chiếm tỷ lệ cao hơn so với ở đồng bằng.
Sức ép đối với an ninh quốc phòng và các vấn đề xã hội khác: Dân số gia tăng cùng với
20

Vũ Thị Thu Loan-6154021025



×