Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

hieu qua su dung von - giai phap potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.43 KB, 15 trang )

HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA TẬP ĐOÀN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
I. Thực trạng huy động vốn trong các DNNN hiện nay.
1. Thực trạng cổ phần hoá.
a. Khái niệm:
CPH DNNN là quá trình chuyển doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước sang hình thức công ty cổ phần thông
qua quá trình chào bán các cổ phiếu chứng nhận quyền sở hữu DN cho các cổ đông. Hay có thể hiểu là thông
qua quá trình CPH DNNN mà DN trước đây thuộc sở hữu 100% của Nhà nước được chuyển sang 1 loại hình
DN có nhiều chủ sở hữu, trong đó Nhà nước có thể là 1 cổ đông.
b. Các hình thức cổ phần hoá
CPH DNNN chính là quá trình chuyển DNNN sang hình thức công ty cổ phần, một trong những đặc điểm cơ
bản của công ty cổ phần là vốn chủ sở hữu do nhiều cổ đông nắm giữ, đồng sở hữu thông qua việc sở hữu
các cổ phiếu của DN. Do vậy, quá trình CPH DNNN nhất thiết phải chào bán cổ phiếu chứng nhận quyền sở
hữu DN cho các cổ đông. Quá trình này được thực hiện dưới các hình thức sau:
- Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại Doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để
phát triển doanh nghiệp.
- Bán 1 phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp
- Tách 1 bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để CPH.
- Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần.
Có thể nói: Cổ phần hoá là giải pháp quan trọng trong cơ cấu lại DNNN và Cổ phần hoá đã hình thành được
nhiều DNNN có nhiều chủ sở hữu, vốn và tài sản của nhà nước được sử dụng có hiệu quả hơn. Cổ phần hoá
tạo cơ sở thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. DNNN cổ phần hoá hoạt động
theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước cổ đông về hoạt động và kết quả
kinh doanh. Đặc biệt, cổ phần hoá tạo điều kiện pháp lý và vật chất để người lao động nâng cao vai trò làm
chủ trong doanh nghiệp.
b. Thực trạng cổ phần hóa DNNN
Số liệu thống kê sau 15 năm thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cho thấy tỷ lệ cổ phần do Nhà
nước giữ ở các doanh nghiệp đã cổ phần hóa như sau: nắm giữ cổ phần chi phối trên 50% ở 33% số doanh
nghiệp; dưới 50% số vốn ở 37% số doanh nghiệp và không giữ lại tỷ lệ % vốn nào ở gần 30% số doanh
nghiệp. Cổ đông trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa là cán bộ, công nhân viên nắm 29,6% cổ phần; cổ
đông là người ngoài doanh nghiệp nắm 24,1% cổ phần; cổ đông là Nhà nước nắm 46,3% cổ phần.
Tính đến ngày 31/7/2011, cả nước đã thực hiện cổ phần hóa 3.949 doanh nghiệp, chiếm 67% tổng số doanh


nghiệp sắp xếp lại, trong đó 1.655 doanh nghiệp thuộc Trung ương và 2.294 doanh nghiệp thuộc địa phương.
Riêng 7 tháng đầu năm 2011, 4 doanh nghiệp lớn đã thực hiện cổ phần hóa là: Công ty mẹ - Tổng công ty
Thép Việt Nam, Công ty mẹ - Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam, Công ty mẹ - Tổng công ty Miền Trung -
Bộ Xây dựng và Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long.
Chính phủ sẽ cổ phần hoá 573 doanh nghiệp nhà nước (DNNN), và giữ lại 692 doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước.Đây là một trong những nét chính của Đề án tái cấu trúc DNNN được Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính
phủ, Phó trưởng ban chỉ đạo đổi mới DNNN Phạm Viết Muôn chobiết ngày 7/12/2011. Hiện cả nước còn
1.309 DNNN 100% vốn nhà nước. Trong số này có 102 doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 5 tỉ đồng, 8
doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỉ đồng, có doanh nghiệp có vốn chỉ vỏn vẹn 100 triệu đồng.
Theo lịch trình đến năm 2015, Nhà nước sẽ cổ phần hoá 573 doanh nghiệp, trong đó có 1 tập đoàn, 5 tổng
công ty 91, 51 tổng công ty 90, 1 ngân hàng thương mại, 187 công ty con, 89 doanh nghiệp độc lập thuộc bộ,
và 239 doanh nghiệp thuộc địa phương.Vốn nhà nước ở khu vực kinh tế nhà nước tính đến cuối năm 2010 là
700.000 tỉ đồng, tăng tới 70% so với thời điểm cuối 2006. Trong số vốn đó, 653.000 tỉ đồng thuộc về các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước.
2. Thực trạng huy động vốn từ tín dụng ngân hàng
a.Đặc điểm vốn tín dụng ngân hàng.
Vốn tín dụng ngân hàng là hình thức huy động vốn phổ biến của các doanh nghiệp hiện nay.Nhưng để vay
được vốn từ ngân hàng doanh nghiệp cần phải có điều kiện nhất định.
Điều kiện tín dụng: các ngân hàng thương mại khi cho doanh nghiệp vay vốn luôn luôn phải đảm bảo an toàn
tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng thông qua một hệ thống bảo đảm tín dụng. Trước tiên, ngân hàng phải phân
tích hồ sơ xin vay vốn, đánh gía các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp vay vốn. Doanh nghiệp phải cung cấp những báo cáo tài chính và những thông tin cần thiết
khác theo yêu cầu của ngân hàng
Các điều kiện bảo đảm tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung các ngân hàng thường yêu cầu
doanh nghiệp đi vay phaỉ có bảo đảm tín dụng phổ biến nhất là tài sản thế chấp.Việc yêu cầu người vay có tài
sản thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng các điều kiện vay kể cả thủ tục
pháp lý về giấy tờ …
Sự kiểm soát của ngân hàng cho vay: Một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp cũng phải
chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay.Tuy sự kiểm soát của ngân hàng
không gây ra vấn đề lớn nhưng doanh nghiệp vẫn có cảm giác bị kiểm soát

Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vốn tín dụng ngân hàng phụ thuộc
vào tình hình sử dụng vốn tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ.Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh
nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp
b. Thực trạng huy động vốn từ tín dụng ngân hàng
Đối với hoạt động tín dụng ngân hàng, việc đổi mới cơ chế tín dụng phù hợp với cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước được tiến hành đồng thời với quá trình sắp xếp đổi mới DNNN đã và đang có những
tác động tích cực, nhưng cũng phát sinh những khó khăn vướng mắc và rủi ro tín dụng ở nhiều DN thuộc các
bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh quản lý.
Mặt tích cực: DNNN được phân cấp mạnh hơn trong quyết định đầu tư, quản lý tài chính, đấu thầu, thực hiện
tiết kiệm chi phí, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều này tạo điều kiện cho các
NHTM rút ngắn khả năng tiếp cận, thẩm định nhu cầu vay vốn, đánh giá khả năng trả nợ để xử lý và phân
loại và phản ánh chính xác hơn chất lượng tín dụng.
Hạn chế: Tỷ trọng dư nợ xấu có đảm bảo đã được nâng lên nhưng tỷ lệ lớn các tài sản thế chấp của DNNN
không đảm bảo điều kiện đăng ký giao dịch do giấy tờ không đủ, chưa chuẩn mực, giá trị tài sản thế chấp còn
đánh giá chưa sát thị trường. Việc giám sát mục đích sử dụng và hiệu quả vốn vay đối với các khoản vay của
DN còn khó khăn, nhiều lúc bị động theo khách hàng.
Các Ngân hàng thương mại mặc dù vẫn rất tích cực trong hỗ trợ vốn cho hệ thống các DNNN nhưng nghi
ngại tính khả thi, hiệu quả sử dụng vốn và khả năng hoàn vốn của DNNN và bởi một số các lý do khác sau:
Việc tài trợ cho các DNNN gặp rất nhiều khó khăn trong công tác thu hồi vốn để tái đầu tư. Nợ xấu, nợ quá
hạn lớn phần nhiều cũng nảy sinh từ hoạt động tài trợ cho các DN này, dẫn đến khả năng sinh lời của các
NHTM thấp do phải thực hiện trích lập dự phòng rủi ro lớn theo quy định hiện hành
Nợ tồn đọng trong các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là doanh nghiệp ngành xây lắp chưa được giải quyết
thoả đáng. Các doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng trong khi các NHTM lại
chưa nhận được sự hỗ trợ để thu hồi nợ vay từ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Phát mại tài sản bảo đảm hiện nay là trở ngại lớn cho các NHTM (đặc biệt là tài sản của các doanh nghiệp
Nhà nước) vì đa phần các tài sản chưa đủ cơ sở pháp lý để thế chấp, cầm cố. Vì vậy, khi xử lý tài sản đảm
bảo Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn và làm giảm sút giá trị của tài sản.
Xử lý tranh chấp liên quan đến nợ vay giữa Ngân hàng và doanh nghiệp nhiều khi còn chưa công bằng,
quyền lợi của Ngân hàng chưa được bảo đảm khi doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán
Trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập, doanh nghiệp nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu

kém. Hoạt động của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả, khả năng tạo ra lợi nhuận kém, hàng tồn kho tiêu thụ
chậm, công nợ chưa thanh toán được cộng thêm các cơ chế, quy chế quản lý của doanh nghiệp nhà nước
cũng ngày càng trở nên bất cập với thực tiễn , bộ máy quản lý cồng kềnh, trình độ quản lý tài chính và hiệu
quả sản xuất kinh doanh không cao khiến các ngân hàng e ngại khi xem xét cho vay đối với các doanh
nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước thường có nguồn vốn tự có thấp nên khả năng tự chủ về tài chính không cao. Để đáp
ứng nhu cầu vốn lưu động các đơn vị này thường phải vay vốn ngân hàng có những phương án tỷ lệ vay vốn
có thể lên đến 100% nhu cầu thanh toán. Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước không có tài sản bảo đảm nên
việc cho vay thường thực hiện theo hình thức tín chấp. Việc cho vay tín chấp mang nhiều rủi ro tiềm ẩn cho
ngân hàng. Một số trường hợp khách hàng có tài sản là bất động sản có giá trị khá lớn nhưng giấy tờ chứng
minh sở hữu thường không đầy đủ. Ngân hàng muốn lấy tài sản này làm đảm bảo cho khoản vay nhưng lại
không thực hiện được việc ký hợp đồng thế chấp và không đăng ký được giao dịch bảo đảm.
Theo hội nghị phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp của Trung tâm Thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà
nước: "Doanh nghiệp Nhà nước là loại hình doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả nhất. Qua phân tích cho
thấy doanh nghiệp nhà nước vay nợ nhiều, khả năng tự chủ tài chính thấp, khả năng sinh lời thấp, độ rủi ro
cao". Tất cả những điều đó đã dẫn đến rủi ro đối với nguồn vốn tín dụng cao và kết quả là nhiều doanh
nghiệp nhà nước đã bị mất niềm tin đối với ngân hàng và các ngân hàng tuy không "ngoảnh mặt" lại với
doanh nghiệp nhà nước nhưng họ rất thận trọng khi tài trợ mới hoặc tiếp tục tài trợ
Các doanh nghiệp trong ngành xây dựng hiện đang trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Để bảo đảm kế
hoạch đầu tư, các tổng công ty hầu như phải đi vay là chính, vốn tự cho các doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước nói chung khi chuyển sang công ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp đều
gặp khó khăn trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, mặc dù thắt chặt tín dụng không có nghĩa là
phân biệt đối xử.có chỉ đạt 2- 3% tổng mức đầu tư, áp lực trả nợ rất căng thẳng.
Song, chính các công ty cổ phần (CTCP) lại là những doanh nghiệp đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp
gặp khó khăn nhất về vốn, bởi vì những quy định thắt chặt trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
Đây cũng là một trong những lý do khiến nhiều lãnh đạo các cấp còn băn khoăn, chưa chỉ đạo quyết liệt,
người lao động lo lắng, bất an… gây ảnh hưởng đến chỉ tiêu kế hoạch CPH từ đầu năm đến nay.
ÔngNguyễn Văn Tài, Giám đốc công ty cổ phần xây dựng Bình Dương cho biết: "Khi còn là doanh nghiệp
nhà nước, công ty có thể vay vốn gấp 20 lần giá trị tài sản của đơn vị nhưng nay chỉ còn được vay bằng 70%
giá trị tài sản đơn vị có. Thậm chí, có dự án đầu tư cũng khó mà vay được tiền".

Không chỉ các doanh nghiệp ngành xây dựng mà doanh nghiệp nhà nước nói chung khi chuyển sang công ty
cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín
dụng. Bởi lẽ trước đây chỉ cần bảo lãnh của tổng công ty là doanh nghiệp có thể vay theo hình thức tín chấp
nhưng khi chuyển sang công ty cổ phần sẽ phải tuân thủ quy định chặt chẽ hơn: phải có bảo lãnh của tổng
công ty (bằng văn bản bảo lãnh hoặc hợp đồng cam kết bảo lãnh) đối với toàn bộ nghĩa vụ trả nợ gốc và các
khoản lãi công ty đã vay và sẽ vay; doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp, bảo đảm tiền vay.
Đây là một trong những thực trạng mà DN sau CPH gặp phải trong việc huy động vốn.
c. Những trở lực về tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước.
Tín dụng đang là nguồn vốn quan trọng nhất đối với DNNN. Hiện nay việc huy động vốn từ nguồn này đang
gặp phải những trở lực sau.
Thứ nhất, thể lệ tín dụng qui định đơn vị vay vốn phải thế chấp tài sản hoặc được bảo lãnh của người thứ ba
đủ thẩm quyền người được bảo lãnh phải thế chấp tài sản cho người bảo lãnh. Điều này làm cho nhiều
DNNN khó có thể vay được vốn từ ngân hàng nhất là vốn trung hạn và dài hạn. Đây không chỉ là ý kiến từ
phía DNNN mà cả của một số cán bộ tín dụng "nhận khoán" mức cho vay họ nói rằng trong nhiều trường
hợp, doanh nghiệp vay để xây dựng mới thì làm gì có tài sản để thế chấp.
Thứ hai, để kiểm soát hoạt động tín dụng và lượng tiền cung ứng, Ngân hàng Nhà nước qui định hạn mức tín
dụng cho các ngân hàng thương mại và trên cơ sở hạn mức tín dụng được duyệt ngân hàng thương mại phân
phổ hạn mức tín dụng cho các Tổ chức kinh tế (khách hàng) cả hai loại hạn mức tín dụng trên đều xây dựng
cho một thời gian dài (thường là 1 năm) do vậy dù DNNN có đủ các điều kiện vay vốn nhưng nếu hạn mức
tín dụng không còn thì cũng không thể vay được vốn tín dụng ngân hàng.
Thứ ba, chính sách lãi suất chưa thể hiện rõ vai trò là đòn bẩy kinh tế chưa thực sự điều tiết nền kinh tế ở tầm
vĩ mô. Chính sách lãi suất có thay đổi nhưng thay đổi còn chậm so với biến động của giá cả. Hiện nay lãi suất
ngắn hạn là 1,5%/ tháng lãi suất trung và dài hạn là 1,55%/ tháng. Mức lãi suất này vẫn còn cao hơn so với tỷ
suất lợi nhuận (khả năng sinh lời) của nhiều DNNN với mức lãi suất đó không mấy DNNN có thể vay đủ vốn
của ngân hàng để sử dụng tiền vay có hiệu quả và trả nợ phần vay đúng hạn. Chính vì lãi suất đầu ra của
ngân hàng cao nên hạn chế qui mô tín dụng, hạn chế khả năng vay vốn của DNNN, trong khi đó các DNNN
luôn ở trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh. Một nghịch lý khác là hiện nay các ngân hàng thương mại chỉ
huy động vốn ngắn hạn mà khước từ cacs khoản tiền gửi dài hạn trong khi nền kinh tế đang bị thiếu vốn dài
hạn. Rút cuộc ngân hàng thương mại (NHTM) tồn một lượng khá lớn vốn ngắn hạn trong khi đó "mặt hàng"
vốn dài hạn được nhiều doanh nghiệp hỏi mua mà không có.

3.Thực trạng huy động vốn qua cổ phiếu
3.1 . Nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu
a. Khái niệm:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ
phiếu mới.
b. Các loại cổ phiếu
Cổ phiếu thường: Là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng
và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Nó có thể được trao đổi, mua bán trên thị trường
chứng khoán.
Cổ phiếu ưu tiên: Thường chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành . Cổ phiếu ưu
tiên thường có đặc điểm là có cổ tức cố định Người chủ cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước
các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì cổ đông thường sẽ không được
nhận cổ tức của kì đó. Việc giải quyết chính sách cổ tức được nêu rõ trong điều lệ công ty.
c. Những ưu nhược điểm của doanh nghiệp khi huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu
Ưu điểm: Có thể huy động một lượng vốn lớn để phát triển doanh nghiệp.
Nhược điểm: Có nguy cơ bị thôn tính công ty. Cần phải tính đến tỉ lệ cổ phần tối thiểu cần duy trì để giữ
vững quyền kiểm soát của công ty.
3.2 . Huy động vốn qua cổ phiếu.
Công tác CPH DNNN đã đạt được kết quả trên nhiều mặt, các kết quả này có tác tích cực đến thị trường
chứng khoán Việt Nam.
CPH đã được triển khai rộng rãi đã trực tiếp làm tăng hàng hoá cho TTCK: theo số liệu của cục Tài chính
DN, tính đến hết tháng 6 năm 2006, cả nước đã CPH được trên 3000 DN và bộ phận DNNN. Đặc biệt đã
từng bước tiến hành CPH một số DN có giá trị hàng ngàn tỷ đồng như công ty sữa Việt Nam (giá trị DN
2.500 tỷ đồng), nhà máy thuỷ điện Sông Hinh- Vĩnh Sơn 2.144 tỷ đồng, Công ty Bảo hiểm TPHCM 1.311 tỷ
đồng… CPH rộng khắp là nguồn hàng hoá quan trọng làm phong phú nguồn hàng hoá trên thị trường chứng
khoán.
CPH đã huy động được một lượng vốn nhàn rỗi cho đầu tư qua thị trường chứng khoán. với 2.242 DNNN
được CPH năm 2004, 12.411 tỷ đồng cổ phiếu đã được bán, nhà nước nhờ đó đã có 10.169 tỷ đồng (chiếm
58% tổng số vốn nhà nước đã CPH) để tái đầu tư phát triển kinh tế.
Mặt khác quy mô vốn điều lệ của DN sau CPH tăng bình quân 44% đã cho thấy CPH đã thực sự mở ra một

cánh cửa để các DNNN tiếp cận với một kênh dẫn vốn mới đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển. Tính đến
hết tháng 1/2006 trung tâm GDCK Hà Nội đã đấu giá 28 phiên lớn cho các DNNN CPH hoặc các DNNN đã
CPH bán bớt phần vốn nhà nước (chưa kể có 17 phiên phối hợp với TTDGCK TP HCM). Tổng giá trị cổ
phần trúng giá đạt 2.039,2 tỷ đồng, với 2.880 nhà đầu tư trúng giá trên 4.085 tổng số lượt nhà đầu tư đăng ký
đấu giá.
Bán đấu giá cổ phần đã trở thành một kênh huy động vốn quan trọng đối với các DNNN thông qua TTCK.
Từ tháng 7/2003 đến nay, đã có khoảng 40 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) bán đấu giá cổ phần tại Việt
Nam để các chuyển sang hình thức công ty cổ phần. Nhiều chuyên gia đánh giá thị trường này đang càng
ngày càng sôi động.
Công ty chứng khoán Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam, Công ty chứng khoán Ngân hàng ngoại thương,
Công ty chứng khoán Ngân hàng công thương, Công ty chứng khoán Bảo Việt hiện là những đơn vị hàng
đầu trong việc nhận làm đại lý bán cổ phần cho các công ty chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần. Ngoài
ra, nhiều công ty cổ phần cũng tự thành lập hội đồng bán đấu giá và tự tổ chức bán đấu giá.
Theo Công ty chứng khoán của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, từ tháng 7/2003 đến nay, Công ty
này đã nhận bán đấu giá cho 5 khách hàng là Gamex, Vifon, Vinamilk, Badaco, TIE. Kết quả bán đấu giá cổ
phần lần đầu của các doanh nghiệp này rất khả quan.
Ngày 24/2/2004, Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu TIE-Tp.HCM đã thông báo bán đấu giá cổ
phần lần đầu để chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần. Công ty này đã đưa mức giá khởi điểm để đấu giá
lên 115.000 đồng, được coi là mức khởi điểm cao nhất từ trước tới nay trong số các công ty bán đấu giá cổ
phần.
Công ty Vinamilk, khi bán đấu giá chỉ chào giá khởi điểm là 105.000 đồng một cổ phần, nhưng cho đến khi
vào phiên đấu giá, người mua cao nhất đã trả giá 181.000 đồng. Sau khi bán đấu giá, trị giá tiền thu về của
Vinamilk từ 72 tỷ đã tăng thêm 42 tỷ đồng nữa.
Trong đó có những hạn chế
Những tồn tại của quá trình CPH làm cản trở đến việc niêm yết/đăng ký trên thị trường chứng khoán. Tiến độ
CPH chậm. kết quả thực hiện CPH mới đạt khoảng 80%, trong đó nhiều bộ ngành, địa phương đạt dưới 50%.
Thời gian để CPH một DN trung bình mất 437 ngày, nhiều nơi là vài năm trong khi theo quy định chỉ là 9
tháng. Theo kế hoạch, cho tới cuối năm 2007, còn 1700 DN cần CPH, bằng gần 70% số đã thực hiện của cả
giai đoạn 2000- 2005, đay thực sự là một bài toán cho các Bộ, ngành, và lời giải của bài toán này cũng chính
là chìa khoá cho việc gia tăng hàng hoá trên thị trường chứng khoán.

Nhiều DN CPH khó có thể trở thành công ty đại chúng. Phần lớn DN được CPH là DN nhỏ (có đến 40% DN
được CPH có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng). không những thế, tuy được CPH song phần vốn nắm giữ của nhà
nước tại các DN này vẫn rất lớn. Kể cả với DN đang niêm yết trên TTGDCK TP HCM, tỷ lệ phần vốn nhà
nước vẫn chiếm trung bình khoảng 30%. Mặt khác, có tới 38,4% số DN CPH không bán cổ phần ra bên
ngoài. Cổ phần ít được chào bán ra bên ngoài là một cản trở để DN đến với TTCK
Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính (VAFI) mới đây đã đưa ra báo cáo nghiên cứu về các doanh nghiệp
nhà nước của Việt Nam, trong đó nhấn mạnh rằng có 7 điểm khác biệt khá cơ bản giữa doanh nghiệp
nhà nước của Việt Nam với các nước khác.
Tại Việt Nam, số lượng doanh nghiệp nhà nước hiện có trên 1.000 doanh nghiệp không cổ phần hóa, trong
khi đó các nước phát triển như nhóm G7 chẳng hạn còn rất ít doanh nghiệp nhà nước hoặc chỉ còn tồn tại ở
những lĩnh vực cực kỳ quan trọng như dầu khí, xăng dầu, vận tải công cộng
Đối với vấn đề huy động vốn, trong khi doanh nghiệp nhà nước Việt Nam có thể được nhà nước cấp vốn và
không thể huy động được vốn cổ phần thì ở nước ngoài doanh nghiệp nhà nước có thể phát hành cổ phiếu để
huy động vốn từ cổ đông nhà nước và tư nhân, vì hầu hết doanh nghiệp nhà nước đều là những doanh nghiệp
lớn và phải thực hiện niêm yết.
Về chế độ công khai minh bạch, tại Việt Nam chưa có cơ chế để doanh nghiệp nhà nước phải công bố báo
cáo tài chính lên website và các phương tiện thông tin đại chúng, trừ lĩnh vực tài chính ngân hàng. Rất ít có
doanh nghiệp nhà nước tự nguyện công bố báo cáo tài chính lên website, và do đó rất khó nắm bắt được tình
hình tài chính và tình hình hoạt động một cách chi tiết.
Trong khi đó, doanh nghiệp nhà nước ở nước ngoài công khai thông tin về tình hình tài chính và tình hình
hoạt động một cách đầy đủ và thường xuyên như một doanh nghiệp niêm yết; chịu sự giám sát, chất vấn từ
các cổ đông thông qua nhiều hình thức.
Quan trọng nhất là tiến trình ra quyết định của doanh nghiệp nhà nước hiện cũng ghi nhận sự khác biệt đáng
kể. Tại Việt Nam, những quyết định quan trọng phải xin phê chuẩn từ cơ quan đại diện nhà nước và tiến trình
thông qua quyết định mất nhiều thời gian.
Trong khi ở nước ngoài, nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối nhưng hoạt động như một cổ đông lớn và cổ
đông nhỏ lẻ có thể phủ quyết những quyết định không có lợi cho doanh nghiệp hoặc cho họ.
4 Thực trạng huy động từ trái phiếu
4.1. Quy định phát hành trái phiếu đối với DNNN
Phương án phát hành trái phiếu của doanh nghiệp nhà nước phải được chủ sở hữu xem xét, chấp thuận trước

khi tổ chức phát hành, cụ thể như sau:
a) Đối với doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, thì
phương án phát hành trái phiếu phải được Bộ quản lý ngành kinh doanh chính xem xét, chấp thuận;
b) Đối với doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn Nhà nước do Bộ, ngành hoặc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương quyết định thành lập và làm chủ sở hữu, thì phương án phát hành trái phiếu phải được
Bộ, ngành, hoặc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xem xét, chấp thuận;
c) Đối với doanh nghiệp Nhà nước được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn từ hai thành viên trở lên, thì phương án phát hành trái phiếu phải được tổ chức được giao chức năng đại
diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp xem xét chấp thuận.
4.2) Những thuận lợi và khó khăn của DNNN khi huy động vốn từ trái phiếu
# Những thuận lợi
Tổng khối luợng vốn huy động góp phần đáp ứng một phần nhu cầu vốn; các đơn vị đã chủ động trong
việc quyết định số lưọng, thời hạn phát hành và thời điểm phát hành; thủ tục nhanh gọn hơn so với vay ngân
hàng đòi hỏi nhiều thủ tục, điều kiện và hạn chế khả năng cho vay; chi phí phát hành từ trái phiếu, cổ phiếu
thấp hơn chi phí đi vay ngân hàng hay vay ECA. Các DN có thể đưa ra những kế hoạch giải ngân, hay chủ
động hơn trong phòng ngừa rủi ro vỡ nợ. Đó là những lợi ích mà khi PHTP mang lại cho DN .
Ta có thể lấy EVN là ví dụ: chi phí đợt phát hành EVNBOND0406 là 9,9%/năm lãi suất traí phiếu
9,6%/năm và chi phí phát hành là 0,3%/năm trong khi mức cho vay của các NHTMQD đối với dự án trung
và dài hạn của EVN là 11,52% tiết kiệm hàng năm là 1,62%.
Trong tính toán lãi suất trái phiếu, việc sử dụng lãi suất của các ngân hàng quốc doanh làm tham chiếu
vẫn đảm bảo cạnh tranh về giá và hấp dẫn nhà đầu tư, lãi suất trái phiế u EVNBOND 0406 là 9,6%/ năm
bằng với mức lãi huy động cao nhất của khối ngân hàng là 9,6%/ năm do Sacombank công bố và cao hơn
mức bình quân của khối ngân hàng thương mại cổ phần là 9,13%/năm.
# Hạn chế vẫn còn gặp phải của DN khi phát hành trái phiếu:
a/ Khả năng đáp ứng nhu cầu nguồn vốn còn chưa cao
Khối lượng vốn huy động từ phát hành trái phiếu còn nhỏ chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Riêng 2006 nguồn vốn
đầu tư mà EVN chưa cân đối được là 7584 tỷ trong đó 2004 đợt phát hành trái phiếu tính đến 30/9/2006 huy
động được 2006 tỷ đồng, mới đáp ứng được 34,28% giá trị vốn chưa cân đối được nguồn.
b/ Về tính chất sử dụng vốn:
Việc sử dụng vốn từ phát hành trái phiếu mới chỉ bó hẹp trong phạm vi phục vụ đầu tư xây dựng cơ bản

mà chưa được sử dụng cho các mục đích khác như: cơ cấu khoản vay trung dài hạn, tăng quy mô vốn kinh
doanh.Với EVN mới chỉ chú trọng phát hành trái phiếu có số năm huy động vốn cho các công trình xây dựng
có thời gian 3-5 năm, còn đối với các công trình mà thờ gian xây lắp kéo dài > 10 năm Thuỷ điện Sơn La,
Thuỷ điện Lai Châu đòi hỏi phải có sự phù hợp về thời gian vay nợ thì EVN chưa phát hành đợt trái phiếu
dài hạn nào. Ngoài ra, trái phiếu của EVN trái phiếu của EVN phát hành không có khả năng chuyển đổi để
đảm bảo cân đối tỷ lệ trên vốn
c/ Tính chủ động kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn chưa cao
Do nhiều DNNN vẫn tự phát hành trái phiếu nên thời gian huy động vốn tương đối lâu, tiến hành giải
ngân vốn chậm. Hiện nay DN vẫn chưa có thói quen thuê tư vấn phát hành, chính vì thế việc thực hiện các
thủ tục vẫn còn phức tạp, rườm rà
d/ Chi phí huy động được xây dựng chưa thật sự chính xác, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm trực quan
CPHĐ = CPPH+LSTP
Các DN tiết kiệm chi phí bằng cách giảm lãi suất trái phiếu .Nhưng hiện nay hiếm có những DN nào có một
phương pháp khoa học để xác định lãi suất , ví dụ bằng các công cụ toán, bản thân lãi suất trái phiếu chưa
đủ độ tin cậy để hình thành đường cong lãi suất chuẩn. Mà các DN buộc phải xác định lãi suất trái phiếu
trên cơ sở lãi suất ngân hàng làm tham chiếu. Dựa trên khung lãi của ngân hàng( là đối thủ của DN trong
huy động vốn từ xã hội ) để xây dựng lãi suất trái phiếu gây ra sự sai lệch và giảm tính cạnh tranh của trái
phiếu, các ngân hàng có thể chấp nhận lãi ít và đột ngột thay đổi mức biên vào thời điểm phát hành thì khả
năng hấp dẫn của trái phiếu chưa chắc đã còn.
Phát hành trái phiếu thông qua hình thức đấu thầu giúp hình thành lãi trái phiếu một cách khách quan . Nếu
trái phiếu phát hành theo hình thức đấu giá, các DN chỉ cần xác định khung lãi suất tối đa có thể chấp nhận
được, việc xác định lãi suất sẽ do nhà thầu quyết định trên cơ sở cung- cầu. Tuy nhiên phương thức lập giá
này vẫn chưa được thực hiện rộng rãi.
e/ Khả năng chủ động hạn chế khả năng vỡ nợ chưa cao:
Việc lập kế hoạch sử dụng và trả nợ vẫn mang tính chủ quan, chưa hoàn toàn triệt để cần thiết phải có
thong tin đánh giá khách quan của đơn vị độc lập về tình hình tài chính của các DN. Cho đến nay thì các
DNNN vẫn chưa chủ động thuê tư vấn xếp hạng tín nhiệm trái phiếu. Chỉ có qua thông tin xếp hạng các DN
mới thực sự có thể chủ động tiến hành các biện pháp ngăn ngừa rủi ro vỡ nợ
II. Thực trạng sử dụng vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Thực trạng sử dụng vốn đầu tư ở các DNNN hiện nay còn nhiều điều đáng nói. Có nhiều DNNN làm ăn có

lãi nhưng đa phần các DNNN đang ở trong tình trạng làm ăn thua lỗ do việc tiến hành các hoạt động đầu tư
không chú trọng. Tính đến nay, Việt Nam có 13 tập đoàn kinh tế nhà nước gồm: Bưu chính - Viễn thông
(VNPT), Than - Khoáng sản (Vinacomin), Dầu khí (PetroVietnam), Điện lực (EVN), Công nghiệp Tàu thủy
(Vinashin), Dệt May (Vinatex), Cao su (VRG) và Tài chính - Bảo hiểm (Bảo Việt). Tập đoàn Viễn thông
Quân đội (Viettel), Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem), Tập đoàn phát triển nhà và đô thị Việt Nam
(HUD Holdings), Tập đoàn công nghiệp xây dựng Việt Nam (Songda), Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam
(Petrolimex). Ngoài ra, cả nước còn có 96 tổng công ty và công ty Nhà nước có quy mô lớn, tổ chức hoạt
động theo hình thức công ty mẹ con.Về vốn, theo số liệu của Bộ Tài chính, tám tập đoàn kinh tế cùng với 96
tổng công ty, công ty lớn của Nhà nước sở hữu gần 400.000 tỉ đồng, chiếm hầu hết vốn của Nhà nước có tại
các doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù hiện nay các tập đoàn và tổng công ty đang nắm giữ 75% tài sản cố định
của quốc gia, khoảng 60% tổng tín dụng ngân hàng trong nước và tổng vốn vay nước ngoài nhưng chỉ tạo ra
khoảng 40% tổng sản phẩm trong nước. Một trong các nguyên nhân là do sự đầu tư dàn trải thiếu tập trung.
Qua đó đã bộc lộ sự yếu kém trong việc sử dụng nguồn vốn của mình
1.Đầu tư cho xây dựng cơ bản
Đầu tư xây dựng cơ bản là một nội dung cơ bản của đầu tư phát triển, là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo tài sản
cố định của doanh nghiệp. Đầu tư XDCB bao gồm các hoạt động chính như: xây lắp và mua sắm máy móc
thiết bị. Trong doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, để các hoạt động diễn ra bình
thường đều cần xây dựng nhà xưởng, kho tàng, các công trình kiến trúc, mua và lắp đặt trên nền bệ các máy
móc thiết bị… Hoạt động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn và chiếm tỷ trọng cao trong hoạt động đầu tư phát triển
của đơn vị.
Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản có vai trò quan trọng trong DN, hoạt động này tạo ra cơ sở vật chất hạ
tầng cho DN, tạo tiền đề cho hoạt động của DN.
Ở một số DNNN máy móc thiết bị rất lạc hậu, có DNNN máy móc thiết bị lạc hậu đến hàng chục năm. Thực
tế này có thể thấy được ở rất nhiều DN. Mặc dù lạc hậu và nghèo nàn như vậy nhưng việc đầu tư cho xây
dựng cơ bản trong các DN không được quan tâm.
VD: Tính từ năm 1995 đến năm 2008,lợi nhuận của EVN đạt gần 32.000 tỷ đồng, nộp ngân sách hơn 38.000
tỷ giá trị tài sản cố định đến cuối năm 2008 đạt hơn 192.000 tỷ, tăng gần gấp 7 lần năm 1995. Năm 2008,
doanh thu EVN đạt hơn 67.500 tỷ đồng, tăng khoảng 800% so với năm 1995. Tuy nhiên, trong 2-3 năm trở
lại đây, Tập đoàn Điện lực bắt đầu nhận sự phán xét khá khắt khe của dư luận, còn ông Hưng bị chê "điều
hành yếu". EVN gặp không ít lời đàm tiếu về chuyện đầu tư ngoài ngành, nợ nần và làm ăn thua lỗ, trong đó

xôn xao nhất phải kể đến hoạt động kém cỏi của Công ty Thông tin viễn thông điện lực (EVN Telecom). Kỳ
vọng của EVN là việc đầu tư ra ngoài ngành, trong đó có viễn thông, sẽ hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh
chính là sản xuất điện đang bị mất cân đối về tài chính. Tuy nhiên kết quả lại không như mong đợi.
Tuy nhiên, không phải tất cả các DNNN đêu có họat động đầu tư xây dựng cơ bản ì ạch như vậy. Lấy ví dụ
là Tổng công ty sữa Việt Nam ( VINAMILK) từ khi thành lập năm 1976 đến nay, Vinamilk đã tiến hành xây
dựng nhiều nhà máy ở khắp 3 miền của đất nước. Các chi nhánh hoạt động cũng được Vinamilk đầu tư xây
dựng tích cực.VINAMILK không chỉ đầu tư xây dựng theo qui mô mở rộng ( theo chiều rộng) mà máy móc
thiết bị cũng được đầu tư đổi mới hiện đại. Như vậy Vinamilk đã tiến hành đầu tư theo cả chiều rộng và
chiều
2. Đầu tư bổ sung hàng dự trữ
Đây là hoạt động đầu tư nhằm đảm bảo cho hoạt động của DN diễn ra liên tục. Tuy nhiên trong các DNNN
sản xuất hiện nay hoạt động này cũng chưa được tiến hành một cách có hiệu quả. Tình trạng thiếu nguyên vật
liệu vẫn thường xuyên xảy ra. Ngành dệt may của VN cần phải nhập tới 80% nguyên vật liệu từ nước ngoài.
Ngành điện tử nội địa chỉ đáp ứng được trên dưới 20% linh kiện, ngành lắp ráp ô tô là 96,5% điều này
cho thâý DNNN phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu nước ngoài. Khi có những biến động xảy ra trên thế
giới thì các DN dễ rơi vào tình trạng đình trệ sản xuất vì thiều nguyên nhiên vật liệu.
3. Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu triển khai ( R& D) công nghệ kỹ thuật.
Hoạt động đầu tư này sẽ giúp cho DN nâng cao năng suất lao động, tìm ra công nghệ sản xuất mới, hạ giá
thành tăng tính cạnh tranh. Tuy nhiên , thực trạng đáng buồn trong các DNNN hiện nay là hoạt động này tuy
nhiều có nhìu biểu hiện cải thiện nhưng vẫn chưa được chú trọng và được tiến hành một cách mạnh mẽ. Bởi
lẽ, các DNNN Việt Nam đa phần đều có tình trạng sản xuất manh mún, không có những hoạt động để cải tiến
sản xuất. Với một thực trạng đầu tư xây dựng cơ bản như trên thì tất yếu hoạt động nghiên cứu triển khai
không được xúc tiến. Hơn nữa, đội ngũ nhân lực trong các DNNN cũng không đủ trình độ để nghiên cứu.
Lấy ví dụ về hang may mặc Việt Nam khi so sánh với hang may mặc của Trung Quốc trong năm 2008: sản
phẩm may mặc của TQ rẻ và mẫu mã thay đổi thường xuyên chính vì vậy VN có hàng dệt may XK nhưng
người dân trong nước vẫn dùng nhiều hàng TQ.Trong khi nước bạn liên tục tung ra thị trường những sản
phẩm mời thu hút khách hàng thì các DNNN Việt Nam không tự sản xuẩt ra nhiều sản phẩm mới. Nhưng
2011 vừa qua, ngành may mặc Việt Nam tiến bộ vượt bậc, bằng chứng là sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm
2009, ngành dệt may đã khắc phục khó khăn và khởi sắc vào năm 2010 với xuất khẩu đạt 11,2 tỉ USD tăng
hơn 23% so với năm 2009. Năm 2011 đặt ra của ngành là đạt 12,5 tỉ USD đến 13 tỉ USD, tuy nhiên chúng ta

vẫn chưa đuổi kịp trung quốc.
Theo số liệu thống kê thì Việt Nam nhập khẩu hàng may mặc trung quốc đều tăng từ tháng 9/2009 đến tháng
9/2011. Từ 2009-2010 tăng 48 tỷ đô , 2010-2011 tăng 49 tỷ đô.
4. Đầu tư cho hoạt động Marketing, quảng cáo
Hoạt động này sẽ giúp cho sản phẩm của DN đến được với khách hàng. Trong DN phần trăm chi cho hoạt
động này chiếm đến 5% doanh thu. Hiện nay, hoạt động quảng cáo rất đa dạng, như là truyền hình, báo,
internet hay là thông dụng nhất là các mạng xã hội Tuy vậy, các hoạt động quảng cáo tiếp thị sản phẩm của
các DNNN dường như không có gì. Có thể quan sát trên các phương tiện thông tín để thây được hoạt động
quảng cáo tiếp thị của DNNN dường như quá trầm. Trong những năm gần đây các DNNN cũng đã quan tâm
nhiều hơn đến quảng cáo tiếp thị tuy nhiên chất lượng chưa cao chưa thu hút được khách hàng. Các quảng
cáo của các DN nước ngoài vẫn được chú ý nhiều hơn.
5. Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực(NNL)
Có thể thấy được rằng cả đội ngũ cán bộ quản lí và công nhân ở các DNNN chất lượng không cao. Theo
điều tra của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, công nhân lao động trong cả nước có trình độ tiểu học
chiếm 3,7%, THCS là 14,7%, THPT là 76,6%, THCN và cao đẳng là 13,8%, đại học là 13,24%. Đứng trước
thực tế như vậy cho thấy việc đầu tư cho hoạt động đào tạo nguồn nhân lực ở các DN chưa được chú trọng và
quan tâm nhiều. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến năng suất lao động thấp ở các DN. Mặt khác khi nói đến hệ
thống quản lí của các DNNN này thì còn mang nặng tư tưởng cổ hủ, không những năng lực điều hành kém,
thiếu tính sáng tạo mà còn chủ quan, duy ý chí. Chính vì năng lực lãnh đạo yếu kém đã làm cho sản xuất
kinh doanh ở các DNNN không có hiệu quả. Điều này dẫn đến việc Nhà nước đã có chủ trương cho DNNN
thuê Tổng Giám đốc. 5 DNNN áp dụng thí điểm mô hình thuê Tổng Giám đốc trong đợt đầu tiên gồm các
Tổng Công ty: Công nghiệp Ôtô Việt Nam, Thủy tinh và Gốm xây dựng, Thiết bi kỹ thuật Điện, Công
nghiệp Tàu thủy Việt Nam và Tổng Công ty Xây dựng Sông Hồng. Nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được
chủ trương thuê tổng giám đốc cho DNNN. Trong cuộc chạy đua thu hút nguồn nhân lực thì DNNN luôn bị
thua các DN nước ngoài do có những qui định về lương thưởng chặt chẽ. Có DN đã phải trả 1000$/ ngày cho
chuyên gia nước ngoài để hướng dẫn kỹ thuật. Nhưng khi công nhân đã đạt được trình độ mới thì lương
không thay đổi. Chính vì vậy tồn tại việc di chuyển lao động từ DNNN sang các DN khác.
6. Các hoạt động đầu tư khác
Là hoạt động đầu tư ra ngoài ngành của doanh nghiệp, như hoạt động đầu tư tài chính được các doanh nghiệp
và tập đoàn kinh tế ưu chuộng, chẳng hạn như đầu tư vào các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tài chính, bất

động sản và bảo hiểm, nhưng các DNNN đầu tư rất lớn vào các lĩnh vực này mà lợi nhuận thu về thi không
cao. Do đó ngày 26.12.2011 Theo Bộ trưởng Vương Đình Huệ, sẽ yêu cầu chấm dứt tình trạng DNNN đầu tư
ra ngoài ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính. Những đơn vị đã đầu tư phải thoái vốn hết trước năm
2015. Lấy ví dụ điển hình là EVN, Ngày 31/12/2010, các khoản đầu tư tài chính dài hạn của EVN lên tới gần
50.000 tỉ đồng (chưa bao gồm các khoản đầu tư cho vay lại hàng chục ngàn tỉ đồng khác), trong đó chủ yếu
là đầu tư vào các công ty; số đầu tư vào các công ty liên doanh, liên kết chỉ trên 5.000 tỉ đồng chiếm trên
10% vốn đầu tư. Tuy nhiên, lợi nhuận đầu tư của khoản tiền gần 50.000 tỉ đồng đó rất thấp. Số lợi nhuận thu
được chỉ đạt trên 540 tỉ đồng với tỷ lệ lợi nhuận/vốn đầu tư chỉ hơn 1%. Lợi nhuận của EVN được chia từ
sản xuất, kinh doanh điện là trên 360 tỉ đồng, chiếm tỷ lệ trên 67,7% với tổng lợi nhuận được chia. Nhưng tỷ
lệ trên vốn đầu tư rất thấp, chỉ đạt khoảng 0,8% so với giá trị đầu tư vốn vào sản xuất, kinh doanh điện.
III. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của các DNNN hiện nay.
Các tập đoàn kinh tế (TĐKT) và tổng công ty (TCT) nhà nước giống như những người khổng lồ tạo nên sức
mạnh kinh tế của quốc gia, DNNN đang chiếm giữ một nguồn lực rất lớn của nền kinh tế, hệ thống DNNN
đóng góp cho GDP (khoảng 27-28% GDP). Sự lớn mạnh của TĐKT góp phần vào thúc đẩy phát triển kinh tế
quốc gia thông qua các hiệu ứng và tác động lan tỏa, thúc đẩy tiến bộ công nghệ, tạo nhiều việc làm mới.
CÁC HẠN CHẾ
Cơ chế quản lý vẫn còn nhiều bất cập, như quyền quản lý nhà nước đối với DNNN, vai trò của chủ sở hữu
hoặc người đại diện chủ sở hữu, vai trò và cơ chế trách nhiệm, quyền lợi của HĐQT hoặc hội đồng thành
viên chưa rõ ràng; trong khi quyền chủ động điều hành sản xuất, kinh doanh của DNNN lại bị hạn chế; cơ
chế tài chính và cơ chế phân phối lợi nhuận của DN, sự gắn kết lợi ích vật chất với trách nhiệm của người
quản lý và đội ngũ lao động… chưa được chế định rõ ràng bằng một đạo luật. Hoạt động của nhiều tập đoàn
kinh tế nhà nước đã bộc lộ không ít lãng phí, tốn kém, làm gia tăng nhiều hệ quả xấu, gây mất cân đối vĩ
mô - trong đó có cân đối ngành, sản phẩm, cán cân xuất - nhập khẩu, cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối và
tích lũy-tiêu dùng. Có những tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động kém, thậm chí để xảy ra nợ nần, thua lỗ
lớn, điển hình là Vinashin.
Sự đổ vỡ của TĐKT, nhất là những tập đoàn mạnh có thể gây nên nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.
Tuy nhiên, có thể nói, TĐKT đang giống những chiếc xe buýt tuy to nhưng không hề khỏe. Thống kê từ
BXH VNR500 ( bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất VN ) cũng cho thấy, các chỉ tiêu về hiệu quả kinh
doanh của các TĐKT và TCT Nhà nước không có chênh lệch lớn với khối doanh nghiệp thuộc thành phần sở
hữu tư nhân và thua xa các doanh nghiệp thuộc khối FDI. Cũng không phải là không đúng khi nói như vậy,

trong bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất VN năm 2011 top 5 doanh nghiệp đứng đầu thì có 4 doanh
nghiệp nằm trong khối DNNN, dẫn đầu là TĐ dầu khí, TCT xăng dầu VN, TĐ bưu chính viễn thông và TĐ
điện lực
1 1 TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ VIỆT NAM
010068159
2
Khai thác, thăm dò và dịch vụ dầu khí
2 2
TỔNG CÔNG TY XĂNG DẦU VIỆT
NAM
010010737
0
Kinh doanh xăng dầu, khí đốt, nhiên liệu
và các sản phẩm liên quan
3 3
TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH VIỄN
THÔNG VIỆT NAM
010069259
4
Viễn thông và công nghệ thông tin
4 4
CÔNG TY TNHH MTV VÀNG BẠC
ĐÁ QUÝ SÀI GÒN - SJC
030104575
9
Vàng, bạc, đá quý
5 5 TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT NAM
010010007
9
Sản xuất và phân phối điện

Rõ ràng to lớn là vậy nhưng hiệu quả lại không cao, TCT nhà nước hút quá nhiều nguồn lực của xã hội
nhưng sử dụng lại không hiệu quả, tạo môi trường cạnh tranh không công bằng, minh bạch, ảnh hưởng không
tốt tới phát triển kinh tế đất nước. Đồng thời, cũng có thể lập luận thêm rằng ngay cả khi những tập đoàn và
TCT có lãi thì chủ yếu nhờ vào sự bảo hộ của Chính phủ, nhờ vào vị thế độc quyền trên thị trường nội địa,
hay hàng rào thuế quan cao, và/hoặc được Chính phủ trợ cấp bằng vốn, đất đai, tài nguyên thiên nhiên rẻ, hay
được ban phát các hợp đồng béo bở. Lại có ý kiến cho rằng khu vực nhà nước ở Việt Nam hiện chiếm hữu rất
nhiều nguồn lực nhưng sử dụng chúng một cách kém hiệu quả, đóng góp rất khiêm tốn cho ngân sách, tăng
trưởng GDP, tạo việc làm mới, phát triển công nghiệp, và xuất khẩu.
Dẫn chứng cho nhận xét trên , Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ, các DNNN đã phải sử dụng
tới 2,2 đồng vốn để tạo ra 1 đồng doanh thu năm 2009, trong khi đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ cần
1,2 đồng vốn và doanh nghiệp FDI là 1,3 đồng để tạo ra 1 đồng doanh thu . Trong 10 năm qua, tỷ suất lợi
nhuận trên tổng nguồn vốn của khu vực DNNN chưa năm nào vượt quá 6%, trong khi các DN FDI luôn duy
trì ở mức trên dưới 10%. Đáng chú ý có rất nhiều doanh nghiệp khó khăn đặc biệt khối doanh nghiệp kinh
doanh xây lắp đã thua lỗ kéo dài trong suốt một thời gian, vốn chủ sở hữu thấp như Tổng công ty Xây dựng
đường thuỷ, Tổng công ty Dâu tằm tơ.
Các kết quả điều tra cho thấy bên cạnh những DN làm ăn có lãi thì phần lớn các DNNN đều thua lỗ.Tuy
nhiên cũng cần phải tính đến trường hợp các doanh nghiệp này có lãi là do CP đã ưu ái khá lớn cho khối
DNNN này như đã nêu trên.
Tính đến cuối năm 2010,
+quy mô vốn chủ sở hữu của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 540.701 tỷ đồng (tăng 11,75% so với
năm 2009);
+tổng lợi nhuận trước thuế là 70.778 tỷ đồng;
+chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu chỉ đạt khoảng 13,1%, thấp hơn nhiều so với lãi suất vay
ngân hàng thương mại trong năm 2010.
Đặc biệt, có đến 80% tổng số lợi nhuận trước thuế đến từ 4 tập đoàn: Dầu khí, Viễn thông Quân đội, Bưu
chính viễn thông và Cao su. Như vậy, ở các tập đoàn, tổng công ty còn lại, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu còn thấp hơn nữa).
Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê năm 2011, hàng năm có khoảng 12% DNNN bị lỗ trong sản
xuất kinh doanh, trong khi của khu vực doanh nghiệp nói chung là 25%. Tuy nhiên, mức lỗ bình quân của
một DNNN bị lỗ cao gấp 12 lần so với doanh nghiệp ngoài nhà nước. Không ít doanh nghiệp nhà nước có

mức lỗ đặc biệt cao như Tập đoàn Điện lực năm 2010 lỗ 8.500 tỷ đồng, chưa kể lỗ lũy kế từ các năm trước.
Kết quả kiểm toán năm 2009 cho thấy, Tổng công ty Bưu chính lỗ 1.026 tỷ đồng; Tổng công ty Lắp máy lỗ
103 tỷ đồng; Tổng công ty Xây dựng Sông Hồng lỗ 20 tỷ đồng (lũy kế là 121 tỷ đồng)…
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tại thời điểm 1/1/2010, bình quân một doanh nghiệp Việt Nam có nợ
phải trả cao gấp 2,1 lần vốn chủ sở hữu, trong khi tỷ lệ này với các doanh nghiệp nhà nước là 3,09 lần,
ngưỡng 3 lần (hệ số an toàn tài chính). Cá biệt có một số tổng công ty trong tình trạng nợ cao gấp hơn 10 lần
so với định mức theo hệ số an toàn vốn, đặc biệt là các đơn vị trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng, xây lắp.
Chỉ tiêu ROA và ROE của 8 TĐKT và 54 TCT Nhà nước có mặt trong BXH 2009 lần lượt chỉ là 6,3% và
6,2%. Trong khi đó, các con số tương ứng của khối FDI 14% và 28%. Điều đó cho thấy, nếu xét riêng về
hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước và tập đoàn kinh tế đang thua kém từ 2 đến 3 lần so với các
doanh nghiệp FDI. Đó là chưa kể, đóng góp vào GDP của khối kinh tế Nhà nước trong 4 năm gần đây giảm
so với trước, chỉ còn khoảng 35% so với khoảng 46% của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước.
Bảng 1: Một số chỉ tiêu hiệu quả của các TĐKT và TCT so với khối FDI và ngoài NN
ROA ROE
TĐKT TCT FDI TĐKT TCT FDI
2006 0,14 0,08 0,27 0,27 0,31 0,62
2007 0,05 0,05 0,15 0,09 0,19 0,31
2008 0,06 0,06 0,14 0,12 0,20 0,28
( với ROA là tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản (Return on total assets)
ROA đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của công ty.
Công thức:
ROA =
Lợi nhuận ròng dành cho cổ đông
thường
Tổng tài sản
ROE là tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (Return on common equyty)
ROE là tỷ số quan trọng nhất đối với các cổ đông, tỷ số này đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn
của cổ đông thường.
Công thức:
ROE =

Lợi nhuận ròng dành cho cổ đông
thường
Vốn cổ phần thường
Bộ trưởng Vương Đình Huệ cho rằng một trong những nguyên nhân của tình trạng trên bắt nguồn từ mô hình
phát triển kinh tế chung, DNNN nhất là các TĐKT, TCT nhà nước đã quá thiên về mở rộng quy mô đầu tư,
chưa chú trọng phát triển theo chiều sâu nên hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh thấp. Bên cạnh đó tình
trạng nhiều TĐKT, TCT nhà nước đầu tư vào những ngành, lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, phụ thuộc nhiều
vào vốn vay hoặc chiếm dụng. Chưa kể tình trạng độc quyền hoặc thống lĩnh thị trường trong một số lĩnh vực
làm hạn chế động lực cạnh tranh và phát triển như: Tổng công ty Thép Việt Nam chiếm 35% thị phần trong
nước, Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam chiếm trên 50%, Tổng công ty Xăng dầu chiếm trên
60%, Tập đoàn Điện lực sản xuất và cung ứng tới 80% nhu cầu tiêu thụ điện toàn xã hội, Tập đoàn Công
nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam cũng chiếm đến 98% thị phần cả nước
Những hệ quả của sự yếu kém của DNNN gây ra có thể được tóm tắt trên một số điểm:
+Với các khoản nợ xấu quá lớn, DNNN có thể gây đổ vỡ hệ thống tài chính, khi mà các DNNN không còn
khả năng thanh toán, sẽ gây ra mất khả năng thanh khoản và khả năng thanh toán cho các NHTM. Điều này
sẽ gây bất ổn rất nghiêm trọng cho thị trường tài chính;
+Nợ của DNNN sẽ là gánh nặng cho nợ công, do doanh nghiệp bị hạn chế hoặc không còn khả năng tạo ra
tiền để trả nợ. Nhà nước sẽ phải chịu trách nhiệm trước các khoản nợ có bảo lãnh. Nếu nhà nước muốn trả nợ
sẽ phải tiếp tục tăng thuế để trả, hoặc đi vay, hoặc in tiền để trả nợ. Cả 3 khả năng này đều dẫn đến những
hậu quả tồi tệ cho kinh tế vĩ mô;
+Đổ vỡ niềm tin của nhân dân vào sức mạnh kinh tế nhà nước, niềm tin của các nhà đầu tư, các tổ chức tài
chính quốc tế, từ đó làm giảm hệ số tín nhiệm quốc gia và hệ số tín nhiệm của khu vực doanh nghiệp.
Một ví dụ về tập đoàn điện lực EVN : Số nợ phải trả của EVN tính đến hết năm 2010 rất lớn, trên 200.000 tỷ
đồng, chiếm gần 80% tổng nguồn vốn. Khoản tiền EVN nợ tiền mua điện của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
tính đến 30/6/2011 đã lên tới hơn 8.860 tỷ đồng và nợ Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam hơn 1.200 tỷ
đồng. Tổng số lỗ của EVN năm 2010 trên 8.500 tỷ đồng; tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu âm (-) 14,8%;
tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản âm (-) 2,78%. Riêng khâu sản xuất, kinh doanh điện lỗ trên 10.500 tỷ đồng
chủ yếu do năm 2010, các nhà máy thuỷ điện thiếu nước nên EVN phải huy động nhà máy điện chạy dầu và
mua điện ngoài hệ thống với giá cao cấp 3-4 lần giá bán bình quân. Cộng thêm các yếu tố khác như biến
động giá nhiên liệu, biến động tỷ giá hối đoái, nhiều nhà máy điện chậm đi vào vận hành nên hệ thống thiếu

công suất, phải huy động điện chạy dầu giá thành cao… khiến số lỗ của EVN thêm lớn.
IV. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
1. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÁC LOẠI NGUỒN VỐN
A. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ
1. Đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định: Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay, tài
sản cố định thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ hao mòn vô hình. Do đó, để có cơ sở cho việc tính toán
khấu hao thu hồi vốn đầy đủ, doanh nghiệp cần phải giảm thiểu sự chênh lệch giữa giá trị thực tế và giá trị
trên sổ sách của tài sản. Muốn vậy, doanh nghiệp phải có kế hoạch và biện pháp đánh giá và đánh giá lại tài
sản một cách thường xuyên, chính xác. Nhờ vậy mà doanh nghiệp xác định được giá trị thực của tài sản cố
định, từ đó xác định mức khấu hao hợp lý để thu hồi vốn hoặc kịp thời sử lý những tài sản cố định bị mất giá
để chống lại sự thất thoát vốn.
2. Nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định: các doanh nghiệp cần tận dụng tối đa công suất của máy móc
thiết bị, giảm ttthời gian tác nghiệp, hợp lý hoá dây chuyền công nghệ, đảm bảo nghiêm ngặt chế độ duy tu
bảo dưỡng máy móc thiết bị, áp dụng chế độ khuyến khích vật chất và trách nhiệm đối với quản trị và sử
dụng tài sản cố định. Đồng thời doanh nghiệp cần tổ chức tốt quá trình sản xuất theo nguyên tắc cân đối, nhịp
nhàng và liên tục
3. Kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng VCĐ của doanh nghiệp: Sau mỗi kỳ kế hoạch, nhà quản trị
phải tiến hành phân tích, đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định thông qua các chỉ tiêu phân tích hiệu quả
sử dụng vốn. Từ đó, doanh nghiệp có thể đưa ra những quyết định đầu tư, điều chỉnh lại quy mô, cơ cấu sản
xuất cho phù hợp, khai thác được những tiềm năng sẵn có và khắc phục những tồn tại trong quản trị.
4. Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp có thể sử dụng một số biện pháp khác như sử dụng quỹ khấu hao hợp
lý, kịp thời sử lý những máy móc thiết bị lạc hậu, mất giá, giải phóng những máy móc thiết bị không cần
dùng, mua bảo hiểm tài sản để đề phòng rủi ro….
B. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ
Để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, VLĐ luôn thay đổi giá trị và vận động theo chu
kỳ sản xuất từ cung ứng đến sản xuất và lưu thông. Cứ như vậy VLĐ được tiếp tục tuần hoàn và chu chuyển
theo chu kỳ sản xuất. Do phương thức vận động có tính chu kỳ như trên, nên để nâng cao hiệu quả sử dụng
VLĐ các doanh nghiệp cần phải áp dụng các biện pháp sau:
1. Xác định chính xác VLĐ ở từng khâu luân chuyển. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công
tác quản trị VLĐ nhằm tiết kiệm VLĐ sử dụng trong sản xuất kinh doanh. - thông qua việc xác định VLĐ ở

từng khâu để nắm được lượng VLĐ cần phải đi vay, tránh ứ đọng. Đảm bảo đủ VLĐ cần thiết cho sản xuất
kinh doanh được tiến hành liên tục, thúc đẩy tốc độ luân chuyển VLĐ nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
2. Tổ chức khai thác tốt nguồn VLĐ phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Trước hết doanh nghiệp cần phải khai
thác triệt để các nguồn vốn nội bộ và các nguồn vốn có thể chiếm dụng một cách thường xuyên (nợ định
mức), sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nhất nguồn vốn này. Nếu còn thiếu doanh nghiệp phải tìm đến các
nguồn vốn từ bên ngoài như vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vốn liên doanh liên kết, vốn phát
hành cổ phiếu trái phiếu…. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần cân nhắc, tính toán, lựa chọn phương thức huy
động sao cho chi phí là thấp nhất.
3. Thường xuyên phân tích tình hình sử dụng VLĐ: Tăng cường việc kiểm tra tài chính đối với việc sử dụng
VLĐ, thực hiện công việc này thông qua phân tích một số chỉ tiêu như : Vòng quay VLĐ, sức sinh lợi của
VLĐ….Trên cơ sở đó biết được rõ tình hình sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp, phát hiện những vướng mắc
và sửa đổi kịp thời, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ.
4. Ngoài các biện pháp nêu trên doanh nghiệp cần áp dụng một số biện pháp tổng hợp như : đẩy mạnh khâu tiêu
thụ hàng hoá, sử lý kịp thời những vật tư, hàng hoá chậm luân chuyển để giải phóng vốn. Thường xuyên xác
định phần chênh lệch giữa giá mua ban đầu với giá thị trường tại thời điểm kiểm tra tài sản cố định tồn kho
để có biện pháp xử lý kịp thời, hiệu quả. Thực hiện nghiêm túc, triệt để công tác thanh toán công nợ, chủ
động phòng ngừa rủi ro, hạn chế tình trạng chiếm dụng vốn mà từ đó làm phát sinh nhu cầu VLĐ dẫn đến
doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế hoạch, tăng chi phí vốn mà đáng ra không có. Vốn bị chiếm dụng ngày
càng trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp khi trở thành nợ khó đòi, gây thất thoát vốn của doanh nghiệp.
Bởi vậy để chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nên lập các quỹ dự phòng tài chính để
có thể bù đắp khi vốn bị thiếu hụt.
2. GIẢI PHÁP VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC VÀ TĐKT
* Đối với Nhà nước
- Nhanh chóng bổ sung, sửa đổi và ban hành các văn bản quản lý Nhà nước để phù hợp với các loại hình
DN mới như TĐ. Bởi vì cho đến nay đã qua 2 năm kể từ khi TĐ kinh tế đầu tiên được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt thành lập chưa có một cơ chế hoạt động nào cho TĐ được ban hành. Trước mắt cần sớm ban hành
Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 199/2004/NĐ-CP về quy chế quản lý tài chính của TCT Nhà nước
và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào DN khác, theo đó đưa ra các quy định, điều kiện, tiêu chí về huy động
vốn, về đầu tư và thẩm quyền quyết định cho phù hợp vừa nhằm phát huy tính tự chủ của DN vừa nhằm đảm
bảo sự quản lý của Nhà nước và giám sát của cơ quan đại diện, chủ sở hữu. Về lâu dài, Chính phủ cần sớm

trình Quốc hội ban hành Luật sử dụng vốn ngân sách vào kinh doanh.
- Kiên quyết thay đổi cơ chế giao vốn, cấp vốn bằng cơ chế đầu tư vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn, tăng cường trách nhiệm trong quản lý vốn, bảo toàn và phát triển vốn. TĐ, TCT là đại diện chủ sở hữu
về vốn Nhà nước tại TĐ,TCT và chỉ có trách nhiệm hữu hạn đối với số vốn tại các công ty con và công ty
liên kết, không được điều chuyển vốn của mình đầu tư tại công ty thành viên hạch toán độc lập và vốn, tài
sản của công ty thành viên này theo phương thức không thanh toán, từ trường hợp quyết định tổ chức lại
công ty thành viên hạch toán độc lập hoặc thực hiện mục tiêu cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Mọi
quan hệ đều phải dựa trên cơ sở hợp đồng kinh tế. Điều này sẽ giúp khắc phục tình trạng công ty mẹ hiện nay
vẫn thực hành quyền phán quyết về tài sản, nguồn vốn và các nguồn lực khác của các công ty con, đảm bảo
quyên tự chủ của các công ty con.
- Cho phép khấu hao cả với những tài sản không cần dùng, chờ thanh lý để đảm bảo thu hồi đủ vốn
đầu tư. Việc không cho phép khấu hao đối với các tài sản không cần dùng, chờ thanh lý là không hợp lý,
điều này đã vi phạm nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn. Các TĐ, TCT cần được quyên chủ động hơn
trong việc nhượng bán và thanh lý TSCĐ đã lạc hậu kỹ thuật, không có nhu cầu sử dụng hoặc không dùng
được để sớm thu hồi vốn phục tái đầu tư.
- Cân phân cấp cụ thể về quyền hạn đối với quản lý vốn: đầu tư, mua sắm, nhượng bán, cho thuê tài sản
hoặc thế chập, cầm cố tài sản để đi vay hoặc cho vay, cho nợ vì việc thiếu phân cấp cụ thể những vấn đề
này đã hạn chế tính chủ động sáng tạo và quyên độc lập kinh doanh của các công ty con. Từ tham khỏa và
vân dụng quy chế quản lý tài chính trong các công ty cổ phần ở các nước phát triển có thể đưa ra một số cơ
chế phân cấp thẩm quyền đầu tư và quản lý tài sản như sau:
Cấp có thẩm quyền quyết định Quy mô tài sản
thuộc thẩm quyền
Công ty cổ phần Tổng công ty
1. Đại hội cổ đông 1. Cơ quan quyết định thành Trên 50% tổng tài
2. Hội đồng quản trị
3. Chủ tịch HĐQT
4. Tổng giám đốc
5. Giám đốc
lập
2. HĐQT

3. Chủ tịch HĐQT và TGĐ
4. Tổng giám đốc
5. Giám đôc công ty con
sản
Dưới 50% tổng tài
sản
Dưới 30% tổng tài
sản
Dưới 10% tổng tài
sản
Dưới 5% tổng tài
sản
- Về việc huy động vốn:
(1) Nhà nước cần tạo điều kiện cho các TĐ, TCT huy động vốn theo các hình thức khác nhau, đặc biệt là cho
phép vay vốn nước ngoài trong một thời hạn nhất định so với mức vốn điều lệ thực có (Vốn điều lệ = Tổng
giá trị tài sản toàn TCT – Giá trị các khoản phải trả - Giá trị trị các khoản thua lỗ, mất vốn ). Giới hạn này
có thể là từ 100%, 200% tổng vốn điều lệ thực có. Việc vay vốn nước ngoài thực hiện theo qui chế TĐ, TCT
tự vay tự trả, Nhà nước giúp đỡ tìm đầu mối và bảo lãnh vay vốn. Trong phạm vi dư nợ cho phép, TĐ, TCT
phân cấp cho HĐQT và Tổng giám đốc quyết định việc vay vốn. Trường hợp có nhu cầu vay ngoài hạn mức
cho phép thì phải được Bộ Tài chính phê chuẩn.
(2) Hiện nay, vẫn còn tồn tại hạn mức vay vốn đối với các công ty con thành viên, dẫn tới làm giảm tính
năng động và trách nhiệm và làm tăng sự phụ thuộc của họ vào quan hệ giữa TCT với các ngân hàng. Điều
này cũng đồng thời đặt gắng nặng rủi ro lên TCT.
(3) Nhà nước cần chỉ đạo các ngân hàng thương mại phải thực hiện đúng các hợp đồng tín dụng đã ký với
các TĐ, TCT, kịp thời giải ngân các khoản vay trên cơ sở đàm phán điều chỉnh lại mức lãi suất phù hợp với
tình hình mới, đảm bảo lợi ích hài hòa giữa ngân hàng và TĐ, TCT.
(4) Nhà nước cần có giải pháp hữu hiệu hơn nữa để hỗ trợ thị trường chứng khoán đang bị giảm sút hiện nay,
bởi đây là nơi đầy tiềm năng mà các TĐ, TCT có thể khai thác, huy động nguồn vốn dài hạn là rất lớn.
- Về chế độ thuế đối với các sản phẩm và tài sản luân chuyển nội bộ: Theo chế độ hiện hành, các DN là
thành viên TĐ, TCT là những pháp nhân kinh tế, do đó phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.

(1) Nhà nước nên miễn thuế gián thu cho các sản phẩm, hoàng hóa luân chuyển nội bộ TCT nếu sản phẩm,
hoàng hóa này bán ra ở khâu kinh doanh. Điều này sẽ làm giảm giá thành của sản phẩm tiêu thụ, tạo điều
kiện thuận lợi cho DN. Với lượng thuế phải nộp như hiện nay, DN sẽ bị giảm lãi, do đó có thể bị lỗ.
(2) Nhà nước nên cho phép các công ty con là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trong TCT được
phép bù trừ lãi, lỗi với nhau khi xác định thuế thu nhập phải nộp bởi vì xét cho cùng thì các công ty này đề
thuộc sở hữu của Nhà nước, công ty nào có lãi thì phải nộp thuế, công ty bị lỗ không phải nộp thuế sẽ dẫn
đến tình tạng công ty bị lỗ mất vốn, dẫn đến thực tế là TCT đã bị giảm vốn do lỗ từ công ty con.
(3) Đối với những tài sản điều động từ DN thành viên này sang DN thanh viên khác trong TCT thuộc diện
phải đăng ký quyền sở hữu, quản lý và nộp thuế trước bạ thì Nhà nước nên miễn thuế trước bạ cho những tài
sản này khi đăng ký quyền sở hữu. Trên thực tế, các tài sản đó cuối cùng cũng đều là của TCT, thuế trước bạ
hiện nay chỉ là tăng chi phí và làm giảm hiệu quả kinh doanh của TCT.
(4) Trong tình hình khó khăn về vốn như trước mắt hiện nay, Nhà nước nên xem xét cho phép các DN trong
TCT được chậm nộp thuế trong một năm, có thể là 3 tháng hay 5 tháng, đây cũng là một giải pháp nhằm hỗ
trợ về vốn tạm thời cho các DN tròn TCT.
* Đối với các TĐKT, các TCT
- Tiếp tục đẩy mạnh các đề án sắp xếp, cổ phần hóa đã được Thủ tướng Chính phủ phe duyệt nhằm đẩy mạnh
việc sắp xếp, cổ phần hóa, đổi mới DN 100% vốn Nhà nước, đồng thời ra soát, xây dựng để chuyển các DN
nhiệm vụ, các TĐ, các TCT, Công ty mẹ tiếp tục nắm giữ 100% vốn đến năm 2010 thành công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên. Bên cạnh đó, căn cứ vào tiêu chí, danh mục phân loại DN 100% vốn Nhà
nước và tình hình thực tế, thực hiện bán bớt phần vốn Nhà nước ở những DN Nhà nước không cần nắm giữ
cổ phần chi phối hoặc không cần nắm giữ cổ phần để đầu tư vào các dự án, lĩnh vực quan trọng.
- Kiên quyết cắt giảm, đình hoãn những công trình, dự án chưa thật cần thiết để tập trung vốn đầu tư vào các
công trình chính, trọng điểm cần hoàn thành ngay;
- Vay vốn khấu hao cơ bản của công ty cổ phần là các công ty con chưa có nhu cầu đầu tư, tái tạo lại TSCĐ
và cố gắng tìm kiếm các khoản vay ngắn hạn các ngân hàng nước ngoài;
- Việc điều hòa vốn phải được quy định cụ thể trong quy chế tài chính của TCT và phải thực hiện theo những
nguyên tắc nhất định, đó là: (1) Nguyên tắc về quyền tự chủ kinh doanh, (2) Nguyên tắc hiệu quả của sự điều
hòa vốn, (3) Nguyên tác hợp lý giữa lợi ích trung toàn TCT với lợi ích cục bộ mỗi được thành viên. Bởi lẽ,
mỗi đơn vị thành viên cũng là những pháp nhân kinh tế tự chịu trách nhiệm trước TCT, trước Nhà nước,
trước pháp luật về các hoạt động kinh doanh của mình, cho nên việc điều hòa vốn không được gây những ảnh

hưởng tới nhiệm vụ kinh doanh của các đơn vị thành viên, tới trách nhiệm dân sự của họ;
- Tập trung rà soát và dừng mua sắm vật tư, trang thiết bị chưa thật cần thiết, tạm thời chưa bố trí quỹ đầu tư
phát triển để đảm bảo một phần nguồn vốn đầu tư;
- Tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, chi phí vận hành trong toàn TĐ, TCT;
- Trên tinh thần chia sẻ khó khăn vì lợi ích chung, các TCT phải chủ động đàm phán với các ngân hàng
thương mại để điều chỉnh mức lãi suất cho phù hợp với tình hình mới, nhằm đảm bảo giải ngân vốn vay và
tiếp tục thực hiện các hợp đồng tín dụng;
- Lập phương án bán bớt cổ phần các công ty cổ phần thông qua đàm phán trực tiếp với các nhà đầu tư chiên
lược;
- Tiếp tục thực hiện các biện pháp để chuyển đổi cơ cấu nguồn vốn như huy động vốn từ đầu tu nước ngoài,
tiến hành đấu thầu EPC theo phương án nhà thầu thu xếp tài chính để giảm bớt gánh nặng cho TĐ, TCT;
- Phương án thành lập công ty cổ phần để triển khai các dự án với phần vốn góp không chi phối, trong đó tập
trung mời các DN Nhà nước có tiềm lực và các nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước tham gia;
- Phát hành trái phiếu để huy động vốn;
- Tiếp cận các nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại nước ngoài ;
- Tận dụng tối đa các kênh huy động vốn thông qua các công ty con mà TCT có cổ phân chi phối hay cổ
đông chiến lược; cần coi trọng kênh huy động vốn qua thị trường chứng khoán, nhất là trong bối cảnh lãi suất
cho vay của các ngân hàng tăng cao như hiện nay;
- Chủ động phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan, các ngân hàng thương mại trong nước và các tổ chức tài
chính quốc tế để kịp thời xử lý, giải quyết những vướng mắc, khơi thông nguồn vốn tín dụng cũng là biện
pháp quan trọng để đảm bảo nguồn vốn đầu tư,
Với các biện pháp tích cực, chủ động thu xếp vốn, các TĐ, TCT sẽ giải quyết được khó khăn về vốn, đảm
bảo các dự án sẽ được triển khai đúng tiến độ, góp phần đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ Nhà nước giao.
Quy chế huy động và sử dụng vốn là một trong những nền tảng quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh
doanh, đến thành bại của DN nói chung, trong đó có các TĐ, TCT được tổ chức theo mô hình công ty mẹ -
công ty con. Do vị thế quan trọng của các TĐ, TCT đối với nề kinh tế việc vận dụng quy chế này đòi hỏi sự
ra soát thường xuyên nhằm kịp thời phát hiện những vướng mắc, cản trở để trên cơ sở đó đưa ra được những
sự điều chỉnh cần thiết, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của DN.

×