Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

(Tiểu luận) đề bài phân tích thực trạng áp dụng chính sách tiền tệ trong điều tiết hoạt động đầu tư tại việt nam trong giai đoạn 2018 – 2022 và bài học đúc rút

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.16 MB, 43 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ HỌC CHO NGƯỜI RA QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ
Đề bài: Phân tích thực trạng áp dụng chính sách tiền tệ trong điều tiết hoạt động đầu tư tại
Việt Nam trong giai đoạn 2018 – 2022 và bài học đúc rút.
Nhóm thực hiện: Nhóm 4
Lớp tín chỉ: DTKT1119(322)_01
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Văn Hùng

HÀ NỘI - 2023


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU. ....................................................................................................................... 3
B. NỘI DUNG. .................................................................................................................... 4
I. Cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ. ................................................................................ 4
1.1. Khái niệm. ................................................................................................................ 4
1.2. Vị trí của chính sách tiền tệ. ................................................................................... 4
1.3. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ....................................................................... 4
1.4. Các cơng cụ của chính sách tiền tệ. ....................................................................... 6
1.5. Tác động của chính sách tiền tệ đến điều tiết hoạt động đầu tư. ........................ 8
1.6. Kinh nghiệm sử dụng chính sách tiền tệ của các nước trên thế giới .................. 8
II. Thực trạng áp dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam. .................................................. 10
2.1. Tổng quan chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn 2018 - 2022............ 10
2.2. Thực trạng việc áp dụng các cơng cụ chính sách tiền tệ.................................... 13
III. Đánh giá các thực trạng đến với nền kinh tế. .......................................................... 29
3.1. Những kết quả đạt được. ...................................................................................... 29
3.2. Những hạn chế. ...................................................................................................... 33
3.3. Nguyên nhân. ......................................................................................................... 35


IV. Bài học đúc rút ra cho nhóm. .................................................................................... 37
C. KẾT LUẬN. .................................................................................................................. 39
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO. ........................................................................................... 40

2


A. MỞ ĐẦU.
Mục tiêu vận hành của các chính sách kinh tế tại mỗi quốc gia đều hướng tới đảm
bảo tăng trưởng bền vững, ổn định giá cả và việc làm. Đây là ba mục tiêu trọng yếu cấu
thành nên sự ổn định của kinh tế. Các mục tiêu này được thực hiện thơng qua cơng cụ là
các chính sách kinh tế. Trong đó việc điều hành chính sách tiền tệ là một trong những nghệ
thuật quan trọng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến
đầu tư.
Trong thực tế, chính sách tiền tệ đóng vai trị rất quan trọng trong việc điều tiết hoạt
động đầu tư tại Việt Nam. Chính sách tiền tệ góp phần quan trọng trong việc kiểm sốt lạm
phát, tạo sự ổn định cho nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế bền vững, tạo điều kiện cho hoạt
động đầu tư có hiệu quả. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang đóng vai trị chủ chốt trong
việc áp dụng chính sách tiền tệ để ổn định hoạt động kinh tế và tài chính của đất nước.
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, với nhiều cơ hội đầu tư hấp dẫn.
Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách tiền tệ để điều tiết hoạt động đầu tư tại Việt Nam vẫn
còn đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Đặc biệt là, việc thiếu đồng bộ giữa các chính
sách tiền tệ và các chính sách khác đã dẫn đến không hiệu quả trong việc điều tiết hoạt động
đầu tư. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa khơng có đủ khả năng để đối phó với sự biến động
của chính sách tiền tệ, đặc biệt là biến động tỷ giá và lãi suất. Việc áp dụng chính sách tiền
tệ vẫn còn chưa đủ hiệu quả để điều tiết được hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp và
các hộ kinh doanh nhỏ.
Trong bối cảnh đó, bài viết này sẽ phân tích thực trạng áp dụng chính sách tiền tệ
trong điều tiết hoạt động đầu tư tại Việt Nam trong giai đoạn 2018 - 2022, từ đó đưa ra
những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của chính sách tiền tệ và hỗ trợ hoạt động đầu

tư của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc đẩy mạnh tính đồng
bộ giữa các chính sách tiền tệ và các chính sách khác cũng sẽ giúp tăng cường hiệu quả của
chính sách tiền tệ và giảm thiểu tác động của biến động tỷ giá và lãi suất đến hoạt động đầu
tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Từ đó, sẽ thúc đẩy hoạt động đầu tư của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời tối ưu hóa hiệu quả của chính sách tiền tệ để đạt được tăng
trưởng kinh tế bền vững tại Việt Nam.

3


B. NỘI DUNG.
I. Cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ.
1.1. Khái niệm.
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo
và thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu: Ổn định giá
trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế.
Tùy theo tình hình hoạt động của nền kinh tế và các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã được
đặt ra trong mỗi thời kỳ phát triển của nền kinh tế xã hội mà NHTW có thể thực hiện 1
trong 2 loại chính sách:
- Chính sách tiền tệ mở rộng: Thực chất là NHTW mở rộng mức cung tiền trong nền
kinh tế, làm cho lãi suất giảm xuống qua đó làm tăng tổng cầu, nhờ vậy mà quy mơ
của nền kinh tế được mở rộng, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng
lạm phát tăng.
- Chính sách tiền tệ thắt chặt: NHTW tác động nhằm giảm bớt mức cung tiền trong
nền kinh tế, làm cho lãi suất trên thị trường tăng lên. Thơng qua đó, thu hẹp tổng
cầu làm cho mức giá chung giảm xuống.Từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp
tăng.
1.2. Vị trí của chính sách tiền tệ.
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mơ của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một
trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền

tệ. Nó mang tính định hướng cho hoạt động của hệ thống Ngân hàng nói chung và trong
lĩnh vực tiền tệ nói riêng. Nó là địn bẩy kinh tế lớn nhất trong hệ thống đòn bẩy kinh tế
được sử dụng thường xuyên và linh hoạt nhất đối với mọi thành phần kinh tế
Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mơ khác như chính
sách tài khố, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ương, việc hoạch định và thực thi chính sách chính sách tiền
tệ là hoạt động cơ bản nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ
quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.
Thơng qua chính sách tiền tệ NHTW có thể kiểm sốt được hệ thống tiền tệ để từ đó
kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế.
1.3. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
1.3.1. Mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền.
Ngân hàng Trung ương thơng qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến sự tăng hay
giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên 2 mặt:
Sức mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước) và sức mua
4


đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, chính sách tiền tệ
hướng tới ổn định giá trị đồng tiền khơng có nghĩa là tỷ lệ lạm phát bằng khơng, vì như vậy
nền kinh tế không thể phát triển được. Trong điều kiện nền kinh tế trì trệ thì kiểm sốt lạm
phát ở một tỷ lệ hợp lý (thường ở mức một con số) sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế trở lại.
1.3.2. Mục tiêu tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất
nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm
phát gia tăng.
1.3.3. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế ln là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính

sách kinh tế vĩ mơ của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn
định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng, nó thể hiện lịng tin của dân chúng đối với Chính
phủ. Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà.
1.3.4. Mục tiêu ổn định thị trường tài chính.
Tình trạng khủng hoảng tài chính có thể làm giảm khả năng của thị trường tài chính
trong việc tạo ra kênh dẫn vốn cho người có cơ hội đầu tư vào sản xuất, qua đó làm giảm
quy mơ hoạt động kinh tế. Bởi vậy, việc tạo ra hệ thống tài chính ổn định hơn, tránh được
các cuộc khủng hoảng tài chính là mục tiêu quan trọng của NHTW.
Sự ổn định thị trường tài chính được hỗ trợ bởi sự ổn định của lãi suất, bởi vì sự biến
động của lãi suất tạo ra sự bất định lớn cho các định chế tài chính. Sự gia tăng lãi suất tạo
ra các tổn thất lớn về vốn cho trái phiếu dài hạn và các khoản cho vay cầm cố, cũng như
những tổn thất này có thể làm cho các định chế tài chính nắm giữ nó sụp đổ.
1.3.5. Mục tiêu ổn định thị trường hối đoái.
Với tầm quan trọng ngày càng tăng của tỷ giá hối đoái trong thương mại quốc tế, ổn
định tỷ giá trở thành mục tiêu mong muốn của chính sách tiền tệ. Tỷ giá hối đối có ảnh
hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ trong nước so với nước ngoài. Ngoài ra,
ổn định tỷ giá giúp cho các doanh nghiệp và cá nhân trao đổi hàng hố với nước ngồi dễ
dàng lập kế hoạch hơn.
1.3.6. Mục tiêu ổn định thị trường lãi suất.
Sự biến động của lãi suất có thể tạo ra tính bất định trong nền kinh tế và khó khăn trong
lập kế hoạch cho tương lai. Biến động của lãi suất ảnh hưởng tới lượng dự trữ, mức chi tiêu
của người dân và đồng thời ảnh hưởng tới khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp.
Giữa các mục tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, không tách rời nhưng xem
xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt
tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hồ thì NHTW trong khi thực
hiện chính sách tiền tệ cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.

5



1.4. Các cơng cụ của chính sách tiền tệ.
1.4.1. Các cơng cụ trực tiếp.
1.4.1.2. Kiểm sốt hạn mức tín dụng.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng trung ương buộc các tổ chức tín
dụng phải tuân thủ khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Để hạn chế việc tạo tiền quá mức của
NHTM, NHTW quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM.
- Ưu điểm: là công cụ quan trọng khi các công cụ truyền thống kém hiệu quả.
- Nhược điểm: khống chế hạn mức tín dụng làm lãi suất thị trường tăng, làm giảm
cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại.
1.4.1.3. Quản lý lãi suất của NHTM.
NHTW có thể trực tiếp quy định khung lãi suất đối với các NHTM. (gồm có lãi suất
trần và lãi suất sàn với các khoản huy động hoặc cho vay của ngân hàng thương mại).
- Ưu điểm: tác động nhanh, trực tiếp đến lãi suất của các Ngân hàng thương mại, nhờ
đó tác động đến tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng. Đây là một công cụ
quan trọng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả.
- Nhược điểm: là một công cụ cứng nhắc, kiểm soát lãi suất sẽ triệt tiêu cạnh tranh
của các Ngân hàng thương mại, dễ gây tác động xấu tới hoạt động tiết kiệm và đầu
tư. Vì vậy, nó thường chỉ được sử dụng trong điều kiện sự ổn định kinh tế vĩ mô
chưa được thiết lập, hay các yếu tố thị trường chưa phát triển hoàn chỉnh. Ngồi ra,
các Ngân hàng thương mại có thể ngầm khơng tuân theo khung lãi suất quy định của
Ngân hàng Trung ương.
1.4.2. Các công cụ gián tiếp.
1.4.2.1. Nghiệp vụ thị trường mở (OMO).
Nghiệp vụ thị trường mở là việc NHTW mua bán các giấy tờ có giá lượng tiền cung
ứng. Đây là công cụ quan trọng nhất của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng.
Hàng hố: (Tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, trái phiếu chính phủ)
Cơ chế tác động:
● Bán các giấy tờ có giá: thu hẹp tín dụng.
● Mua các giấy tờ có giá: mở rộng tín dụng.

- Ưu điểm:
● Ngân hàng Trung ương có thể kiểm sốt hồn tồn lượng nghiệp vụ thị trường
mở. Linh hoạt và chính xác cao.
● Ngân hàng Trung ương có thể dễ dàng đảo ngược tình thế của mình.
● Nhanh chóng, ít tốn kém chi phí và thời gian.
- Nhược điểm:
OMO là công cụ được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó cịn phụ thuộc vào
chủ thể khác trên thị trường (các Ngân hàng thương mại, …). Như ở các nước phát
triển hiện nay 60 - 80% tiền trong lưu thông là ở tại các tài khoản Ngân hàng nên việc
thực hiện các biện pháp này rất hữu hiệu. Ở Việt Nam do thị trường chứng khốn chính
6


Document continues below
Discover more from:
Kinh tế đầu tư 1 KTĐT1
Đại học Kinh tế Quốc dân
814 documents

Go to course

CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM THAM KHẢO
35

Kinh tế đầu tư 1

100% (12)

Nhóm câu hỏi 3 - 4 điểm KTĐT1
36


Kinh tế đầu tư 1

100% (11)

Nhóm-2-Kinh-tế-đầu-tư 04
22

Kinh tế đầu tư 1

100% (6)

Bài tập KTĐT có lời giải
6

Kinh tế đầu tư 1

90% (10)

Nhóm câu hỏi 1 điểm KTĐT 1
11

Kinh tế đầu tư 1

100% (3)

TÀI LIỆU ÔN KTĐT
84

Kinh tế đầu tư 1


100% (3)


phủ chưa phát triển nên Ngân hàng nhà nước phát hành tín phiếu Ngân hàng nhà nước
để điều tiết việc cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên do thị trường loại tín phiếu này chỉ diễn ra
giữa một bên là Ngân hàng nhà nước và một bên là các Ngân hàng thương mại nên hiệu
quả điều tiết không cao, chỉ chủ yếu tác động vào dự trữ của các Ngân hàng thương
mại. Hiện nay trên thị trường mở chủ yếu là kỳ hạn 7 ngày, các kỳ hạn dài hơn hầu như
chưa có.
1.4.2.2. Chính sách chiết khấu.
Chính sách chiết khấu là công cụ của Ngân hàng Trung ương trong việc thực thi chính
sách tiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh.
Cơ chế tác động: Ngân hàng Trung ương tăng hoặc giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất
chiết khấu phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ là nới lỏng hay thắt chặt.
- Ưu điểm: Ngân hàng Trung ương là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất lượng
tín dụng của các Ngân hàng thương mại, bơm tiền vào nền kinh tế, Ngân hàng
thương mại sẽ có chỗ dựa là Ngân hàng Trung ương.
- Nhược điểm: Ngân hàng Trung ương thường bị động trong việc điều tiết lượng tiền
cung ứng. Ngân hàng Trung ương chỉ có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng
không thể bắt các Ngân hàng thương mại đến vay chiết khấu ở Ngân hàng Trung
ương.
1.4.2.3. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại mà không được dùng để
cho vay hoặc đầu tư. Mức dự trữ cho Ngân hàng Trung ương quy định và bằng một tỷ lệ
nhất định so với tổng số tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng.
Cơ chế tác động:
● Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo bội số tiền gửi của các Ngân hàng
thương mại. Ngân hàng Trung ương tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm
hệ số tạo tiền thu hẹp hoặc tăng lên.

● Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của Ngân hàng thương mại.
Khi tỷ lệ này tăng, đòi hỏi Ngân hàng thương mại tăng lãi suất cho vay, khả
năng cho vay của Ngân hàng thương mại giảm, lượng tiền cung ứng giảm (và
ngược lại).
- Ưu điểm:
● Ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất cả các ngân hàng.
● Là cơng cụ có ảnh hưởng rất mạnh đến lượng tiền cung ứng.
- Nhược điểm:
● Phức tạp, kém linh hoạt, không thể thực hiện những thay đổi nhỏ trong lượng tiền
cung ứng bằng công cụ dự trữ bắt buộc.
● Ảnh hưởng đến lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại.
● Dự trữ bắt buộc đóng vai trị kém quan trọng.

7


1.5. Tác động của chính sách tiền tệ đến điều tiết hoạt động đầu tư.
Chính sách tiền tệ có tác động lớn đến điều tiết đầu tư trong một nền kinh tế. Chính
sách tiền tệ được thực hiện bởi ngân hàng trung ương nhằm điều chỉnh nguồn cung tiền và
lãi suất trong nền kinh tế, và có thể ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các cá nhân và
doanh nghiệp, cụ thể như sau:
- Lãi suất: Chính sách tiền tệ có thể tác động đến mức lãi suất trong nền kinh tế. Khi
ngân hàng trung ương tăng lãi suất, chi phí vay tăng, làm giảm khả năng đầu tư của
doanh nghiệp và cá nhân. Ngược lại, khi lãi suất giảm, việc vay vốn trở nên rẻ hơn,
thúc đẩy sự đầu tư.
- Ổn định tiền tệ: Chính sách tiền tệ có tác động đến sự ổn định của đồng tiền trong
nền kinh tế. Khi đồng tiền ổn định, các nhà đầu tư có độ tin cậy cao hơn và dễ dàng
dự đốn các chi phí và lợi nhuận trong việc đầu tư. Ngược lại, nếu có biến động
mạnh về tỷ giá hoặc lạm phát, nhà đầu tư có thể gặp rủi ro và khó khăn trong việc
ra quyết định đầu tư.

- Tín dụng: Chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng đến khả năng vay vốn của doanh
nghiệp và cá nhân. Khi ngân hàng trung ương áp dụng chính sách tín dụng chặt chẽ,
giới hạn việc cấp tín dụng, doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận
nguồn vốn để đầu tư. Ngược lại, khi chính sách tín dụng linh hoạt, doanh nghiệp có
thể dễ dàng tiếp cận vốn và thúc đẩy đầu tư.
- Định giá tài sản: Chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng đến định giá tài sản như bất
động sản và chứng khoán. Khi lãi suất thấp và nguồn cung tiền dồi dào, các tài sản
thường có xu hướng tăng giá, tạo ra lợi nhuận từ việc đầu tư. Điều này có thể thúc
đẩy sự đầu tư vào các tài sản và tăng động lực kinh tế.
Tóm lại, chính sách tiền tệ có tác động đáng kể đến điều tiết đầu tư trong nền kinh tế thông
qua việc ảnh hưởng đến lãi suất, ổn định tiền tệ, tín dụng và định giá tài sản. Việc thiết lập
và thực hiện chính sách tiền tệ cẩn thận và hiệu quả là quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi
cho đầu tư và phát triển kinh tế.
1.6. Kinh nghiệm sử dụng chính sách tiền tệ của các nước trên thế giới
Có bốn loại chính sách tiền tệ cơ bản trên thế giới: chính sách tiền tệ có mục tiêu tỷ
giá hối đối; chính sách tiền tệ có mục tiêu là khối lượng tiền tệ; chính sách tiền tệ có mục
tiêu lạm phát; chính sách tiền tệ có mục tiêu ngầm ẩn chứ khơng cơng khai.
● Chính sách tiền tệ có mục tiêu tỷ giá hối đối đã có một lịch sử lâu dài. Đó là việc
ấn định giá trị đồng nội tệ theo giá vàng hay gắn vào đồng tiền của một quốc gia
khác. Gần đây, người ta thường sử dụng phương pháp neo giá trị của đồng nội tệ
theo giá trị một ngoại tệ trong một biên độ nhất định. Phương pháp này rất đơn giản
rõ ràng và dễ hiểu và tỷ lệ lạm phát dự kiến sẽ được kiểm sốt thơng qua đồng ngoại
tệ được chọn làm neo. Một số quốc gia đã sử dụng thành cơng chính sách này như
Anh, Pháp (sau khi gắn đồng tiền của nó vào đồng Mark Đức. Tuy nhiên nó cũng
có những mặt hạn chế như làm mất đi tính độc lập của các chính sách tiền tệ; do có

8


sự ổn định của đồng tiền, các nhà đầu tư khơng lường hết được mọi sự rủi ro và làm

dịng vốn đổ vào tăng nhanh, khi vốn bị rút ra một cách bất ngờ thì đây là một trong
những nguyên nhân chính làm gia tăng mức độ trầm trọng của các cuộc khủng
hoảng; nó cũng loại bỏ đi những dấu hiệu quan trọng cho thấy chính sách tiền tệ đã
quá bành trướng nhưng đến khi NHTW nhận ra thì đã muộn.
● Chính sách tiền tệ có mục tiêu tiền tệ: Chính sách này cho phép NHTW có thể chọn
một tỷ lạm phát không giống các quốc gia khác tùy theo sự biến động của sản lượng.
Chế độ tiền tệ này có thể gửi tín hiệu gần như lạp tức cho cả cơng chúng và thị
trường về tình trạng của chính sách tiền tệ cũng như ý định của các nhà làm chính
sách trong việc kiểm sốt lạm phát. Mỹ, Anh, Canada đã khơng thành cơng trong
việc kiểm sốt vì việc theo đuổi chính sách này khơng được chặt chẽ và mối liên hệ
không ổn định giữa khối lượng tiền tệ và các biến mục tiêu như lạm phát. Thế nhưng
Đức và Thuỵ Sĩ lại thành công khi áp dụng và do đó hiện nay vẫn cịn nhiều ý kiến
ủng hộ mạnh mẽ và nó đang được xem xét như là một chính sách tiền tệ chính của
NHTW Châu Âu.
● Chính sách tiền tệ có mục tiêu lạm phát: New Zealand là quốc gia đầu tiên thực hiện
theo chính sách này vào năm 1990 tiếp theo là Canada (1991) Anh (1992)...Chính
sách này có một số lợi điểm quan trọng. Nó cho phép sử dụng chính sách trong việc
đối phó với các cú sốc trong nội địa, ngồi ra nó dễ hiểu và có tính minh bạch cao.
NHTW có trách nhiệm cơng khai về con số mục tiêu lạm phát, nó sẽ cung cấp thông
tin cho công chúng và những người tham gia thị trường tài chính cũng như các nhà
chính trị, đồng thời nó làm giảm bớt tính khơng chắc chắn của chính sách tiền tệ, lãi
suất và lạm phát. Một đặc tính quan trọng nữa của chế độ tiền tệ này là nó làm tăng
tính trách nhiệm của NHTW.
● Chính sách tiền tệ có mục tiêu ngầm chứ khơng cơng khai: Milton Friedman đã nhấn
mạnh tác động của chính sách tiền tệ có độ trễ khá lớn. Do đó chính sách tiền tệ sẽ
mất thời gian khá dài để có thể tác động tới lạm phát. Vì vậy để ngăn chặn lạm phát
xuất hiện, NHTW cần hành động theo kiểu dự báo đón trước nhằm đưa ra chính
sách tiền tệ phù hợp. Lý do cơ bản cho việc sử dụng chiến lược này chính là sự thành
cơng của nó mà điển hình là ở Mỹ trong vài năm gần đây. Một nhược điểm quan
trọng của chiến lược này là nó thiếu tính minh bạch. Nhưng nhược điểm lớn nhất

của nó là phụ thuộc quá nhiều vào sở thích, năng lực và độ tin cậy của những người
có trách nhiệm trong NHTW. Những bất lợi đó có thể làm cho chiến lược hoạt động
khơng tốt trong tương lai.
Bốn loại chính sách tiền tệ trên đây đều có những ưu và nhược điểm riêng của mình.
Các kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự minh bạch và tính có trách nhiệm là điều cốt yếu để
điều khiển một chính sách tiền tệ nhằm mang lại một kết quả mong muốn trong dài hạn.
Việc sử dụng loại chế độ nào là tùy thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa và lịch
sử của từng quốc gia.

9


II. Thực trạng áp dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
2.1. Tổng quan chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn 2018 - 2022.
2.1.1. Giai đoạn trước dịch Covid-19 (2018-2019)
Năm 2018, nhiều tổ chức quốc tế dự báo kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi, thương
mại toàn cầu tiếp tục tăng trưởng, FDI toàn cầu dự báo tiếp tục tăng, dòng vốn đầu tư gián
tiếp vào các thị trường mới nổi cũng được dự báo sẽ tăng trưởng trong giai đoạn này. Tuy
nhiên, đến năm 2019, căng thẳng thương mại Mỹ- Trung diễn biến phức tạp, tăng trưởng
kinh tế toàn cầu đang chững lại, thuế quan gia tăng và tình trạng bấp bênh kéo dài đã gây
ảnh hưởng không nhỏ đối với Việt Nam.
- Những ảnh hưởng tích cực: Mơi trường kinh tế thuận lợi với nền tảng chính trị ổn
định, lạm phát thấp, cán cân thanh toán thặng dư, dự trữ ngoại hối nhà nước liên tục tăng
cao, sự cải thiện mạnh mẽ về môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách hành chính hỗ trợ tốt
hơn cho hoạt động của doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển, thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi, cũng như các dịng vốn đầu tư gián tiếp, mua bán cổ
phần tại một số doanh nghiệp lớn (PV Oil, Nhựa Bình Minh…) và ngân hàng thương mại
cổ phần (VPBank, HDBank...).
- Những ảnh hưởng tiêu cực: kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này vẫn tiềm ẩn một
số rủi ro, thách thức từ những rủi ro về chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, khủng bố, vấn nạn di

cư… Cùng với đó là xu hướng “bình thường hóa” chính sách tiền tệ của các nước phát
triển, đặc biệt việc Fed tăng lãi suất và chương trình cải cách thuế của Mỹ có thể khiến dịng
vốn rút khỏi các thị trường để quay về đầu tư tại Mỹ và các nước phát triển, tạo ra các rủi
ro tiềm ẩn đối với việc điều hành tỷ giá, lãi suất tại Việt Nam.
Trước bối cảnh trên, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt,
phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mơ khác nhằm kiểm
sốt lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mơ, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế; thanh khoản của
tổ chức tín dụng được đảm bảo và có dư thừa, thị trường tiền tệ, ngoại hối ổn định, thông
suốt. Lạm phát được kiểm soát nhờ thực hiện tốt, đồng bộ các giải pháp về tiền tệ, tín dụng
và tài khóa cũng như cơ chế phối hợp linh hoạt giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền
tệ. Chỉ số CPI bình qn năm giảm từ 4,74% năm 2016 xuống 3,54% năm 2018; năm 2019,
giảm còn 2,79%. Mặt bằng lãi suất được duy trì ổn định và giảm dần, phù hợp với bối cảnh
kinh tế trong và ngồi nước.
Bên cạnh đó, trong năm 2018, trước bối cảnh FED tăng lãi suất, NHNN đã điều
hành đồng bộ các giải pháp chính sách tiền tệ nhằm ổn định mặt bằng lãi suất, góp phần ổn
định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng hợp lý. Ngoài ra, cách thức điều hành tỷ giá của
NHNN trong giai đoạn này cũng khá đặc biệt, đó là đã sử dụng những cơng cụ mang tính
thị trường hơn là các cơng cụ mang tính áp đặt hành chính. Điều này thể hiện quyết tâm
10


theo đuổi cơ chế tỷ giá trung tâm linh hoạt và định hướng thị trường của ngành NH. Nhờ
đó, tỉ giá được duy trì ổn định, thanh khoản thị trường được đảm bảo, các giao dịch ngoại
tệ diễn ra thông suốt, dự trữ ngoại hối được tăng cường.
2.1.2. Giai đoạn diễn ra đại dịch Covid-19 (2020-2021)
Năm 2020, đại dịch Covid bùng phát, lây lan nhanh chóng dẫn tới suy thối tồn
cầu nghiêm trọng nhất kể từ Đại suy thối 1929-1933. Bên cạnh thiệt hại về con người, dịch
bệnh còn làm tê liệt nhiều hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư toàn cầu; các giao dịch
xuyên biên giới sụt giảm mạnh, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, làm “đứt gãy” các chuỗi cung
ứng tồn cầu. Thị trường tài chính, thị trường tiền tệ thế giới cũng có nhiều biến động, giá

dầu sụt giảm mạnh, chứng khốn tồn cầu giảm sâu, giá vàng tăng cao kỷ lục, xu hướng
giảm giá đồng USD và khả năng lạm phát trong tương lai.
Ở Việt Nam, dịch Covid-19 đã tác động trực diện, sâu rộng đến nhiều mặt của đời
sống kinh tế, xã hội; sản xuất kinh doanh đình trệ, nhiều hoạt động kinh tế văn hóa, xã hội
bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là các lĩnh vực dịch vụ vận tải, kho bãi, du lịch, nhà
hàng, khách sạn, vui chơi giải trí…; hàng triệu lao động thiếu, mất việc làm, thu nhập người
lao động suy giảm nghiêm trọng. Để ứng phó với đại dịch Covid-19, các giải pháp tiền tệ,
tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp người dân ứng phó với các cú sốc nêu trên đã được NHNN
chủ động triển khai quyết liệt, kịp thời, góp phần quan trọng trong việc đạt mục tiêu kiểm
sốt lạm phát, củng cố nền tảng vĩ mơ, duy trì mơi trường kinh doanh lành mạnh, hỗ trợ đà
phục hồi tăng trưởng kinh tế. Cụ thể:
Thứ nhất, điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT để ổn định thị trường,
kiểm soát lạm phát và hỗ trợ kinh tế ứng phó với tác động bất lợi của đại dịch Covid -19.
Các công cụ CSTT được điều hành đồng bộ, linh hoạt; đồng thời, CSTT cũng được phối
hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mơ khác để điều tiết thanh khoản, kiểm soát tiền
tệ, giảm thiểu áp lực gia tăng lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
Thứ hai, liên tục điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất với quy mô lớn, để hỗ
trợ nền kinh tế. Tính chung trong năm 2020 và 2 tháng đầu năm 2021, NHNN đã điều chỉnh
giảm 1,5 - 2,0%/năm lãi suất điều hành, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản, tạo điều kiện cho các
tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp cận nguồn vốn chi phí thấp từ NHNN; giảm 1,5%/năm trần
lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với các lĩnh vực ưu tiên để hỗ trợ giảm chi phí vay vốn
của doanh nghiệp, người dân. So với các nước trong khu vực, Việt Nam là một trong các
quốc gia có mức giảm lãi suất điều hành mạnh nhất.
Thứ ba, NHNN đã ban hành Thông tư quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ
khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid -19, tạo hành lang pháp lý, cơ chế đột phá để các
TCTD tháo gỡ khó khăn về vốn vay cho khách hàng.
Thứ tư, NHNN đã chỉ đạo các TCTD tập trung mọi nguồn lực, cải thiện quy trình,
thủ tục cho vay để nâng cao khả năng tiếp cận vốn của nền kinh tế, giảm lãi suất cho vay
và lợi nhuận để hỗ trợ khách hàng.


11


Thứ năm, Điều hành, công bố tỷ giá trung tâm linh hoạt hàng ngày, phù hợp với thị
trường trong và ngồi nước, cân đối kinh tế vĩ mơ, tiền tệ và mục tiêu CSTT; góp phần hạn
chế tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ và hấp thu các cú sốc đối với nền kinh tế. Đồng
thời, kết hợp với các giải pháp điều tiết thanh khoản hợp lý, chủ động truyền thông, can
thiệp mua/bán ngoại tệ với TCTD để bình ổn thị trường, ổn định kinh tế vĩ mơ, góp phần
kiểm sốt lạm phát.
Thứ sáu, CSTT cũng được điều hành phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và
các chính sách khác. NHNN thường xun trao đổi thơng tin, phối hợp chặt chẽ với các bộ,
ngành trong công tác điều hành CSTT, giá hàng hóa dịch vụ, dự báo lạm phát; đồng thời,
phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính trong trao đổi thơng tin về tiền gửi có kỳ hạn của Kho
bạc Nhà nước tại hệ thống ngân hàng, qua đó ổn định thanh khoản hệ thống, kiểm soát tiền
tệ, tạo điều kiện để giảm lãi suất trái phiếu chính phủ.
Giai đoạn sau đại dịch Covid-19 (2022)
Năm 2022, dịch Covid-19 dần được đẩy lùi, nền kinh tế cũng dần được phục hồi.
Tuy nhiên, Việt Nam lại phải đối mặt với nhiều thách thức mới khi phải đối mặt cùng lúc
với áp lực từ trong và ngoài nước.
Xét về áp lực từ bên trong, thị trường tài chính Việt Nam trong năm 2022 cũng bộc
lộ nhiều điểm bất cập như hiện tượng lũng đoạn, làm giá chứng khoán, hay các vụ việc lừa
đảo chiếm đoạt tài sản và quản lý lỏng lẻo trên thị trường trái phiếu, càng gây ra áp lực rất
lớn đến thanh khoản của toàn hệ thống đặc biệt là đối với các ngân hàng thương mại.
Bên cạnh đó, chính sách thắt chặt tiền tệ cũng gây ra cuộc khủng hoảng thanh khoản
và đưa các ngân hàng thương mại vào một cuộc đua lãi suất mới với tốc độ tăng lãi suất
huy động rất nhanh, một số ngân hàng đã niêm yết mức lãi suất huy động lên đến hơn 10%.
Mặc dù thời gian qua Ngân hàng Nhà nước đã tích cực bơm thanh khoản cho toàn hệ thống,
nhưng áp lực thanh khoản của hệ thống Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt
(tính đến thời điểm gần cuối tháng 12/2022).

Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn nhưng việc điều hành chính sách tiền tệ
nhìn chung là khá hiệu quả và bám sát với diễn biến của thị trường, các biện pháp được đưa
ra để xử lý khủng hoảng của Ngân hàng Nhà nước là kịp thời và mang lại hiệu quả nhất
định. Bằng chứng là kết thúc năm 2022, các mục tiêu kinh tế vĩ mô được dự báo cơ bản sẽ
vượt chỉ tiêu của Quốc hội đề ra từ đầu năm. Đây là một tín hiệu tốt cho thấy chúng ta đang
đi đúng hướng và hạn chế được tối đa tác động xấu của vĩ mô thế giới và trong nước.
Xét về áp lực từ bên ngoài, Việc Fed liên tục tăng lãi suất đã gây ra một làn sóng rút
vốn ồ ạt khỏi các thị trường mới nổi, trong đó có Việt Nam, để chuyển về Mỹ nhằm hưởng
mức lãi suất cao và tác động làm cho đồng USD tăng giá. Hệ quả là Ngân hàng Nhà nước
phải liên tục bán dự trữ ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá và lần đầu tiên dự trữ ngoại hối của
Việt Nam xuống mức 12 tuần nhập khẩu sau khoảng 10 năm, chạm ngưỡng cảnh báo của
IMF. Kèm với đó, Ngân hàng Nhà nước phải tăng lãi suất điều hành lên 2%, bằng với mức
trước đại dịch Covid-19 để đảm bảo sự hấp dẫn của tiền đồng, hạn chế việc rút vốn từ các
nhà đầu tư nước ngồi, vì thế đã xác lập mặt bằng lãi suất mới khá cao ở trong nước.

12


2.2. Thực trạng việc áp dụng các cơng cụ chính sách tiền tệ.
2.2.1. Công cụ lãi suất.
- Giai đoạn 2018-2019: Trước khi đại dịch Covid-19 diễn ra
Sau một thời gian ổn định, từ cuối năm 2018, lãi suất huy động trên thị trường đã có xu
hướng tăng lên rõ rệt và gây nhiều lo lắng trong năm 2019. Lãi suất huy động cao nhất tại
các ngân hàng có lúc lên đến trên 10%/năm, trong khi đó, mức lãi suất 8-9%/năm cũng trở
nên phổ biến hơn. Cuộc chạy đua lãi suất tại các ngân hàng nhỏ cũng khiến các ngân hàng
lớn muốn giảm hoặc giữ ngun cũng khơng được vì sợ mất khách. Điều này là một trong
những lý do khiến mục tiêu giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trở nên thêm
khó khăn. Trong bối cảnh đó, trong năm 2019, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều quyết định
quan trọng để thực hiện nới lỏng chính sách tiền tệ, tác động lên mặt bằng lãi suất.
Hạ lãi suất điều hành sau 2 năm giữ nguyên

Tháng 9/2019, Ngân hàng Nhà nước đã nới nhẹ chính sách tiền tệ bằng cách cắt giảm lãi
suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn ở mức 25 điểm cơ bản, xuống lần lượt còn 4% và
6%. Đây cũng là đợt điều chỉnh đầu tiên trong hơn 2 năm, kể từ tháng 7/2017. Quyết định
có hiệu lực từ ngày 16/9/2019.
Theo NHNN, quyết định này nhằm phù hợp với bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến kém
thuận lợi, nhiều ngân hàng trung ương các nước trong đó có Cục Dự trữ liên bang Mỹ
(FED), Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) đã giảm lãi suất điều hành.
Lãi suất điều hành được cắt giảm dự kiến sẽ nới lỏng thanh khoản ở các ngân hàng, qua đó
tạo điều kiện hạ lãi suất cho doanh nghiệp, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, giới
chuyên gia cho rằng, mức giảm lãi suất không nhiều và tác động không thực sự lớn đến thị
trường hoặc sẽ cần một thời gian dài để thẩm thấu.
Hạ trần lãi suất huy động, lãi suất cho vay
Không lâu sau, đến tháng 11, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục có thay đổi đối với trần lãi suất
huy động và lãi suất cho vay. Ngày 18/11, Ngân hàng Nhà nước bất ngờ phát đi thông báo
điều chỉnh lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 1 tháng đến
dưới 6 tháng giảm từ 5,5%/năm xuống 5%/năm. Cùng với đó, lãi suất tối đa áp dụng đối
với tiền gửi không kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng tại quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức
tài chính vi mơ giảm từ 6% xuống 5,5%/năm.
Ngoài ra, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với các nhu cầu vốn phục vụ nông
nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp
ứng dụng công nghệ cao giảm từ 6,5%/năm xuống 6,0%/năm; lãi suất cho vay ngắn hạn tối
đa bằng VND của quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mơ đối với các nhu cầu
vốn này giảm từ 7,5%/năm xuống 7,0%/năm.
Quyết định này đã có tác động rõ rệt lên thị trường khi ngay sau đấy, từ ngày 19/11, lãi suất
tiền gửi kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng đồng loạt giảm. Không những vậy, lãi suất huy

13


động các kỳ hạn dài hơn cũng giảm theo, mức giảm có lúc lên tới trên 0,5 điểm phần trăm.

Bên cạnh đó, mức lãi suất cao ngất ngưởng 9%, 10%/năm cũng khơng cịn xuất hiện.
Trong 3 ngày ngay sau quyết định trên của NHNN, 7 ngân hàng đã nhập cuộc giảm lãi suất
cho vay và ưu đãi tín dụng. Trong đó, 4 "ơng lớn" ngân hàng là Agribank, VietinBank,
BIDV, Vietcombank đều tuyên bố giảm lãi suất cho vay dù sẽ ảnh hưởng phần nào tới lợi
nhuận.
Giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc
Chính sách cuối cùng liên quan đến lãi suất trong năm 2019 của NHNN là việc giảm lãi
suất tiền gửi dự trữ bắt buộc của các TCTD, có hiệu lực từ 1/12/2019. Cụ thể, lãi suất đối
với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND là 0,8%/năm. Lãi suất đối với tiền gửi vượt dự trữ
bắt buộc bằng VND là 0%/năm. Lãi suất đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là
0%/năm. Lãi suất đối với tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là 0.05%/năm.
Mức lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc áp dụng tại Quyết định mới này đã giảm so với lãi
suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND của TCTD tại NHNN 1,2%/năm trước đó.
Đồng thời, NHNN quy định lãi suất đối với tiền gửi bằng VND tại NHNN của Ngân hàng
Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính
vi mơ là 0,8%/năm. Ngồi ra, NHNN cũng quy định lãi suất đối với tiền gửi bằng VND tại
NHNN của Kho bạc Nhà nước là 1%/năm, lãi suất đối với tiền gửi bằng ngoại tệ của Kho
bạc Nhà nước là 0,05%/năm, lãi suất đối với tiền gửi bằng VND của Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam là 0,8%/năm.
"Tuýt còi" cuộc đua lãi suất
Bên cạnh những quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên, trong năm 2019, NHNN cũng
có nhiều văn bản nhắc nhở các TCTD chấn chỉnh việc áp dụng lãi suất huy động phải đúng
quy định. Chẳng hạn hồi đầu tháng 9, Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước đã
có văn bản "chỉnh đốn" các ngân hàng đua lãi suất. Theo cơ quan quản lý, động thái tăng
lãi suất làm tiềm ẩn nhiều rủi ro ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển lành mạnh của hệ
thống ngân hàng, tạo ra diễn biến tâm lý tiêu cực trên thị trường, có nguy cơ dẫn đến cuộc
đua về lãi suất huy động giữa các tổ chức tín dụng, gây bất ổn thị trường tiền tệ.
Nhìn một cách tổng thể, đến cuối năm 2019, lãi suất trên thị trường đã có phần hạ nhiệt.
Tại nhiều ngân hàng lớn như Vietcombank, BIDV, VietinBank,…lãi suất cho vay đã có tới
2 đợt giảm trong năm, trong đó mức lãi suất tại một số lĩnh vực ưu tiên đã giảm tổng cộng

1%/năm. Trong khi đó, những ngân hàng tư nhân lớn như MBBank, ACB,…cũng có các
chương trình vay vốn ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lãi suất huy động vào những
tháng cao điểm kinh doanh cuối năm khơng cịn cao đột biến.
- Trong giai đoạn 2020-2021 khi đại dịch Covid-19 diễn ra
NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất để đáp ứng yêu cầu của Chính phủ về điều hành linh
hoạt, phối hợp đồng bộ các cơng cụ và giải pháp chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa,
nhằm góp phần kiểm sốt lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi và phát triển bền
vững kinh tế. Lãi suất điều hành đã tăng từ 4% năm 2020 lên mức 5 - 5,25% năm 2022.
Trần lãi suất huy động kỳ hạn dưới 6 tháng đã tăng từ 4% năm 2020 lên mức 6 - 6,5% năm

14


2022. Trần lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên đã tăng từ 9% năm 2020 lên mức
10 -10,5% năm 2022.
Việc điều chỉnh chính sách lãi suất của NHNN đã có những tác động tích cực đến hoạt động
ngân hàng và kinh tế trong nước. Một mặt, việc giảm lãi suất trong giai đoạn khủng hoảng
Covid-19 đã giúp giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp và người dân, duy trì hoạt động sản
xuất kinh doanh và tiêu dùng. Mặt khác, việc tăng lãi suất trong giai đoạn phục hồi kinh tế
đã giúp kiềm chế áp lực lạm phát do giá hàng hóa thế giới tăng cao, duy trì sự hấp dẫn của
tiền Đồng so với USD và các ngoại tệ khác trong bối cảnh các Ngân hàng Trung ương lớn
thắt chặt tiền tệ. Ngoài ra, việc điều chỉnh chính sách lãi suất cũng góp phần thúc đẩy sự
phát triển của thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng.
- Dịch COVID-19 đã tác động đến lãi suất trong chính sách tiền tệ Việt Nam như sau:
+ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã giảm lãi suất cơ bản từ 6% xuống 4%
vào tháng 5 năm 2020 để hỗ trợ các doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng bởi
đại dịch.
+ NHNN cũng đã giảm lãi suất cho vay ưu đãi cho các ngành kinh tế ưu tiên từ 5%
xuống 4,5% và giảm lãi suất cho vay tái cấu trúc từ 7% xuống 6%.
+ NHNN duy trì một chính sách tiền tệ “hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế”, trong khi

theo dõi chặt chẽ lạm phát.
+ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) khuyến nghị NHNN tiếp tục duy trì một chính sách tiền
tệ linh hoạt để hỗ trợ phục hồi kinh tế và duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái.
- Sau đại dịch Covid-19
Trong năm 2022 áp lực lạm phát tăng cao trên toàn cầu đã khiến hầu hết các Ngân hàng
Trung ương lớn đảo chiều sang thắt chặt tiền tệ sau giai đoạn nới lỏng từ 2019-2021.
Ngày 16/3/2022, Fed đã quyết định tăng lãi suất điều hành thêm 0,25%, đánh dấu lần đầu
tiên Cục dự trữ Liên Bang Mỹ tăng lãi suất kể từ tháng 3/2020 và là sự kết thúc quá trình
duy trì mức lãi suất thấp gần 0% kể từ thời điểm bùng phát Đại dịch Covid-19. Chỉ sau đó
9 tháng, lãi suất chuẩn của Mỹ đã tăng lên vùng 4,25 - 4,5% - cao nhất kể từ năm 2007
nhằm đối phó với tình trạng lạm phát ở mức đỉnh 40 năm.
7 lần tăng lãi suất mạnh và liên tục của Fed đã gây ra áp lực lớn lên tâm lý nhà đầu tư, dòng
vốn rút khỏi các thị trường mới nổi, tạo áp lực mất giá lớn đối với đồng tiền của các quốc
gia này và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ.
→ Việc ngân hàng tăng lãi suất đầu vào đã làm dấy lên lo ngại tại một số doanh nghiệp sản
xuất. Sau giai đoạn phục hồi, nhiều doanh nghiệp vẫn cịn gặp khó khăn do thiếu nhân công,
giá cả đầu vào tăng và thị trường đứt gãy nên cần thời gian để trở lại. Trong quá trình này,
doanh nghiệp rất cần vốn lưu động để đầu tư vào chuỗi cung ứng, hàng hóa. Do đó, việc
nhiều ngân hàng thương mại tăng lãi suất đầu vào, cộng thêm áp lực lạm phát từ các nước
trên thế giới và trong nước là một nỗi lo lớn của doanh nghiệp.
Lãi suất cho vay năm 2022 có thể giảm để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch nhờ
các yếu tố: Dịng tiền nước ngồi đầu tư vào Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân
hàng Nhà nước chủ động điều tiết cung tiền và thanh khoản một cách hợp lý khi cần thiết.

15


Tỷ giá và thị trường ngoại hối ổn định, với mức biến động hợp lý của VND so với các quốc
gia trong khu vực.
2.2.2. Nghiệp vụ thị trường mở (OMO).

Trong giai đoạn 2018-2022, NVTTM đã có những bước phát triển và hoàn thiện để đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế và thị trường. Một số điểm nổi bật của NVTTM trong giai đoạn
này là:
Năm 2020, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành hoạt động của thị trường mở
chủ động linh hoạt, phát hành giấy tờ có giá, tăng quỹ dự trữ ngoại hối quốc ra, kiểm soát
lạm phát hiệu quả. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước cũng mua vào giấy tờ có giá gồm tín
phiếu ngân hàng Nhà nước và trái phiếu Chính phủ để đáp ứng nhu cầu thanh khoản và ổn
định lãi suất thị trường tiền tệ.

Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã liên tục chào thầu 1.000 tỷ đồng/phiên trên kênh cầm cố
với kỳ hạn 7 ngày, lãi suất đều ở mức 2,5%/năm nhằm mục đích phát tín hiệu sẵn sàng hỗ
trợ thanh khoản.
Thông tin từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, cơ quan này đang lấy ý kiến của các đơn vị, tổ
chức, cá nhân đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số
42/2015/TT-NHNN quy định về nghiệp vụ thị trường mở. Theo đó, dự thảo Thông tư sửa
đổi, bổ sung khoản 3 Điều 14 về phương thức đấu thầu như sau: “Đối với phát hành tín
phiếu Ngân hàng Nhà nước qua nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước thực hiện
theo phương thức đấu thầu lãi suất; trong trường hợp cần thiết, căn cứ mục tiêu điều hành
chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và diễn biến thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước
xem xét phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước theo phương thức đấu thầu khối lượng."
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) không phát hành lượng OMO hay tín phiếu nào mới trong
tuần vừa qua, đồng thời, cũng khơng có lượng OMO và tín phiếu nào được đáo hạn. Theo
đó, lượng OMO và tín phiếu đang lưu hành tiếp tục được duy trì ở mức 0. Như vậy, lượng
lưu hành kênh tín phiếu vẫn ở mức 0 trong gần 1 năm trở lại đây, kể từ sau lượng đáo hạn

16


2000 tỷ đồng trong nửa đầu tháng 6/2020. Ngược lại, trên kênh OMO, NHNN cũng chưa
có hoạt động gì kể từ cuối tháng 2 tới nay.

Như vậy, nhờ có nghiệp vụ thị trường mở mà ngân hàng Nhà nước có thể chủ động kiểm
soát lãi suất bằng việc mua, bán giấy tờ có giá.
2.2.3. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Gần đây nhất, ngày 29/05/2018, NHNN đã ban hành Quyết định số 1158/QĐ-NHNN
về tỷ lệ DTBB áp dụng cho các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngồi. Quyết
định này chỉ hạ tỷ lệ DTBB của quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mơ, những
đơn vị có thị phần nhỏ trên thị trường, nên khơng tác động lớn đến vốn tín dụng cho nền
kinh tế, nhưng lại gián tiếp hỗ trợ thêm cho nhóm người yếu thế, đối tượng khách hàng
chính của quỹ tín dụng nhân dân và các tổ chức tài chính vi mơ.
Ngồi ra, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 14/2018/TT-NHNN, ngày
29/05/2018 hướng dẫn thực hiện các biện pháp điều hành cơng cụ chính sách tiền tệ để hỗ
trợ các tổ chức tín dụng cho vay phát triển nơng nghiệp, nơng thơn, trong đó tiếp tục có
những chính sách hỗ trợ rất lớn cho các tổ chức tín dụng trong cho vay tam nông thông qua
tái cấp vốn và qua cơng cụ DTBB. Theo đó, tổ chức tín dụng có tỷ trọng dư nợ tín dụng đối
với lĩnh vực tam nơng bình qn từ 70% trở lên sẽ được áp dụng tỷ lệ DTBB theo đề nghị
của tổ chức tín dụng, nhưng không thấp hơn 1/20 tỷ lệ DTBB tương ứng với từng loại tiền
gửi do NHNN quy định. Tổ chức tín dụng có tỷ trọng tín dụng cho vay tam nơng bình qn
đạt từ 40% đến dưới 70%, thì áp dụng tỷ lệ DTBB theo đề nghị của tổ chức tín dụng, nhưng
khơng thấp hơn 1/5 tỷ lệ DTBB tương ứng với từng loại tiền gửi do NHNN quy định. Các
tỷ lệ này không thay đổi so với quy định tại Thông tư số 20/2010/TT-NHNN, ngày
29/09/2010 của NHNN hướng dẫn thực hiện các biện pháp điều hành công cụ chính sách
tiền tệ để hỗ trợ tổ chức tín dụng cho vay phát triển nơng nghiệp, nơng thơn, nhưng có lộ
trình và cơng thức tính rất cụ thể cho từng giai đoạn để đảm bảo tính chính xác và minh
bạch.
Cuối tháng 11/2019, NHNN quyết định giảm lãi suất dự trữ bắt buộc. Theo đó, từ
ngày 01/12/2019, lãi suất đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND của các tổ chức tín
dụng giảm về mức 0,8%/năm và tiếp tục không trả lãi đối với khoản tiền gửi vượt DTBB
bằng VND.
NHNN kiên định giữ tiền gửi DTBB bằng ngoại tệ cao hơn tiền gửi nội tệ ở tất cả
các kỳ hạn. Việc điều hành này nhằm làm giảm tình trạng đơ la hóa nền kinh tế, khuyến

khích người dân lựa chọn đồng nội tệ để gửi ngân hàng thương mại và hạn chế tình trạng
doanh nghiệp găm giữ ngoại tệ trên tài khoản, khuyến khích bán ngoại tệ cho ngân hàng
thương mại. Điều này giúp cung - cầu ngoại tệ trên thị trường được cải thiện, khơng có tình
trạng đầu cơ ngoại tệ, khơng có các cơn sốt tỷ giá. Cơng cụ tỷ lệ DTBB khuyến khích mở
rộng tín dụng nông nghiệp, nông thôn, hoạt động của tổ chức tài chính vi mơ. Tuy nhiên,
thực trạng huy động tiền gửi của các ngân hàng thương mại những năm gần đây khó khăn,
lãi suất huy động tăng cao, nên lãi suất cho vay cũng tăng hoặc không giảm.

17


Trong năm 2019, NHNN tiếp tục giữ ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB) và duy
trì khoảng cách giữa tỷ lệ DTBB tiền gửi nội tệ, nhằm chống đơ la hóa nền kinh tế, tuy
nhiên lần đầu tiên điều chỉnh lãi suất tiền gửi DTBB. Từ ngày 1/12/2019, lãi suất đối với
tiền gửi DTBB bằng VND của các TCTD giảm về mức 0,8%/năm và tiếp tục không trả lãi
đối với khoản tiền gửi vượt DTBB bằng VND. Điều này có ảnh hưởng, nhưng khơng đáng
kể tới lợi nhuận của các NHTM bởi vì tỷ lệ DTBB của các ngân hàng hiện nay ở mức thấp,
chỉ 3%. Với tiền gửi ngoại tệ, NHNN tiếp tục khơng tính lãi đối với khoản DTBB, còn lãi
suất tiền gửi vượt DTBB giảm từ 0,5% xuống cịn 0,05%/năm.
NHNN ban hành Thơng tư số 30/2019/TT -NHNN, quy định về thực hiện DTBB của
các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngồi. Thơng tư này quy định cụ thể cơ chế cho phép
những trường hợp TCTD không phải thực hiện DTBB, hoặc được giảm tỷ lệ thực hiện. Tại
Điều 3 Thông tư 30 quy định rõ ba nhóm các TCTD khơng thực hiện DTBB. Một là, các
TCTD được kiểm sốt đặc biệt. Nhóm đối tượng này hiện có NHTM cổ phần Đơng Á và 3
NHTM mà NHNN mua lại giá 0 đồng. Hai là, TCTD chưa khai trương hoạt động. Ba là,
TCTD được chấp thuận giải thể hoặc có quyết định mở thủ tục phá sản hoặc có quyết định
thu hồi giấy phép.
Năm 2020: Trong năm 2020 và nửa đầu năm 2021, NHNN Việt Nam không thay
đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mà chỉ giảm lãi suất dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương
mại gửi tại NHNN. Tại thời điểm này, tỷ lệ giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc là không cần thiết,

khi mà hệ thống ngân hàng đang dồi dào thanh khoản, nhu cầu tín dụng của nền kinh tế
xuống thấp. Nếu như NHNN giảm dự trữ bắt buộc sẽ đẩy thêm 1 lượng tiền vào lưu thơng,
thì sẽ làm giảm mặt bằng lãi suất cho vay và giảm chi phí tài chính cho các doanh nghiệp.
Nhưng hiện nay, các ngân hàng thì dư thừa vốn trong khi các DN lại đang chật vật với thanh
khoản. Thực tế, nhu cầu về vốn của DN thời điểm này còn yếu, nhiều doanh nghiệp hoạt
động cầm chừng, do đó, việc giữ nguyên tỷ lệ dự trữ cịn giúp NHNN có dư địa trong điều
hành chính sách trong thời gian tới, khi mà NHNN vừa qua đã ban hành một loạt các chính
sách về giảm lãi suất điều hành, trong điều kiện nền kinh tế trên thế giới có nhiều diễn biến
phức tạp sắp tới
Năm 2021: Theo Quyết định 1349/QĐ-NHNN về mức lãi suất tiền gửi dự trữ bắt
buộc và tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của tổ chức tín dụng của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) NHNN quy định, mức lãi suất áp dụng đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng
Việt Nam là 0,5%/năm; đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là 0%/năm; đối với
tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam là 0%/năm; đối với tiền gửi vượt dự trữ
bắt buộc bằng ngoại tệ là 0%/năm.
Các mức lãi suất này giữ nguyên so với quyết định 1349/QĐ-NHNN ngày 6/8/2020.
Riêng lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ giảm từ 0,05%/ năm xuống cịn
0%.
Quyết định mới có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/9/2021 và thay thế Quyết định
1349/QĐ-NHNN ngày 6/8/2020.

18


Đây là lần đầu tiên sau nhiều tháng, NHNN có chính sách điều chỉnh lãi suất cụ thể
trên tồn hệ thống. Trước đó, gần nhất vào cuối tháng 7, NHNN đã có quyết định liên quan
đến tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đó là giảm tỷ lệ này so với quy định trước đó, dành cho ngân hàng
Agribank. Theo đó, Agribank đã được NHNN chấp thuận cho giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
với VND, thời hạn từ tháng 8/2021 đến hết tháng 1/2022 đối với từng loại tiền gửi, cụ thể:
Tiền gửi bằng đồng Việt Nam không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng là 1,5% trên tổng

số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc. Ngoài ra, tiền gửi bằng đồng Việt Nam kỳ hạn 12
tháng trở lên là 0,5% trên tổng số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc. Trong khi đó, theo
quy định, các ngân hàng vẫn giữ nguyên dự trữ bắt buộc 3% đối với khoản tiền gửi không
kỳ hạn và dưới 12 tháng; 1% đối với khoản tiền gửi trên 12 tháng.
Điều này cũng khiến thị trường dấy lên đồn đốn là NHNN tiến tới có thể sẽ giảm
tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng, tương tự như lựa chọn mà Ngân hàng Trung ương
Trung Quốc gần đây đã ban hành, song song với kế hoạch để bơm thêm hàng chục tỷ Nhân
dân tệ vào hệ thống nhằm gia tăng thanh khoản hỗ trợ thị trường tài chính. Năm 2022 khơng
có gì thay đổi.
2.2.4. Tái cấp vốn.
Để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ theo xu hướng hội nhập và thúc
đẩy tái cơ cấu TCTD, NHNN cũng khơng ngừng hồn thiện cơng cụ cho vay tái cấp vốn.
Theo đó, NHNN đã ban hành Thông tư số 24/2019/TT-NHNN quy định về tái cấp vốn
dưới hình thức cho vay lại theo hồ sơ tín dụng đối với TCTD. Với Thơng tư này, các TCTD
có thêm một kênh khá thuận lợi, với các điều kiện và cơ chế rõ ràng, có điều kiện và cơ sở
thuận lợi để tái tạo nguồn vốn. Bởi vì, từ trước đến nay, các TCTD thường tiếp cận nguồn
vốn của NHNN qua kênh tái cấp vốn trên cơ sở giấy tờ có giá, hoặc qua trái phiếu đặc biệt
của Cơng ty Quản lý tài sản các TCTD Việt Nam (VAMC), hoặc trường hợp đặc biệt theo
dự án chương trình được Chính phủ chỉ định… Tuy nhiên, trên thực tế, không phải TCTD
nào cũng có nhiều giấy tờ có giá để có thể tiếp cận nguồn tái cấp vốn từ NHNN, cũng như
qua kênh thị trường mở (OMO) một cách thuận lợi. Với Thơng tư 24, quy định hình thức
cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, đây là cơ sở và nền tảng mà các TCTD ln sẵn có.
Cú sốc kinh tế do dịch Covid-19 ảnh hưởng chủ yếu đến khu vực sản xuất. Chính vì
vậy, việc hỗ trợ các DN gặp khó khăn trong dịch bệnh là cấp bách. Trước tình hình tăng
trưởng tín dụng giảm, chất lượng tín dụng có chiều hướng xấu đi, NHNN đã sử dụng đồng
bộ các công cụ CSTT để hỗ trợ các chủ thể trong nền kinh tế. NHNN năm 2020 đã thực
hiện tái cấp vốn đối với các TCTD theo các chương trình đã được chính phủ , thủ tướng
chính phủ phê duyệt …
Đặc biệt, ngày 11/11/2020, NHNN ban hành Thông tư số 12/2020/TT-NHNN sửa
đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 05/2020/TT-NHNN, ngày 07/5/2020 quy định về tái

cấp vốn đối với ngân hàng Chính sách xã hội theo Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg, ngày
24/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người
dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Theo đó, NHNN tái cấp vốn đối với Ngân hàng

19



×