Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Thanh khoản tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.32 KB, 52 trang )

Học Viện Ngân hàng
MỤC LỤC
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
1
Học Viện Ngân hàng
LỜI NÓI ĐẦU
Là 1 sinh viên của Học viện Ngân hàng, hẳn ai cũng đã trải qua 3 tháng
thực tập tại các ngân hàng.Thời gian qua tôi đã có điều kiện thực tập tại
Sacombank – CN Đông Đô, là 1 chi nhánh mới thành lập chưa phản ánh được
thực trạng hoạt động của toàn hệ thống Sacombank, nhưng tại đây tôi đã học
tập được rất nhiều. Trong quá trình thực tập tại chi nhánh, tôi đã thực tập tại 3
vị trí : Bộ phận tiền gửi, bộ phận kế toán và bộ phận tín dụng nhằm nắm được
sơ bộ về quy trình, không khí làm việc thực tế tích lũy kinh nghiệm cho công
việc sau này, đồng thời thu thập tài liệu phục vụ cho việc nghiêm cứu đề tài
tốt nghiệp.
Dựa trên quá trình học tập và thực trạng nền kinh tế, tôi đã quyết định
chọn đề tài : “ Thanh khoản tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
thương tín”, 1 vấn đề thời sự hiện nay đang được toàn xã hội quan tâm. Tuy
nhiên, nghiên cứu của tôi chỉ dừng lại là 1 đề tài tốt nghiệp, nghiên cứu sơ bộ
về thanh khoản tại ngân hàng thương mại, thực tế điều hành của Ngân hàng
Nhà nước nói chung và của riêng Sacombank. Đề tài nghiên cứu của tôi thực
sự còn sơ sài và có nhiều thiếu sót, mong nhận được sự góp ý của tất cả mọi
người.
Để thực hiện đề tài này tôi đã tham khảo 1 số tài liệu :
Giáo trình Quản trị ngân hàng của Peter Rose
Các quyết định của Sacombank :
1.Quyết định 632/2007/QĐ – HĐQT : V/v ban hành Quy chế điều hành
thanh khoản tại Sacombank
2.Quyết định 744/2005/QĐ – KDTT : V/v ban hành Quy định về phương
pháp tính định mức thanh khoản tại Sacombank
3.Quyết định 4267/2007/QĐ – KDV : V/v ban hành Quy trình điều hành


thanh khoản tại Sacombank
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
2
Học Viện Ngân hàng
4.Quyết định 149/2004/QĐ – HĐQT : V/v ban hành Quy chế đảm bảo
hoạt động liên tục trong điều kiện khủng hoảng
Và một số tài liệu nội bộ khác của Sacombank
Các web tham khảo : www.sacombank.com
www.sbv.gov.vn
www.doanhnhan360.com
www.laodong.com.vn
www.dantri.com

Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
3
Học Viện Ngân hàng
LÝ LUẬN CHUNG
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hơn hai thập kỷ qua, kể từ khi hệ thống ngân hàng Việt Nam thực hiện
việc cải cách, các ngân hàng thương mại đã có nhiều bước phát triển mới cả
về chất và lượng, nhưng vấn đề rủi ro thanh khoản dường như vẫn chưa nhận
được sự quan tâm đúng mức của ban lãnh đạo các ngân hàng thương mại hay
thậm chí là cả Ngân hàng nhà nước, mà hậu quả của nó là sự thiếu hụt thanh
khoản trên toàn hệ thống diễn ra trong thời gian qua. Mặc dù với nỗ lực của
Ngân hàng nhà nước và bản thân các ngân hàng thương mại, cuối cùng sự
thiếu hụt cũng qua đi nhưng đây là một hồi chuông cảnh tỉnh sự quan tâm
đúng mức của các cấp lãnh đạo đối với công tác quản trị thanh khoản.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng mà các nhà quản lý ngân hàng cần
thực hiện là đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lý cho ngân hàng. Ngân hàng
có khả năng thanh khoản tốt , hay nói cách khác là ngân hàng không gặp phải

rủi ro thanh khoản khi ngân hàng kuôn có được nguồn vốn với chi phí hợp lý
mà ngân hàng cần, tức là ngân hàng không rơi vào tình trạng thiếu hụt nguồn
vốn thanh khoản gây ảnh hưởng tới hoạt động chi trả trong ngày cũng không
rơi vào tình trạng thừa gây lãng phí nguồn vốn. Đây thực sự là 1 điều khó đối
với công tác quản lý, tuy nhiên với những hậu quả của việc thiếu hụt thanh
khoản gây ra không chỉ đối với bản thân ngân hàng mà còn đối với sự ổn định
của cả nền kinh tế thì vấn đề thanh khoản hiện nay không thể xem nhẹ được.
Đầu năm 2007 nhận thấy nguy cơ lạm phát có thể tăng đến mức 2 con
số Ngân hàng nhà nước đã nhanh chóng ra quyết định áp dụng chính sách tiền
tệ thắt chặt với biện pháp đầu tiên là tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Theo quyết
định 1141/QĐ – NHNN, kể từ ngày 01/06/2007 tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với
tiền gửi không kì hạn và có kì hạn dưới 12 tháng bằng VND đối với các ngân
hàng thương mại là 10%/năm, tăng gấp đôi so với mức cũ. Điều này đồng
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
4
Học Viện Ngân hàng
nghĩa với việc nguồn vốn cho vay của các ngân hàng bị cắt giảm. Lúc này,
nếu ngân hàng huy động được 100 đồng thì sẽ chỉ được phép cho vay 90
đồng, thay vì 95 đồng như trước đây. Để đảm bảo lợi nhuận các ngân hàng
buộc phải giảm lãi suất huy động hoặc tăng lãi suất cho vay. Nhưng lúc này
thị trường chứng khoán và các kênh đầu tư khác đang thuận lợi, việc cắt giảm
lãi suất huy động lúc này là không thể.Giải pháp duy nhất của ngân hàng là
phải tăng lãi suất cho vay. Tuy nhiên bài toán lãi suất không dừng ở đó, với
những nguyên nhân sẵn có, việc tăng lãi suất cơ bản như 1 giọt nước làm tràn
ly, làm cho tình trạng thiếu hụt thanh khoản xảy ra hàng loạt trên toàn hệ
thống ngân hàng. Đến đầu năm 2008, tình trạng thiếu hụt tiền đồng đã làm
cho lãi suất vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng tăng lên một cách
chóng mặt, đã có lúc vượt ngưỡng 40%. Đẩy các ngân hàng vào cuộc chạy
đua lãi suất làm cho lãi suất huy động đầu năm 2007 chỉ ở mức 8,75% /năm
thì đến cuối 2007 đã tăng lên đến 12 %/năm và đến giữa 2008 đã có ngân

hàng thu hút tiền gửi với mức lãi suất lên đến 18,9%/ năm. Ngay đến Ngân
hàng nhà nước cũng đã có lúc phải nhiều lần thay đổi lãi suất cơ bản từ
8,75% lên12% và 14 %/ năm. Lúc này lãi suất cho vay cao nhất tại các ngân
hàng thương mại đã tăng tương ứng là 18% và 21%/năm (150 % lãi suất cơ
bản). Trong bối cảnh huy động với lãi suất trên 18%/ năm hầu hết các NH đều
phải áp dụng mức lãi suất cho vay cao nhất. Hậu quả là hoạt động của hầu hết
các ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Huy động với lãi suất
cao đồng nghĩa với việc cho vay lãi suất cao làm cho hoạt động cho vay của
các ngân hàng bị đình trệ. Hầu hết các ngân hàng ngừng hoặc hạn chế các sản
phẩm mới quay lại tập trung vào sản phẩm cho vay truyền thống với điều kiện
cho vay khét khe hơn nhằm năng cao chất lượng khoản vay. Điều này làm cho
giá trị giải ngân tại các ngân hàng giảm đi đáng kể. Kết quả kinh doanh của
các ngân hàng giảm sút đáng kể, hầu hết các ngân hàng phải điều chỉnh kế
hoạch doanh thu giảm 30 – 40 %, thậm chí có những ngân hàng bị thua lỗ.
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
5
Học Viện Ngân hàng
Đến nay khi mà sự khan hiếm tiền đồng qua đi lãi suất cơ bản giảm còn
7%/năm, bắt buộc lãi suất cho vay giảm dưới 10,5%/năm các ngân hàng
thương mại lại có 1 mối lo khi mà trong ngân hàng còn 1 lượng lớn tiền huy
động với lãi suất cao, bài toán lợi nhuận vẫn là 1 bài toán đau đầu đối với cấp
quản lý tại các ngân hàng thương mại
Bên cạnh đó, sự thiếu hụt thanh khoản tại các ngân hàng thương mại
đâu chỉ tác động đến bản thân các ngân hàng mà nó còn tác động nghiêm
trọng đến tình hình sản xuất của các doanh nghiệp, đời sống của dân cư và sự
phát triển của nền kinh tế. Lãi suất ngân hàng tăng cao làm tăng chi phí tài
chính của doanh nghiệp. Thêm nữa khi các ngân hàng thắt chặt chính sách
cho vay,lãi suất cho vay cao, điều kiện cho vay khắt khe, không phải doanh
nghiệp nào cũng đủ điều kiện để vay vốn. Sự thiếu hụt vốn sản xuất kinh
doanh là 1 điều tất yếu. Không có vốn doanh nghiệp sản xuất trì trệ, chậm trễ

trong việc thực hiện hợp đồng, mất uy tín. Nhiều doanh nghiệp đã phải đình
trệ sản xuất vì không có vốn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển
của nền kinh tế. Khi lãi suất cho vay quá cao, doanh nghiệp buộc phải cân
đối, đảm bảo lợi nhuận bằng cách tăng giá bán thành phẩm để bù đắp chi phí
lãi vay. Điều này đã tạo một phản ứng dây chuyền làm cho giá cả hàng hóa
tăng cao ảnh hưởng tới đời sống dân cư, đặc biệt là bộ phận dân cư có thu
nhập thấp. Nạn thất nghiệp gia tăng kèm theo là tệ nạn xã hội. Nhưng điều
này thực sự làm cho Chính phủ lo ngại.
Với những hậu quả của việc thiếu hụt thanh khoản trong thời gian qua,
thanh khoản đáng là một vấn đề để các cấp quản lý ngân hàng quan tâm
nghiên cứu. Không chỉ vậy, khi rủi ro thanh khoản xảy ra trầm trọng hơn có
thể dẫn đến sự sụp đổ của cả ngân hàng thương mại, thực tế đã xảy ra ở Mĩ
trong thời gian qua, hay thậm chí là sự suy thoái của nền kinh tế. Vì vậy vấn
đề thanh khoản hiện này đang là một vấn đề đòi hỏi nhận được sự quan tâm
đúng mức của không chỉ cấp lãnh đạo các ngân hàng thương mại mà còn của
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
6
Học Viện Ngân hàng
cả Ngân hàng Nhà nước, để có biện pháp ứng phó kịp thời khi có sự cố xảy ra
nhằm tránh những hậu quả nghiêm trọng.
2. Vấn đề thanh khoản
Xét về góc độ tài sản, thanh khoản hay đầy đủ là tính thanh khoản của tài
sản được hiểu là khả năng chuyển đổi ra tiền của tài sản, đo lường bằng chi
phí chuyển đổi và thời gian chuyển đổi.
Tại các ngân hàng thương mại, nhắc đến thanh khoản tức là nhắc tới khả
năng thanh khoản của ngân hàng, được hiểu là khả năng tìm kiếm và sử dụng
các nguồn tiền nhằm đảm bảo đáp ứng khả năng thanh toán, chi trả của ngân
hàng bao gồm đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng, nhu cầu giải ngân và
những nhu cầu thanh toán khác.
Ở đây chúng ta chỉ xem xét và nghiên cứu thanh khoản tại các ngân hàng

thương mại. Quản lý thanh khoản tức là thực hiện các công tác nhằm đảm bảo
đáp ứng vừa đủ nhu cầu thanh khoản tại ngân hàng với chi phí nhỏ nhất. Để
có được điều này các nhà quản lý luôn phải ngiên cứu mô hình cung - cầu
thanh khoản.
Cầu thanh khoản được hiểu là toàn bộ những nhu cầu chi trả tại ngân
hàng xác định trong 1 khoảng thời gian nhất định ( 1 ngày, 1 tuần hoặc 1
tháng…).Cầu thanh khoản bao gồm:
- Khách hàng rút các khoản tiền gửi
- Giải ngân theo hợp đồng đã cam kết
- Thanh toán các khoản vay và phải trả
- Chi phí trả lãi và cung cấp các dịch vụ của ngân hàng
- Mua lại cổ phiếu
- Chi trả cổ tức cho cổ đông
Cung thanh khoản được hiểu là những nguồn để ngân hàng đáp ứng nhu
cầu chi trả của mình. Cung thanh khoản bao gồm :
- Khoản tiền gửi nhận được
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
7
Học Viện Ngân hàng
- Các khoản tín dụng thu về
- Thu nhập từ lãi và việc cung cấp các dịch vụ
- Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng
- Vay mượn trên thị trường tiền tệ
- Phát hàng cổ phiếu ra thị trường
Cầu thanh khoản của 1 ngân hàng thường là từ 2 nguồn chính : Khách
hàng rút tiền khỏi tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và các khoản tín dụng giải
ngân theo hợp đồng. Trong đó các khoản tín dụng thường là được xác định
trước và ít có sự biến động nhưng các khoản tiền rút khỏi tài khoản tiền gửi tại
ngân hàng, ngoài các khoản đến hạn mà ngân hàng có thể dự tính được còn có
1 khoản đáng kể các khoản chưa đến hạn được khách hàng quyết định rút khỏi

ngân hàng trong thời gian này. Đây chính là vấn đề cần được quan tâm nhiều
nhất trong hoạt động điều hành cầu thanh khoản. Về vấn đề này để xác định
được nhu cầu rút bất ngờ của khách hàng các nhà quản trị ngân hàng cần
nghiên cứu tâm lí của khách hàng. Để tác động đến tâm lí rút trước hạn của
khách hàng có rất nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan. Một số yếu tố
khách quan như lạm phát, khủng hoảng kinh tế, nền kinh tế phát triển không ổn
định, chiến tranh, thiên tai … ngân hàng cần có sự quan tâm đúng mức đến
những vấn đề chính trị, thời sự, kinh tế này vì đó có thể là 1 yếu tố dẫn đến
những yếu tố chủ quan của ngân hàng, như sự chủ quan của nhà lãng đạo ngân
hàng trước tình hình đang diễn ra, ngân hàng mất khả năng thanh khoản làm
cho khách hàng mất lòng tin rút tiền ồ ạt, ngân hàng hoạt động không tốt…
Về cung thanh khoản, nguồn cung thanh khoản chính của ngân hàng
chính là khoản tiền gửi mới của khách hàng vào tài khoản tiền gửi, vì vậy để
đảm bảo khả năng cung thanh khoản của mình các ngân hàng cần phải linh
hoạt và chủ động trong việc ban hành chính sách huy động. Dòng tiền của
khách hàng sẽ có xu hướng tăng vào đầu tháng và giữa tháng khi mà nguồn
trả lương chảy về ngân hàng, đây cũng là 1 vấn đề mà các ngân hàng cần xem
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
8
Học Viện Ngân hàng
xét trong điều kiện trả lương qua thẻ ATM hiện nay tại nước ta. Đây là 1 vấn
đề còn khá mới mẻ tại Việt Nam vì vây cần nhận được sự quan tâm nhiều hơn
của các ngân hàng khi mà Nhà nước đã tạo điều kiện cho ngân hàng có được
1 khoản vốn với giá rẻ.
3. Rủi ro thanh khoản
Trạng thái thanh khoản của ngân hàng sẽ được xác định bằng công thức:
Thanh khoản ròng ( NLP ) = Cung thanh khoản – Cầu thanh khoản
Ngân hàng sẽ thặng dư thanh khoản khi :
NLP > 0 , Cung thanh khoản > Cầu thanh khoản => Ngân hàng dư
thừa nguồn vốn khả dụng gây lãng phí nguồn vốn nhàn rỗi.

Ngân hàng sẽ thiếu hụt thanh khoản khi :
NLP < 0 , Cung thanh khoản < Cầu thanh khoản => Ngân hàng thiếu
hụt nguồn vốn khả dụng, không đảm bảo được khả năng chi trả.
Rủi ro thanh khoản tại ngân hàng sẽ xảy ra khi có sự mất cân bằng giữa
cung và cầu thanh khoản, dù là thâm hụt hay dư thừa thanh khoản.
Khi cầu về thanh khoản của ngân hàng vượt quá cung thanh khoản,
ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu hụt thanh khoản. Lúc này ngân hàng phải
xem xét sẽ huy động khoản thiếu hụt đó ở đâu, khi nào sao cho chi phí và chi
phí cơ hội huy động là thấp nhất. Ngược lại, khi cung thanh khoản vượt quá
cầu thanh khoản ngân hàng dư thừa thanh khoản thì ngân hàng lại phải quyết
định việc sẽ dùng khoản dư thừa đầu tư vào đâu để có được lợi nhuận cao
nhất cho đến lúc cần sử dụng nguồn vốn đó. Việc cân bằng được cung và câu
thanh khoản quả thật là 1 vấn đề khó, vì thanh khoản là 1 vấn đề thời điểm, sự
thay đổi quá nhanh nhu cầu thanh khoản của ngân hàng làm cho ngân hàng
cần có 1 nhà lãnh đạo linh hoạt, ra quyết định mau chóng. Trong khi đó khả
năng thanh khoản và khả năng sinh lời của tài sản luôn có sự đánh đổi. Để
đảm bảo thanh khoản an toàn ngân hàng cần tập trung nhiều vốn để sẵn sàng
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
9
Học Viện Ngân hàng
đáp ứng nhu cầu thanh khoản nhưng chính điều này lại làm cho khả năng sinh
lời của tài sản giảm. Một nhà lãnh đạo tài ba là nhà lãnh đạo có được sự điều
hành đúng lúc, giúp cho ngân hàng có được khả năng thanh khoản tốt nhất với
chi phí và chi phí cơ hội thấp nhất.
Trong thực tế ngân hàng luôn phải đối mặt với tình trạng thâm hụt hoặc
thặng dư thanh khoản, vì vậy ngân hàng luôn phải tốn chi phí để duy trì trạng
thái thanh khoản an toàn. Chúng ta sẽ xem xét những nguyên nhân làm cho
ngân hàng luôn phải đối mặt với vấn đề thanh khoản.
Nguyên nhân đầu tiên, xét về vấn đề huy động, nguồn vốn nhàn rỗi
trên thị trường thường là nguồn vốn ngắn hạn, do tính chất vận động của

nguồn vốn nhàn rỗi, chỉ là khoản tạm nghỉ giừa 2 cơ hội đầu tư, hay do tâm lý
của người gửi họ muốn có sự linh hoạt của nguồn vốn, vì vậy nguồn vốn đầu
vào của các ngân hàng thường là nguốn vốn ngắn hạn. Xét về đầu ra của
nguồn vốn tại ngân hàng, nguồn ra của nguồn vốn tại ngân hàng chủ yếu là
giải ngân các khoản vay phục vụ sản xuất, đời sống, vì vậy có thể thấy đầu ra
nguồn vốn của ngân hàng là dài hạn. Huy động ngắn hạn, cho vay dài hạn đã
làm cho ngân hàng rơi vào tình trạng mất cân bằng kì hạn giừa nguồn vốn và
tài sản. Vì vậy khi đến hạn rút của khoản tiền gửi thì khoản cho vay từ nguồn
vốn đó chưa vào ngân hàng, về lâu dài ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng thiếu
hụt thanh khoản, đây là nguyên nhân khó khắc phục khi xảy ra nhất.
Một nguyên nhân khác của sự mất chênh lệch giữa cung và cầu thanh
khoản đó là sự nhạy cảm của ngân hàng trước sự biến động của lãi suất. Khi
lãi suất giảm, người gửi sẽ co xu hướng rút tiền khỏi ngân hàng tìm đến kênh
đầu tư có thu nhập cao hơn. Trong khi đó, tận dụng lãi suất thấp các doanh
nghiệp sẽ tăng cường vay vốn từ ngân hàng. Khoản cung thanh khoản giảm,
cầu thanh khoản tăng ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng thiếu hụt thanh khoản.
Khi lãi suất tăng, khách hàng sẽ gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn nhưng điều
này cũng đồng nghĩa với việc chi phí hoạt động của ngân hàng tăng. Trong
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
10
Học Viện Ngân hàng
khi đó, lãi suất cao, các doanh nghiệp sẽ hạn chế vay mới, tăng cường rút vốn
từ những hạn mức lãi suất trước đó. Lúc này ngân hàng sẽ phải đối mặt với
tình trạng dư thừa thanh khoản , thậm chí là tình trạng mất cân bằng lãi suất
dẫn đến thua lỗ.
Tuy nhiên dù xảy ra vấn đề gì, ngân hàng cũng phải ưu tiên đặc biệt cho
việc đảm bảo khả năng thanh khoản. Vì khi tình trạng mất khả năng thanh
khoản xảy ra, ngân hãng sẽ mất lòng tin của công chúng, dẫn đến tình trạng
rút tiên ồ ạt thì việc phá sản của ngân hàng chỉ là vấn đề thời gian.
Qua nhiều năm, các nhà quản lý thanh khoản đã phát triển được một số

chiến lược nhằm giải quyết vấn đề thanh khoản tại ngân hàng :
- Cung cấp thanh khoản từ tài sản (Quản lý thanh khoản tài sản )
- Dựa vào nguồn đi vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ( Quản lý thanh
khoản nợ)
- Quản lý thanh khoản điều hòa ( Điều hành kết hợp cả tài sản và nguồn vốn)
Chiến lược quản lý thanh khoản tài sản
Chiến lược quản lý thanh khoản từ tài sản là chiến lược cổ điển nhất mà
các ngân hàng áp dụng nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản. Theo chiến lược
này, để đảm bảo có được khả năng thanh khoản ngay khi cần thiết các ngân
hàng sẽ nắm giữ một lượng tài sản có khả năng thanh khoản lớn.
Tài sản có khả năng thanh khoản là các tài sản có 3 đặc điểm sau :
- Phải có thị trường sẵn sàng để có thể nhanh chóng chuyển đổi tài
sản thành tiền.
- Giá cả của tài sản không biến động, dù tài sản lớn cỡ nào hay cần
chuyển đổi nhanh chóng cỡ nào thì thị trường cũng có đủ khả năng để
đáp ứng với giá thay đổi không đáng kể.
- Thị trường tài sản phải có khả năng đảo chiều để người bán có
thể mua lại được tài sản với tổn thất không đáng kể.
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
11
Học Viện Ngân hàng
Từ những đặc điểm đó, hiện nay các tài sản cho phép nhà quản lý
ngân hàng có thể nắm giữ để đảm bảo khả năng thanh khoản ngay khi
cần là :
- Tín phiếu kho bạc : Là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành vì
vậy rủi ro là rất thấp, tuy nhiên đây cũng là loại tài sản tạo thu nhập
thấp nhất. Tài sản này cho phép ngân hàng cầm cố, tái chiết khâu tại
Ngân hàng Nhà nước một cách nhanh chóng khi cần. Tuy nhiên do thu
nhập từ tài sản này không cao vì vậy xét tổng thể thì chi phí để có được
khả năng thanh khoản tức thì từ tài sản này là khá cao.

- Cho vay trên thị trường liên ngân hàng : khi ngân hàng có dư
thừa thanh khoản tạm thời, ngân hàng sẽ tiến hành cho vay trên thị
trường liên ngân hàng. Đây chủ yếu là những khoản cho vay qua đêm
giúp ngân hàng giải quyết được khoản vốn tạm thời nhàn rỗi tránh sự
lãng phí nguồn vốn nói chung , mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và
là khoản đầu tư có thể thu hồi nhanh, đáp ứng nhu cầu của ngân hàng
khi cần.
- Mua chứng khoán theo hợp đồng bán lại : là việc ngân hàng mua
những chứng khoán có chất lượng cao có thể dùng thế chấp dễ dàng tại
các ngân hàng thương mại khác để vay vốn ngay khi cần thiết.
- Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác : Khi có nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi, thay vì gửi tại Ngân hàng Nhà nước rồi cho vay trên thị trường
liên ngân hàng thì các ngân hàng mở tài khoản tại nhau vừa để nhận trả
lãi tiền gửi lại vừa có thể cho vay dễ dàng chỉ cần một cuộc điện thoại.
- Trái phiếu chính phủ địa phương : là chứng khoán nợ do chính
quyền địa phương phát hành.
- Thương phiếu chấp nhận thanh toán : là quyền đòi nợ đối với
ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng
….
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
12
Học Viện Ngân hàng
Chiến lược quản lý thanh khoản thường được các ngân hàng nhỏ áp dụng
do có độ an toàn cao, ít rủi ro hơn việc quản lý rủi ro dựa vào vay nợ. Nhưng
đổi lại, đây lại là 1 chiến lược có chi phí cao. Ngay từ khi nắm giữ tài sản là
ngân hàng đã bỏ qua những khoản đầu tư có thu nhập cao hơn để có được sự
đảm bảo an toàn thanh khoản. Khi thiếu hụt thanh khoản xảy ra, ngân hàng
bán tài sản đồng nghĩa với việc mất đi những khoản thu nhập tạo ra từ tài sản
trong tương lai. Vì vậy khi lựa chọn chiến lược quản lý thanh khoản tài sản
ngân hàng đã phải chịu một khoản chi phí cơ hội khá lớn. Đó là chưa kể khi

mua và bán tài sản ngân hàng phải mất một khoản chi phí giao dịch. Hơn nữa,
những tài sản này cũng có thể được bán trên thị trường đang xuống với mức
giá thấp, lúc này ngân hàng sẽ phải chịu một tổn thất về vốn lớn. Mặt khác,
khi ngân hàng bán những tài sản này sẽ làm thay đổi cơ cấu tài sản trên bảng
cân đối, tạo ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh của ngân hàng. Bởi những tài
sản được bán đi thường là những chứng khoán ít rủi ro của chính phủ, cái
thường tạo cho công chúng sự tin tưởng là ngân hàng lành mạnh về mặt tài
chính, hay chính việc ngân hàng bán tài sản cũng đã cho thấy sự khó khăn
trong thanh khoản của ngân hàng. Theo xu thế hiện nay thì cách quản lý thanh
khoản này không còn được ưa dùng.
Chiến lược quản lý thanh khoản nợ
Chiến lược quản lý thanh khoản nợ là một chiến lược quản lý thanh khoản
mới xuất hiện, khoảng từ những năm 60, 70 của thế kỉ trước nó mới được các
ngân hàng lớn sử dụng. Đây là 1 chiến lược ra đời dựa trên nền tảng là chiến
lược quản lý thang khoản tài sản. Khi mà 1 số ngân hàng sử dụng tài sản để tích
trữ thang khoản là : dự trữ ở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước hoặc gửi tại các
tổ chức tín dụng khác để sẵn sàng cho vay theo chiến lược quản lý thanh khoản
tài sản thì một số ngân hàng lại là người đi vay, đó là nội dung chính của chiến
lược quản lý thanh khoản nợ. Đây là phương pháp mà các ngân hàng tăng cường
vốn khả dụng thiếu hụt bằng cách đi vay trên thị trường tiền tệ. Việc vay vốn tức
thời để bù đắp thiếu hụt thanh khoản có rất nhiều lợi ích. Trước nhất với chiến
lược này ngân hàng có thể chỉ chọn lựa đi vay trong thời gian cần thiết, thay vì
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
13
Học Viện Ngân hàng
lúc nào cũng phải nắm giữ một lượng tài sản có tính thanh khoản cao làm giảm
thu nhập của ngân hàng. Việc huy động cũng rất đơn giản, ngân hàng chỉ điều
chỉnh mức giá ( mức lãi suất ) cho đến lúc có được nguồn vốn cần thiết. Việc
vay vốn này là để đáp ứng nhu cầu tạm thời vì vậy mà chủ yếu là những khoản
vay qua đêm nên có mức chi phí khá thấp, đây là phương pháp quản trị thanh

khoản có chi phí và chi phí cơ hội thấp nhất, dễ dáng có được nguồn vốn và đơn
giản trong cách quản lý. Trong khi đó việc vay vốn cũng không hề làm thay đổi
cơ cấu tài sản của ngân hàng, không ảnh hưởng đến ảnh hưởng của ngân hàng,
ngân hàng vẫn giữ được cơ cấu tài sản như ý muốn.
Những nguồn vay thanh khoản của ngân hàng thường là :
- Vay trên thị trường liên ngân hàng : vay các tổ chức tài chính khác hiện
tại có dư thừa thanh khoản.
- Vay cầm cố hay chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá tại Ngân
hàng Nhà nước.
- Bán các chứng khoán chất lượng cao cho các tổ chức tín dụng khác
theo hợp đồng mua lại, sử dụng để huy động dài, vài tuần hoặc vài tháng.
- Phát hành các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyện nhượng dễ dàng, sử
dụng trong huy động nguồn vốn cho tuần hoặc tháng.
……
Tuy nhiên việc vay thanh khoản của các ngân hàng cũng dễ gặp một số
khó khăn. Như việc lãi suất và quy mô tín dụng sẵn có trên thị trường có thể
thay đổi rất nhanh, rồi có thể ngân hàng phải huy động vốn trên thị trường
khó khăn, khan hiếm nguồn vốn từ đó mà ngân hàng phải chịu 1 khoản chi
phí huy động cao và khó xác định trước được. Hơn nữa, ngân hàng cần vay
vốn nhất lại là ngân hàng có khó khăn trong vấn đề tài chính, khi các tổ chức
tài chình khác nhìn thấy điều này thì họ lại không muốn cho vay thậm chí là
rút vốn về. Vừ gặp khó khăn khi khách hàng mất lòng tin, vừa gặp khó khăn
do sự e dè rủi ro của các tổ chức tài chình khác, ngân hàng càng rơi vào khó
khăn, thậm chí là phá sản khi mà ngân hàng không có dự phòng thanh khoản
của chính bản thân mình.
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
14
Học Viện Ngân hàng
Chiến lược quản lý thanh khoản phối hợp
Để khắc phục những rủi ro cố hữu của việc dựa quá nhiều vào vay

thanh khoản và để hạn chế chi phí đáng kể của việc dự trữ thanh khoản, hầu
hết các ngân hàng lựa chọn chiến lược quản lý phối hợp, vừa đi vay vừa dự
trữ tài sản. Theo chiến lược quản lý phối hợp, một phần thnah khoản dự tính
sẽ được dự trữ trong tài sản, chủ yếu là chứng khoán và tài sản gửi tại ngận
hàng khác, phần còn lại sẽ được các ngân hàng dự phòng bằng các hợp đồng
tín dụng với các tổ chức tín dụng và những người cho vay khác. Đối với
nhưng nhu cầu tiền mặt bất thường sẽ được đáp ứng chủ yếu bởi đi vay. Các
ngân hàng sẽ lập kế hoạch cụ thể cho các nhu cầu dài hạn, ngắn hạn, tức thì,
dự phòng hướng xử lý khi tình huốn xảy ra.
Để đảm bảo an toàn trong hoạt động thanh khoản các nhà quản lý cần
ghi nhớ bốn nguyên tắc dẫn dắt đường lối quản lý sau :
- Thứ nhất, nhà quản lý thanh khoản phải theo xát hoạt động của các
phòng ban liên quan đến việc huy động và sử dụng vốn nhằm có hướng điều
chỉnh nguồn thanh khoản cho hợp lý.
- Thứ hai, nhà quản lý phải nắm rõ nhu cầu của những khách hàng có
khoản vay và khoản gửi lớn nhằm có kế hoạch đối phó khi những nhu cầu này
phát sinh.
- Thứ ba, nhà quản lý thanh khoản cần có sự phối hợp với các nhà quản
lý cấp cao nhằm đảm bảo hướng lãnh đạo là thống nhất, mục tiêu và mức độ
ưu tiên là rõ ràng.
- Thứ tư, dù thiếu hụt hay dư thừa thanh khoản thì ngân hàng cũng phải
chịu những tổn thất về mặt kinh tế, vì vậy công tác quản lý thanh khoản cần phải
nghiên cứu không ngừng và phải có những quyết định mau lẹ, đúng đắn nhằm
đảm bảo khả năng hoạt động của ngân hàng và không gây lãng phí nguồn vốn.
Trên đây là những lý luận cơ bản nhất giúp các nhà quản lý ngân hàng có
một định hướng nhất định trong việc nghiên cứu và điều hành thanh khoản.
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
15
Học Viện Ngân hàng
THỰC TIỀN

1.Giới thiệu về Sacombank
Sacombank chính thức được thành lập và đi vào hoạt động vào ngày
21/12/1991, xuất phát điểm là một ngân hàng nhỏ, ra đời trong giai đoạn khó
khăn của đất nước với số vốn điều lệ ban đầu 03 tỷ đồng và hoạt động chủ
yếu tại vùng ven TP.HCM.
Sau hơn 17 năm hoạt động, đến nay Sacombank đã trở thành Ngân
hàng TMCP hàng đầu Việt Nam với:
» 5.116 tỷ đồng vốn điều lệ, 6.927 tỷ đồng vốn tự có;
» Gần 250 chi nhánh và phòng giao dịch tại 44/63 tỉnh thành trong cả nước,
01 VPĐD tại Trung Quốc và 01 Chi nhánh tại Lào;
» 10.644 đại lý thuộc 278 ngân hàng tại 80 quốc gia và vùng lãnh thổ
trên thế giới;
» 6.000 cán bộ nhân viên trẻ, năng động và sáng tạo;
» 60.000 cổ đông đại chúng;
Trong 17 năm hoạt động, Sacombank đã nhận được rất nhiều các bằng
khen và giải thưởng có uy tín, điển hình như:
» "Ngân hàng bán lẻ của năm tại Việt Nam 2008” do Asian Banking &
Finance bình chọn;
» “Ngân hàng nội địa tốt nhất Việt Nam 2008” do The Asset bình chọn;
» “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2008” do Global Finance bình chọn;
» “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2008” do Finance Asia bình chọn;
» “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2007” do Euromoney bình chọn;
» “Ngân hàng bán lẻ của năm tại Việt Nam 2007” do Asian Banking and
Finance bình chọn;
» ”Ngân hàng tốt nhất Việt Nam về cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ 2007”
do Cộng đồng các Doanh nghiệp vừa và nhỏ Châu Âu (SMEDF) bình chọn;
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
16
Học Viện Ngân hàng
» “Ngân hàng có hoạt động ngoại hối tốt nhất Việt Nam năm 2007” do

Global Finance bình chọn;
» Được đánh giá và xếp loại A (loại cao nhất) trong bảng xếp loại của
Ngân hàng Nhà nước cho năm 2006 và xếp thứ 04 trong ngành tài chính ngân
hàng tại Việt Nam do chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc UNDP đánh
giá cho năm 2007;
» Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ về những thành tích dẫn đầu
phong trào thi đua ngành ngân hàng trong năm 2007;
» Bằng khen của Thủ tướng chính phủ dành cho các hoạt động từ thiện
trong suốt các năm qua;
» Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2008 vì có những đóng góp
tích cực vào các hoạt động kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế.
Là một ngân hàng được đánh giá cao trong hệ thống các ngân hàng
thương mại cổ phần tại Việt Nam thời gian qua Ban lãnh đạo cũng như toàn
thể nhân viên của Sacombank đã cố gắng không ngừng vì mục tiêu phát triển
của ngân hàng cũng như của đất nước. Năm vừa qua lợi nhuận sau thuế của
ngân hàng đạt hơn 1000 tỷ đồng, đây là kết quả của cả 1 hệ thống trước vòng
xoáy thiếu hụt thanh khoản chung hệ thống ngân hàng và tình trạng suy thoái
của nền kinh tế. Có được thành tích này trước hết là phải kể đến những chính
sách tài chính linh hoạt, cụ thể của Sacombank. Trong quá trình phát triển của
mình Sacombank luôn chú trọng trong việc đảm bảo an toàn, một bài toán
luôn tồn tại đó là cân nhắc lựa chọn giữa lợi nhuận và rủi ro. Thời gian qua,
trước tình hình biến động hết sức bất ổn của nền kinh tế, và sự thiếu hụt thanh
khoản của hệ thống ngân hàng, Sacombank đã buộc phải hy sinh mục tiêu lợi
nhuận, hướng tới mục tiêu hàng đầu là an toàn, tất cả vì mục tiêu phát triển ổn
định và lâu dài. Tuy nhiên, Sacombank cũng luôn cố gắng hết sức nhằm đạt
được kế hoạch lợi nhuận đã đặt ra. Trong năm qua Sacombank đặc biệt đưa ra
rất nhiều chiến lược kinh doanh mới mẻ phù hợp với tình hình thị trường,
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
17
Học Viện Ngân hàng

điều nay giúp chi Sacombank có được sự phát triển ổn định, trong tình trạng
nhiều ngân hàng lâm vào tình trạng thua lỗ thì đến cuối năm Sacombank vẫn
hoàn thành được kế hoạch lợi nhuận mà mình đã đặt ra. Đây là 1 thành tích
nổi bật của Sacombank trong năm vừa qua.
Cơ cấu tổ chức của Sacombank
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
18
Học Viện Ngân hàng
Với Ban kiểm soát trực thuộc Hội đồng Quản trị, công việc kiểm tra,
kiểm soát của Sacombank thực sự đã phát huy hiệu quả, góp phần quản lý
chặt chẽ công việc hàng ngày của toàn hệ thống.
Ngoài ra giúp việc cho Tổng giám đốc được phân công cụ thể và rõ ràng
cho nhiều phòng ban tạo sự chuyên môn hóa cao giúp ngân hàng ứng phó kịp
thời trước mọi tình huống. Không chỉ thế Sacombank còn phân chia địa bàn
hoạt động thành các khu vực : Khu vực Hà Nội, khu vực miền Bắc, khu vực
miền Trung, khu vực Đông Nam Bộ và Tây nguyên, khu vực TP Hồ Chí
Minh, khu vực Tây Nam Bộ, ngoài ra Sacom bank còn có chi nhánh đặt tại
Lào, và chi nhánh riêng phục vự người Hoa. Vì vậy mạng lưới khách hàng
của Sacombank là rất rộng lớn, được nghiên cứu đặc điểm cụ thể vì vậy mà có
sự phục vụ tận tình đáp ứng cao nhất nhu cầu của từng nhóm khách hàng. Có
thể thấy Ban lãnh đạo Sacombank rất quan tâm đến khách hàng của mình.
Sacombank luôn đặt lợi ích của khách hàng lê trên lợi ích của bản thân ngân
hàng vì Sacombank xác định, không thể phát triển khi không có khách hàng.
Đến với Sacombank khách hàng sẽ được hưởng một không khí vui vẻ, hòa
nhã, thân thiện và thấu hiểu nhu cầu của khách hàng. Chính những điều này
giúp chi Sacombank có được khối lượng lớn những khách hàng truyền thống,
tọa sự phát triển bền vững, lâu dìa cho ngân hàng.
Sacombank - Chi nhánh Đông Đô tại 363 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội là 1
chi nhánh mới được thành lập vào tháng 2/2008 , đúng vào thời điểm khó
khăn nhất của nền kinh tế nhưng với sự đoàn kết của tập thể nhân viên và sự

lãnh đạo sáng suốt của Ban lãnh đạo, một năm qua chi nhánh đã đạt được khá
nhiều thành tích : Danh hiệu “Chi nhánh trẻ năng động” do Sacombank bình
trọn dành cho những chi nhánh mới mở cửa có thành tích hoạt động tốt, ngoài
ra chi nhánh còn có 2 nhân viên đạt danh hiệu “Chiến sĩ thi đua”. Có thể thấy
bước đầu phát triển khá thành công của Chi nhánh. Mới thành lập được một
năm nhưng Chi nhánh cũng đã nhanh chóng mở rộng phạm vi hoạt động bằng
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
19
Học Viện Ngân hàng
việc mở thêm hai phòng giao dịch : Phòng giao dịch Quan Hoa tại 65 Trần
Đăng Ninh và phòng giao dịch Tây Hồ tại 258 Lạc Long Quân, đến nay hai
phòng giao dịch này đã đi vào hoạt động ổn định và đã có được những khách
hàng quen thuộc của riêng mình.
Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh: như mọi chi nhánh cấp 3 khác của
Sacombank Chi nhánh gồm có 3 phòng :
Phòng hỗ trợ khách hàng : phòng hỗ trợ khách hàng của Sacombank là
phòng thực hiện mọi giao dịch của ngân hàng vì vậy mà nó bao gồm :
- Giao dịch viên tiền gửi : là giao dịch viên trực tiếp tiếp xúc với khách
hàng khi khách hàng đến thực hiện các giao dịch tại ngân hàng như : gửi, rút
tiền, thực hiện giao dịch chuyển tiền, UNC…
- Giao dịch viên tín dụng : là giao dịch viên tiến hành việc ghi sổ những
hợp đồng tín dụng , là người trực tiếp giải ngân khi phát sinh nghiệp vụ, thực
hiện các giao dịch đảm bảo…
- Giao dịch viên thanh toán quốc tế : là giao dịch viên thực hiện mọi
nghiệp vụ liên quan đến thanh toán quốc tế như phát hành L/C, theo dõi L/C,
đóng L/C…
Phòng kế toán và quỹ: là phòng thực hiện công tác thu chi tiền mặt và
hạch toán ghi sổ tại ngân hàng. Bao gồm:
- Giao dịch viên quỹ : là người trực tiếp tiếp nhận tiền mặt từ khách
hàng, ngoài công việc kiểm đếm, giao dịch viên quỹ còn có trách nhiệm phát

hiện và tịch thu tiền giả…
- Kế toán tổng hợp, kế toán chi tiết : có trách nhiệm kiểm soát tính đầy
đủ và chính xác của các chừng từ phát sinh tại Chi nhánh, hạch toán chi phí,
thu nhập, lãi kinh doang ngoại tệ…
Phòng dịch vụ khách hàng : là phòng có trách nhiệm tìn kiếm khách
hàng cho ngân hàng. Bao gồm :
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
20
Học Viện Ngân hàng
- Cán bộ quan hệ khách hàng : là người trực tiếp tìm kiếm khách hàng
cho ngân hàng, không chỉ là khách hàng cho hoạt động tín dụng mà còn khách
hàng tiền gửi, khách hàng thanh toán quốc tế…
- Cán bộ thẩm định : có trách nhiệm bằng khả năng chuyên môn của
mình tiến hành thẩm định xem xét chất lượng khách hàng, từ đó mà có kiến
nghị đúng đắn lên ban giám đốc.
Chịu trách nhiệm điều hành cao nhất trong Chi nhánh vẫn là Giám đốc chi
nhánh, là người tiếp nhận và triển khai những chỉ đạo từ cấp lãnh đạo cao hơn.
2Chính sách điều hành thanh khoản tại Sacombank
Hiện nay, Sacombank là 1 trong những NH top đầu trong hệ thống NH
TMCP tại Việt Nam, với tiềm lực kinh tế vững mạnh. Tuy vậy thời gian qua
Sacombank cũng không nằm ngoài vòng xoáy thiếu hụt thanh khoản của toàn
hệ thống NH.
Văn bản pháp quy đầu tiên của Sacombank đề cập đến vấn đề thanh
khoản là văn bản ban hành Quy chế đảm bảo hoạt động liên tục trong điều
kiện khủng hoảng ban hành ngày 28 tháng 5 năm 2004. Điều này cho thấy
ban lãnh đạo NH đã có sự quan tâm đến vấn đề thanh khoản từ rất lâu. Theo
đó để điều hành và kiểm soát khả năng thanh khoản Sacombank đã thành lập
Ủy ban an toàn thanh khoản và Bộ phận xử lí khủng hoảng cơ sở.
Ủy ban an toàn thanh khoản được thành lập theo quyết định của Hội
đồng quản trị, làm việc theo chế độ thường xuyên và chịu trách nhiệm trước

Hội đồng quản trị.
Thành viên của Ủy ban an toàn thanh khoản bao gồm :
- Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Hội đồng quản trị - Trưởng ban
- Phó Tổng giám đốc phụ trách ngân quỹ - Phó ban
- Phó Tổng giám đốc phụ trách tín dụng - Thành viên
- Phó Tổng giám đốc phụ trách công nghệ thông tin -Thành viên
- Trưởng phòng kinh doanh tiền tệ - Thành viên
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
21
Học Viện Ngân hàng
- Trưởng phòng vận hành và xử lí thông tin -Thành viên
- Trưởng phòng hành chính quản trị - Thành viên
- Trưởng phòng thanh toán nội địa và quỹ - Thư kí
Ủy ban an toàn thanh khoản có trách nhiệm :
- Xây dựng các quy định, quy chế, kế hoạch, phương án ngăn ngừa, dự
phòng và xây dựng các dự án khủng hoảng trong phạm vi quyền hạn.
- Trong điều kiện bình thường, tính toán hạn mức thanh khoản cho từng
chi nhánh, kiểm tra việc thực hiện.
- Trong điều kiện khủng hoảng tham gia xử lí khủng hoảng và giải quyết
sau khủng hoảng.
Bộ phận xử lí khủng hoảng nội bộ cũng được thành lập theo quyết định
của Hội đồng quản trị, làm việc theo chế đọ thường xuyên và chịu trách
nhiệm trước Hội đồng quản trị.
Thành viên của Bộ phận xử lí khủng hoảng nội bộ bao gồm:
- Phó giám đốc phụ trách khu vực - Trưởng ban
- Giám đốc chi nhánh/ Sở giao dịch liên quan - Phó ban
- Phó giám đốc chi nhánh/ Sở giao dịch liên quan - Thành viên
- Trưởng phòng giao dịch/ Trưởng bộ phận tín dụng - Thành viên
-Trưởng phòng nghiệp vụ CN/SGD -Thành viên
- Trưởng bộ phận hành chính quản trị CN/ SGD - Thư kí

Bộ phận xử lí khủng hoảng nội bộ có trách nhiệm :
- Xây dựng các quy định và phương án ngăn ngừa, dự phòng và xử lí
khủng hoảng trong phạm vi trách nhiệm.
- Trong điều kiện bình thường, chỉ đạo duy trì tỉ lệ duy trì thanh khoản
hợp lí.
- Trong điều kiện khủng hoảng, trực tiếp xử lí khủng hoảng tại cơ sở
theo chỉ đạo của Ban chỉ đạo xử lí khủng hoảng và tham gia khắc phục hậu
quả sau khủng hoảng.
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
22
Học Viện Ngân hàng
Sacombank định nghĩa : Khủng hoảng cục bộ là sự cố khủng hoảng chỉ
xảy ra tại một hoặc một số cơ sở của NH, không ảnh hưởng đến toàn hệ thống
NH nếu được kiểm soát. Mà nguyên nhân của khủng hoảng cục bộ có thể là
do các khủng hoảng liên quan đến : thanh khoản, công nghệ thông tin, cơ sở
vật chất và con người. Tuy nhiên khi khủng hoảng liên quan đến thanh khoản
thường là dẫn đến khủng hoảng toàn bộ, là khủng hoảng nghiêm trọng liên
quan đến toàn hệ thống NH mà hậu quả của nó là khách hàng mất lòng tin, rút
tiền ồ ạt tại các chi nhánh của NH gây thiếu hụt thanh khoản trầm trọng, đê
dọa đến sự an toàn của NH. Chính vì sớm nhìn nhận được hậu quả to lớn của
rủi ro thanh khoản mà Sacombank đã đề ra những biện pháp phòng ngừa và
dự phòng kịp thời tránh được những tình huống xấu xảy ra.
Xác định được nguyên nhân gây ra thiếu hụt thanh khoản toàn bộ là do
thiếu hụt thanh khoản cục bộ không kiểm soát được dẫn đến việc khách hàng
mất lòng tin rút tiền ồ ạt, vì vậy Sacombank đã đề ra các biện pháp phòng
ngừa rủi ro thanh khoản:
- Thực hiện tốt công tác quản lí và điều hành thanh khoản trong toàn NH
không để xảy ra tình trạng thiếu hụt thanh khoản gây trở ngại cho việc thực
hiện các cam kết chi trả và cung ứng tiền.
- Công khai minh bạch tình hình tài chính của NH nhằm vô hiệu hóa các

tin đồn và xóa tan các mối nghi ngờ, hoang mang về hoạt đọng của NH.
- Xây dựng hình ảnh vững chắc của NH trong mọi tình huống, tạo sự yên
tâm và tin tưởng vào khả năng luôn đảm bảo thực hiện các cam kết của NH.
Đồng thời Sacombank cũng thực hiện các biện pháp dự phòng khủng
hoảng:
- Xác lập các dự trữ thanh khoản cấp 1, cấp 2, cấp 3.
- Xác lập sẵn các mối quan hệ hỗ trợ và huy động thanh khoản với các
NH, với NHNN, với khách hàng.
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
23
Học Viện Ngân hàng
- Xây dựng các phương án về điều động vốn và điều động nhân sự cho
các tình huống.
Đến tháng 4/ 2005 xét nhu cầu quản lí hoạt động của NH, Hội đồng
quản trị đã phê duyệt quyết định ban hành Quy định về phương pháp tính định
mức thanh khoản. Tại Sacombank, đầu mỗi năm tài chính Ủy ban an toàn
thanh khoản sẽ tính cho mỗi chi nhánh 1 hạn mức thanh khoản áp dụng trong
cả năm hoặc có thể thay đổi theo thời kì sao cho phù hợp với tình hình kinh
doanh của mỗi chi nhánh. Tại chi nhánh kế toán trưởng có trách nhiệm phân
bổ hạn mức đó cho từng ngày phù hợp với tình hình thu chi của chi nhánh sao
cho hạn mức bình quân trong tháng không lớn hơn hạn mức mà Ủy ban an
toàn thanh khoản cho phép và nằm trong khoảng giữa định mức thanh khoản
tối đa và định mức thanh khoản tối thiểu. Trong quyết định này Sacombank
quy định rõ ràng cách tính định mức tối đa, định mức tối thiểu, lãi thưởng, lãi
phạt để các chi nhánh đồng loạt áp dụng làm tăng khả năng phòng ngừa rủi ro
thanh khoản.
Định mức tối thiểu :
ĐMTT ngày = H ngày làm việc hôm trước . k %
ĐMTT ngày được tính cho từng loại tiền mà NH huy động
H ngày làm việc hôm trước là tổng số tiền ngày hôm trước huy động

được bao gồm:
- Tiền gửi có kì hạn, không kì hạn của các tổ chức tín dụng mở tại đơn vị
- Tiền gửi có kì hạn, không kì hạn của doanh nghiệp mở tại đơn vị
- Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn, không kì hạn của cá nhân gửi tại đơn vị
- Phát hành giấy tờ có giá
- Tiền kí quỹ, giữ hộ
- Nguồn vốn nhận ủy thác
- Đi vay của các tổ chức tín dụng khác, các định chế tài chính
- Các khoản phải trả
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
24
Học Viện Ngân hàng
k % là tỉ lệ thanh khoản tối thiểu, được xác định bằng 60 % tỉ lệ thanh
khoản thực tế của tháng trước thông qua phương pháp thống kê.
Định mức thanh khoản tối đa :
ĐMTĐ = ĐMTT . 165 %
Hạn mức thanh khoản tại Sacombank được thiết lập nhằm tạo điều kiện
cho các đơn vị trong hệ thống có đủ nguồn vốn đáp ứng nhu cầu rút vốn và
thanh toán của khách hàng, đồng thời hạn chế tối đa tránh lãng phí nguồn vốn
tạm thời nhàn dỗi. Vì vậy khi thanh khoản thực tế của đơn vị lớn hơn định
mức thanh khoản tối đa hoặc nhỏ hơn định mức thanh khoản tối thiểu NH sẽ
áp dụng lãi phạt tương ứng là 150 %, 300 % lãi suất huy động bình quân tính
trên số tiền thừa hoặc thiếu đó. Ngược lại để khuyến khích, khi các đơn vị giữ
mức thanh khoản bình quân thực tế trong khoảng định mức tối thiểu và định
mức tối đa NH sẽ có lãi thưởng tương ứng. Chính việc áp dụng lãi thưởng, lãi
phạt rõ ràng của Sacombank đã góp phần khuyến khích các chi nhánh thực
hiện đúng quy định đã ban hành, mọi mức thanh khoản trong ngày lớn hơn
hạn mức thanh khoản của chi nhánh đều phải làm giải trình ghi rõ nguyên
nhân. Điều này cho thấy Sacombank đã có chú trọng quản lý thanh khoản
ngay từ rất sớm, đây cũng là một lý do giúp cho Sacombank là một ngân hàng

có khả năng tài chính được tin tưởng nhất trong hệ thống ngân hàng thương
mại tại Việt Nam.
Đến tháng 10/2007, tháng 11/2007 khi mà sự thiếu hụt thanh khoản tại
các NHTM bắt đầu diễn ra, Sacombank đã nhanh chóng ban hành Quy chế
điều hành thanh khoản và Quy trình điều hành thanh khoản để kịp thời củng
cố công tác quản trị thanh khoản, đảm bảo cho sự an toàn thanh khoản và hạn
chế tối đa lãng phí thanh khoản cho ngân hàng. Trong quy chế điều hành
thanh khoản Sacombank đã xác định việc điều hành thanh khoản tại
Sacombank phải tuân thủ những nguyên tắc chung sau :
Trần Phương Thảo Lớp: NHD - K8
25

×