Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Kiến thức, thái độ và thực hành rửa tay phòng bệnh của sinh viên Y6 hệ bác sĩ đa khoa trường đại học Y Hà Nội năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (851.1 KB, 77 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rửa tay phòng bệnh là rửa tay sạch đúng cách bằng xà phòng và nước,
tại đúng các thời điểm (như trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, sau khi tiếp xúc với
máu/dịch cơ thể ) nhằm loại trừ các vi khuẩn gây bệnh bám trên tay người do
quá trình tiếp xúc với môi trường mang lại. Rửa tay phòng bệnh bao gồm rửa
tay xà phòng (RTXP) trong sinh hoạt hằng ngày và rửa tay thường quy (RTTQ)
tại bệnh viện.
Các nhà khoa học đã xác định, trên 1cm² da của người bình thường chứa
tới 40.000 vi khuẩn. Đặc biệt số lượng này còn nhiều hơn ở trên da tay, vốn là
nơi thường xuyên tiếp xúc với đủ mọi vật trong cuộc sống thường ngày [5].
Theo tổ chức y tế thế giới (TCYTTG), rửa tay (RT) được coi là liều vắc xin tự
chế, rất đơn giản, dễ thực hiện, hiệu quả về chi phí. Chỉ một động tác RT sạch
với nước và xà phòng đã làm giảm tới 35% khả năng lây truyền vi khuẩn
Shigella, vốn là nguyên nhân gây các bệnh tiêu chảy và làm tử vong hàng triệu
người mỗi năm trên thế giới [35]. Theo nhiều báo cáo của các chuyên gia kiểm
soát nhiễm khuẩn trong và ngoài nước thì các bệnh truyền nhiễm đã và đang
diễn ra trong cộng đồng hoàn toàn có thể phòng ngừa được bằng cách RTXP.
Khuyến cáo tại Hội nghị kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện khu vực
Châu Á Thái Bình Dương lần thứ III năm 2007 dựa vào các nghiên cứu khoa
học đã chỉ ra : 1. Rửa tay là biện pháp đơn giản nhất, rẻ tiền nhất và cũng hiệu
quả nhất trong kiểm soát nhiễm khuẩn, do đó cần tăng cường sự tuân thủ RT.
2.RTTQ hoặc sát khuẩn tay bằng dung dịch chứa cồn là phương pháp tiện ích
và hiệu quả nhất trong kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện [18]. TCYTTG ước
tính, tại bất kỳ một thời điểm nào đều có trên 1,4 triệu ca nhiễm khuẩn liên
quan tới chăm sóc y tế [41]. Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) ngày nay đã trở
thành một thách thức mang tính thời đại và tính toàn cầu, được ngành y tế các
quốc gia trên thế giới hết sức quan tâm.
1
Vài năm gần đây, Bộ Y tế đã phát động phong trào vệ sinh bàn tay ở cả
bệnh viện và cộng đồng [2, 23]. Những nghiên cứu trước đây cho thấy tỷ lệ
thực hành rửa tay tại cộng đồng và tại các bệnh viện của Việt Nam còn thấp


(đều dưới 15%) [1, 12, 15, 21]. Con số này cho thấy nguy cơ mắc các bệnh
nhiễm trùng ở nước ta rất lớn.
Đại học Y Hà Nội là một trong những nơi đầu ngành về đào tạo y tế, nơi
hàng năm có hàng trăm bác sĩ ra trường, họ sẽ tỏa đi tới mọi miền đất nước làm
việc trong lĩnh vực chăm sóc y tế. Việc họ có thói quen thực hành RT tốt sẽ bảo
vệ sức khỏe chính bản thân họ và những người xung quanh, đồng thời cũng
góp vào việc phòng chống NKBV. Vậy thực sự những bác sĩ tương lai Y6 sắp
ra trường đã được trang bị đầy đủ về kiến thức cũng như kĩ năng rửa tay phòng
bệnh như thế nào? Những nghiên cứu trước đây chủ yếu đánh giá thực hành
RTTQ của các nhân viên y tế (NVYT) hoặc thực trạng thực hành RTXP của hộ
gia đình, học sinh vùng nông thôn. Nhưng chưa có nghiên cứu nào về thực
hành RT ở đối tượng sinh viên y, những người hằng ngày vẫn có mặt tại bệnh
viện, tiếp xúc trực tiếp với rất nhiều bệnh nhân.
Với những lí do nêu trên, chúng tôi thấy cần có một nghiên cứu về kiến
thức, thái độ và thực hành rửa tay phòng bệnh của sinh viên Y6 trường đại học
Y Hà Nội, từ đó góp phần đề xuất những giải pháp nâng cao ý thức, thực hành
vệ sinh đôi tay cho các bác sĩ tương lai. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài: “Kiến thức, thái độ và thực hành rửa tay phòng bệnh của sinh viên
Y6 hệ bác sĩ đa khoa trường đại học Y Hà Nội năm 2010” với các mục tiêu:
1. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành rửa tay thường quy của sinh
viên Y6 hệ bác sĩ đa khoa trường đại học Y Hà Nội năm 2010.
2. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành rửa tay xà phòng của sinh
viên Y6 hệ bác sĩ đa khoa trường đại học Y Hà Nội năm 2010.
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Sinh thái học của lớp vi khuẩn trên đôi bàn tay
1.1.1 Lớp vi khuẩn cư trú thường xuyên
Bình thường trên bàn tay người có lớp vi khuẩn (VK) cư trú thường
xuyên. Chúng nằm trên bề mặt và sâu dưới da; ổn định về mặt số lượng và

chủng loại. Theo các nhà khoa học, dù không nhìn thấy bằng mắt thường,
nhưng quan sát qua kính hiển vi trên 1cm² da tay người bình thường chứa
hơn 40.000 vi khuẩn các loại [5]. Chúng thường là VK không gây bệnh
trên người lành như:
• Staphylocoque coagulase negative
• Cryhelacteries
• Microcoques
• Propionibacterium acnes
Lớp VK này không bao giờ bị tiêu diệt hoàn toàn ngay cả khi rửa tay (RT)
ngoại khoa. Cách duy nhất để đảm bảo an toàn cho NVYT và bệnh nhân là
mang găng tay vô khuẩn [10].
1.1.2 Lớp vi khuẩn cư trú tạm thời
Hằng ngày, thông qua những tiếp xúc với bệnh nhân và môi trường
xung quanh; số lượng VK trên bàn tay các NVYT còn tăng lên gấp nhiều
lần. Lớp VK này có mặt ngay trên bề mặt da bàn tay, chúng rất phong phú
về chủng loại cũng như số lượng. Chúng thường là những VK gây bệnh cơ
hội như:
• Enterobacteries
• E.coli
• Klebsiella
3
• Pneudomonas acruginosa
• Clostridium difficile
• Rotavirus
• Candida
• Adenovirus
Trong số đó, có rất nhiều VK có khả năng lây truyền bệnh tật và có thể
phát triển thành dịch rất nhanh chóng như: Rotavirus, Pseudomonas,
Adenovirus Người lành mang lớp VK này cũng có thể gặp nguy hiểm, rất
có khả năng sẽ bị mắc bệnh. Nếu chúng ta không rửa tay để loại bỏ lớp VK

này thì đôi bàn tay chúng ta sẽ là môi trường sinh sôi của VK, là nguồn lây
truyền bệnh dịch cho bản thân, những người xung quanh và làm gia tăng tỷ
lệ các bệnh nhiễm trùng [28].
Kết quả kiểm tra ngẫu nhiên của bệnh viện (BV) Chợ Rẫy tại thành phố
Hồ Chí Minh (HCM) năm 2001 ở 77 nhân viên y tế, số vi trùng đếm được
trung bình trên bàn tay hộ lý là 481.273 vi trùng, trên bàn tay bác sĩ
275.110 và nhóm điều dưỡng sạch nhất cũng là 126.875 vi trùng [12].
1.2 Lợi ích của việc rửa tay phòng bệnh
1.2.1 Lợi ích của việc rửa tay thường quy
Trong suốt thế kỷ thứ XIX, ở châu Âu và Mỹ, 25% bà mẹ sinh con
tại bệnh viện đã tử vong do sốt hậu sản. Nguyên nhân mà sau này mãi sau
này, nhờ tiến bộ của khoa học mới phát hiện ra là do vi khuẩn
Streptococcus pyogenes. Năm 1843, bác sĩ Oliver Wendell Holmes (Mỹ)
yêu cầu một bác sĩ của khoa sản (nơi ông làm việc) nghỉ việc một tháng sau
2 trường hợp bà mẹ tử vong mà ông cho rằng liên quan đến vệ sinh bàn tay
của bác sĩ đó. Ý kiến của ông đã bị nhiều bác sĩ cùng thời phản đối [18].
4
Vào những năm 1840 Semmelweis – một bác sĩ người Hungari gốc
Áo làm việc tại BV (ở Áo) có hai khoa sản, ông đã quan sát sản phụ được
nhập viện tại hai khoa sản mà không phụ thuộc vào tình trạng lâm sàng. Ở
khoa thứ nhất, sản phụ được thăm khám bởi các sinh viên y đi từ phòng mổ
xác đi sang phòng đỡ đẻ. Còn ở khoa thứ hai, sản phụ được khám bởi các
nữ hộ sinh không có tiếp xúc với phòng mổ xác. Tỷ lệ tử vong cho mẹ ở
khoa đầu tiên là 18%, với nguyên nhân chính là sốt sản khoa; trong khi ở
khoa thứ hai chỉ là 2%. Semmelweis cũng quan sát thấy rằng một đồng
nghiệp làm tại khoa sản bị chết - vì một bệnh giống với trường hợp sốt sản
khoa - sau khi bị cắt phải tay khi đang mổ xác. Ông có kết luận rằng, các
hạt gây nhiễm nhỏ gây ra sốt sản khoa có nguồn gốc từ tử thi và được lây
truyền cho sản phụ ở khoa thứ nhất qua bàn tay thăm khám của sinh viên y.
Vì vậy ông đã cho những người đi từ phòng mổ xác khử khuẩn tay bằng

vôi chlorinate, sau đó thì tỷ lệ tử vong cho mẹ ở khoa thứ nhất đó giảm
xuống bằng khoa thứ hai. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, nhiều người cho
rằng khuyến cáo rửa tay giữa những lần tiếp xúc với người bệnh của
Semmelweis là quá nhiều và không bác sĩ nào chấp nhận đôi bàn tay họ
chính là nguyên nhân gây tử vong hậu sản. Một số người khác thì cho rằng
kết quả nghiên cứu của ông thiếu bằng chứng khoa học [26, 34].
Năm 1879, tại một hội thảo khoa học ở Paris, bác sĩ Louis Pasteur đã
lên tiếng: “Nguyên nhân gây tử vong ở những bà mẹ bị nhiễm trùng hậu
sản chính là các bác sĩ đã sử dụng bàn tay khám các bà mẹ bị bệnh rồi
khám các bà mẹ mạnh khỏe”. Sau đó, ông đưa ra Lý thuyết về “Mầm bệnh”
và phương pháp tiệt khuẩn Pasteur được sử dụng tới ngày nay [15].
Chưa đầy một thế kỷ sau, một nghiên cứu quan trọng khác đã được
tiến hành. Theo dấu đại dịch tụ cầu những năm 1950, Rammelkamp và
cộng sự đã chứng minh rằng sự tiếp xúc trực tiếp là nguyên nhân chính làm
5
lây truyền Staphylococcus aureus. Họ cũng chứng minh rằng: việc rửa tay
giữa những lần tiếp xúc với bệnh nhân đã làm tỷ lệ nhiễm S.aureus giảm
xuống mức thấp hơn so với lây truyền qua không khí. Trong nghiên cứu
của họ, tỷ lệ mang tụ cầu ở nhóm RTTQ là 10% trong khi tỷ lệ mang tụ
cầu ở nhóm chỉ rửa tay khi cảm thấy cần lên tới 43% [26].
Ngày càng nhiều các nghiên cứu trên thế giới chứng minh vai trò
của RTTQ đối với việc làm giảm tỷ lệ nhiễm trùng liên quan tới chăm
sóc y tế. Theo Conly (1989), tỷ lệ nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y
tế đã giảm rõ rệt, từ 33% xuống còn 12% và từ 33% xuống còn 10%,
ngay sau hai lần can thiệp đẩy mạnh việc RTTQ cách nhau 4 năm [28].
Một trong những nghiên cứu nổi tiếng cho thấy lợi ích của việc
tuân thủ rửa tay được tiến hành từ năm 1995-1998 (có hồi cứu) là nghiên
cứu của GS.TS Didier Pittet tại BV thực hành Genever, Thụy Sỹ. Ông và
cộng sự đã tiến hành nhiều nghiên cứu về vệ sinh bàn tay. Trong nghiên
cứu này Pittet đã đưa ra khái niệm là tất cả những lần rửa tay với nước

và xà phòng, rửa tay với dung dịch sát khuẩn tại những thời điểm khuyến
cáo rửa tay đều được tính là sự tuân thủ rửa tay. Đối tượng được giám
sát là tất cả cán bộ y tế ở các khoa lâm sàng. Thời điểm giám sát là tất cả
các ngày trong tuần, 20 phút đầu tiên của một ca làm việc. Thời gian
giám sát được tính đến khi nào thỏa mãn cỡ mẫu cần thiết. Những điều
dưỡng chuyên ngành kiểm soát nhiễm khuẩn thực hiện giám sát sự tuân
thủ rửa tay. Để đánh giá hiệu quả của chương trình rửa tay, nhóm nghiên
cứu đã đưa ra các chỉ số đánh giá: tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện, tỷ lệ
MRSA (tỷ lệ vi khuẩn kháng thuốc) và mức độ tiêu thụ dung dịch rửa
tay chứa cồn.
6
Bảng 1.1: Kết quả chương trình rửa tay qua nghiên cứu của Pittet
và cộng sự
TT Nội dung 1993 1994 1997 1998
1
> 20.000 lượt rửa tay từ năm 1995
đến 1997
2
Sự tuân thủ rửa tay
- Điều dưỡng và trợ lý điều dưỡng
- Bác sĩ
48% 66%
Tăng
Không tăng
3 Tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện 17,9% 9,9%
4 Tỷ lệ MRSA 2,17% 0,93%
6
Mức tiêu thụ dung dịch sát khuẩn
tay/1000 ngày điều trị bệnh nhân
3,5

lít
15,4
lít
Bảng trên cho thấy: từ năm 1995-1997, trên 20.000 thời điểm
khuyến cáo rửa tay đã được quan sát, sự tuân thủ rửa tay tăng lên từ 48%
đến 66%. Tuy nhiên tỷ lệ tuân thủ rửa tay được cải thiện rõ rệt ở điều
dưỡng, hộ sinh nhưng tỷ lệ này không được cải thiện ở các bác sĩ. Tỷ lệ
NKBV giảm từ 17,9 % (1994) xuống còn 9,9% (1997). Sự lan truyền vi
khuẩn kháng Methicilin/10.000 ngày điều trị/bệnh nhân giảm từ 2,17 %
(1994) xuống còn 0,93% (1997) nhưng lượng tiêu thụ dung dịch sát khuẩn
tay chứa cồn lại tăng từ 3,5 lít (1993) lên 15,4 lít (1997). Năm 2002, trong
một báo cáo, Pittet đã tuyên bố là từ năm 1999-2001, tỷ lệ NKBV duy trì ở
mức 10% (giảm 6% so với trước khi có chương trình rửa tay), trong khi
kinh phí đầu tư cho chương trình rửa tay chỉ là 290.000 USD, tính ra là đã
tiết kiệm chi phí cho điều trị nhiễm khuẩn trong 3 năm là 12 triệu đô la Mỹ
[18,41].
7
Tại Việt Nam, kết quả điều tra về vấn đề NKBV năm 2000 do Sở Y
tế thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với các chuyên gia y tế Pháp tiến hành
cho thấy: Trong 9.900 bệnh nhân (BN) của 24 đơn vị bệnh viện trên toàn
địa bàn thành phố phát hiện được 854 ca nhiễm khuẩn mắc phải tại bệnh
viện (chiếm tỷ lệ 8,6%), trong đó cao nhất là viêm phổi nhiễm khuẩn
(26,5%), nhiễm khuẩn do đặt thông tiểu là 18,8% [20]. NKBV là những
nhiễm khuẩn mắc phải trong thời gian nằm viện mà lý do nhập viện không
phải do nhiễm trùng ấy, thường xuất hiện sau 48 giờ nhập viện. Nhiễm
khuẩn này không hiện diện cũng như không ở trong giai đoạn ủ bệnh tại
thời điểm nhập viện [9]. Hậu quả của NKBV là kéo dài thời gian nằm viện,
tăng chi phí điều trị, tăng tỷ lệ BN tỷ vong, tăng nguy cơ tạo các chủng VK
kháng thuốc [17]. NKBV đang trở thành một gánh nặng thực sự của ngành
y tế. Tăng cường sự tuân thủ RTTQ là điều quan trọng nhất trong các cơ sở

y tế, các bệnh viện.
Việc tăng cường thực hành RTTQ trong các bệnh viện ở Việt Nam đã
ghi nhận nhiều thành công. Tại bệnh viện Bình Dân, sau khi phát động
chương trình VSBT, tỷ lệ NKBV đã giảm từ 17,1% xuống còn 2,1%, thời
gian nằm viện và chi phí sử dụng kháng sinh cũng đã giảm [28]. Bệnh viện
Bạch Mai trong những năm gần đây đã chú trọng công tác chống NKBV,
đồng thời tiến hành tuyên truyền, tập huấn về công tác VSBT khi thăm khám
bệnh nhân. Nhờ vậy, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện từ 1,5% (1995) giảm
xuống còn 0,8% (2006) [4].
Năm 2009, TCYTTG đã phát động Cuộc vận động toàn cầu tham gia
chiến dịch “Bảo vệ sự sống: hãy rửa tay”. Nhận thức được tầm quan trọng
của vệ sinh bàn tay trong khám, chữa bệnh, ngày 20/4/2009, TS. Nguyễn
Thị Xuyên, Thứ trưởng Bộ Y tế đã đại diện cho Lãnh đạo Bộ Y tế ký văn
bản ủng hộ phong trào vệ sinh bàn tay và kiểm soát nhiễm khuẩn do
8
TCYTTG phát động, Việt Nam đã trở thành nước thứ 118 tuyên bố triển
khai Cuộc vận động toàn cầu này. Cũng trong năm 2009, Bộ Y tế đã ban
hành Thông tư số 18/2009/TT-BYT về việc hướng dẫn tổ chức thực hiện
công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám, chữa bệnh. Đặc biệt
là ngay điều đầu tiên của Thông tư đã quy định về rửa tay [23].
1.2.2 Lợi ích của việc rửa tay xà phòng
90% bệnh lây lan qua đường tiếp xúc mà bàn tay là cầu nối chủ yếu.
Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo, chỉ một động tác RT sạch với nước và xà
phòng đã làm giảm tới 35% khả năng lây truyền vi khuẩn Shigella, giảm
rủi ro nhiễm khuẩn tiêu chảy tới 47%, nhiễm khuẩn đường hô hấp tới 19-
45% [35]. Quan trọng là tạo được thói quen RTXP thường xuyên, đúng
cách, nhất là tại các thời điểm trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Sau khi đi
vệ sinh, khi lau chùi phân/nước tiểu – nơi chứa nhiều vi khuẩn dễ dính vào
bàn tay và từ đó xâm nhập vào cơ thể hoặc lây lan sang người khác thông
qua tiếp xúc với bàn tay bẩn (sơ đồ 1.1).

Sơ đồ 1.1 Sơ đồ lây truyền bệnh đường phân-miệng
9
Kết quả xét nghiệm bàn tay người tại 11 tỉnh của Việt Nam cũng cho thấy,
tỷ lệ đối tượng có bàn tay nhiễm E.coli từ phân rất cao [5]. Do đó sau khi đi
vệ sinh, cần phải rửa tay ngay với xà phòng. Điều này không những giúp
giữ gìn thân thể sạch sẽ mà còn phòng chống lây nhiễm bệnh tật và còn tạo
được thói quen vệ sinh. Và cũng cần phải RTXP trước khi chuẩn bị thức ăn
và trước khi ăn để loại trừ các VK bám trên tay có thể lây lan vào thức ăn
và vào miệng.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng chỉ ra rất rõ lợi ích của RTXP.
Theo Luby và cộng sự, việc khuyến khích RTXP và tăng cường giáo dục
cho trẻ em nghèo tại Karachi, Pakistan đã làm giảm 40% tỷ lệ chốc, giảm
53% tỷ lệ tiêu chảy, và giảm 50% tỷ lệ viêm phổi. Tỷ lệ trẻ em tới bác sĩ vì
tiêu chảy giảm 56% và giảm 26% số trẻ cần được nhập viện [33]. Theo
nghiên cứu phân tích của Aiello và nhóm nghiên cứu (2008), việc tăng
cường RTXP giúp làm giảm 31% bệnh đường tiêu hóa và giảm 21% bệnh
hô hấp. RTXP là một phương pháp có tính khả thi và hiệu quả về chi phí,
giúp ngăn ngừa nhiễm khuẩn ở các nước đang phát triển [35].
Tại hội thảo Vệ sinh cá nhân vì sức khỏe cộng đồng, ông Trần Đắc
Phu, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng Bộ Y tế cho biết: “Rửa tay xà phòng,
chúng ta nghĩ là đơn giản nhưng thực ra rất quan trọng, làm giảm nguy cơ
mắc các bệnh truyền nhiễm” [12]. Ngành y tế đã và đang đẩy mạnh tuyên
truyền lợi ích RTXP, vận động thực hành thường xuyên RTXP trong cộng
đồng [36,37], đặc biệt đây cũng là một cách hữu hiệu trong phòng chống
đại dịch cúm A (H1N1) đang bùng phát hiện nay [11]. Vi rút Cúm A
(H1N1) là một loại vi rút có khả năng lây từ người sang người. Đường lây
truyền chủ yếu của Cúm là qua các giọt bắn khi chúng ta nói chuyện, hắt
hơi hoặc ho. Các giọt bắn này mang mầm bệnh, chúng có thể lây trực tiếp
qua đường hô hấp hay qua đường tiếp xúc với dụng cụ, bề mặt và bàn tay
10

có nhiễm dịch từ đường hô hấp của người Cúm. Việc tăng cường RTXP
hoặc sát trùng tay với dung dịch có chứa cồn mọi lúc, mọi nơi khi có tiếp
xúc với bề mặt nguy cơ và khi chăm sóc người bệnh tại gia đình, sau khi đi
vệ sinh, sau khi ho, hắt hơi, chùi mũi….sẽ làm hạn chế tối đa việc mắc cúm
và giảm thiểu sự lây lan, bùng phát dịch cúm [17].
Rất nhiều quốc gia trên thế giới sau khi phát động chiến dịch tăng
cường RT ngoài cộng đồng, trường học, đã làm giảm trên 40% tần suất BN
bị nhiễm trùng đường hô hấp (bao gồm cả cúm mùa), bị viêm phổi ở cộng
đồng và trẻ dưới 5 tuổi [17]. Hiệu quả RTXP rất rõ, quan trọng để việc
RTXP trở thành một thói quen của mỗi người dân là một thách thức lớn.
Ngày 15/10/2008 cùng với 20 quốc gia trên khắp thế giới, “Ngày thế giới
rửa tay với xà phòng” lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam, gần 500
trường học thuộc hơn 20 tỉnh thành phố trên cả nước hưởng ứng với sự
tham gia của hàng chục nghìn em học sinh và người dân. Mục đích của
hoạt động này là đẩy mạnh việc tuyên truyền nâng cao nhận thức, thay đổi
hành vi của toàn xã hội, của mỗi người dân, đặc biệt là trẻ em trong việc
thực hiện thường xuyên RTXP để phòng chống dịch bệnh [3].
1.3 Các nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành rửa tay phòng
bệnh
1.3.1 Các nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu nổi tiếng của Pitte và cộng sự [18, 34], tại Thụy Sĩ thì
48% điều dưỡng tuân thủ RTTQ và sau 3 năm có chương trình can thiệp thì
tỷ lệ tuân thủ RTTQ đã tăng lên tới 66%. Còn tại Thổ Nhĩ Kỳ, khi được
hỏi về RTTQ đa số các y tá lâm sàng không đạt kiến thức liên quan tới việc
VSBT. Phần lớn các y tá đều báo cáo rằng họ luôn luôn RT sau khi tiếp xúc
với BN hay các chất thải, máu/dịch cơ thể. Các y tá đều tán thành việc phải
11
RTTQ một cách thường xuyên nhưng thực tế họ không thể làm được điều
này vì thiếu các cơ sở vật chất [25]. Một nghiên cứu khác nhằm thu thập
các thông tin về thực hành RTTQ để từ đó đưa ra các biện pháp kiểm soát

lây nhiễm. Trong số các sinh viên điều dưỡng (Thổ Nhĩ Kỳ) được hỏi theo
bộ câu hỏi có 80,2% sinh viên (SV) trả lời có RTTQ trước và sau mỗi lần
làm thủ thuật cho BN. Thời gian trung bình 1 lần RTTQ từ 1 phút trở lên
chiếm 71,9%. Kết luận từ nghiên cứu cho thấy tất cả các sinh viên đều
được học về rửa tay nhưng họ vẫn chưa thực sự quan tâm tới RT và chưa
thực hành được những kiến thức đã học.
Một chương trình nghiên cứu lớn tại 11 quốc gia đang phát triển được
tiến hành năm 2007 với mục đích nhằm cung cấp những hiểu biết cần thiết
để phát triển các chiến lược cho việc thay đổi hành vi rửa tay. Nghiên cứu
tập trung chủ yếu vào đối tượng các bà mẹ hay những người đang chăm sóc
trẻ nhỏ, sử dụng phương pháp phỏng vấn và quan sát để đánh giá về các
hành vi rửa tay
Bảng 1.2: Tỷ lệ RTXP của các bà mẹ, người chăm sóc trẻ tại những
thời điểm quan trọng ở 11 nước đang phát triển.
Địa điểm
nghiên cứu
n
RTXP
sau đi
VS (%)
RTXP
sau VS
cho trẻ
(%)
RTXP
trước cho
trẻ ăn
(%)
RTXP
trước

nấu ăn
(%)
Chỉ RT
với
nước
(%)
Ghana 500 3.0 - 1.0 - 39.0
Kerola, India 350 42.0 25.0 - - -
Madagascar 40 4.0 - 12.0 - 10.0
Kyrgyzta 65 18.0 - - - 49.0
Senegal 450 23.0 - - 18.0 -
Peru 500 18.0 - 6.0 - -
12
Sichuan, China 78 17.0 17.0 6.0 - 87.0
Shaanxi, China 64 12.0 - 17.0 - 18.0
Tanzania 30 17.0 17.0 4.0 - 33.0
Ugardu 500 18.0 11.0 6.0 8.0 44.0
Việt Nam 720 - 23.0 5.0 - 51.0
Kenya 802 29.0 38.0 17.0 15.0 57.0
Trung bình 18.0 19.0 5.0 17.0 45.0
Rửa tay xà phòng có thể là một trong những biện pháp ngăn ngừa về
nhiễm trùng có hiệu quả về chi phí nhất ở những nước đang phát triển. Tuy
nhiên tỷ lệ thực hành RTXP lại rất thấp. Kết luận của nghiên cứu cho thấy
chỉ có 18% RTXP và 45% chỉ RT với nước sau khi đi vệ sinh. Tỷ lệ chỉ rửa
tay với nước cao gấp 3 lần so với RTXP. Tỷ lệ RTXP tại các thời điểm
trước khi cho trẻ ăn và trước khi nấu ăn rất thấp [35].
Nghiên cứu của Yalcin SS, Yalsin S, Altin S (2004) về " Rửa tay
của thanh thiếu niên" được tiến hành tại 7 trường học tại Konya, Thổ Nhĩ
Kỳ. Hơn 1000 học sinh tham gia trả lời các câu hỏi như “bạn RT khi
nào”, “trong bao lâu”, “RT như thế nào” và “tại sao”. Kết quả cho thấy

phần lớn thanh thiếu niên vẫn có kiến thức hạn chế về RTXP, có 42,4%
số thanh niên có RT đúng nguyên tắc. Các cách vệ sinh tay của học sinh
gồm rửa tay với nước và xà phòng (99,2%), vệ sinh tay bằng dung dịch
có chứa cồn (0,2%), sử dụng khăn giấy để lau tay (0,6%). Thời gian
trung bình 1 lần RTXP là 41,8 – 39,1 giây [38].
Tại Hàn Quốc một khảo sát về hành vi rửa tay và nâng cao nhận thức
về tầm quan trọng của rửa tay, số liệu được thu thập bằng cách quan sát
2.800 lượt người RT sau khi sử dụng nhà vệ sinh công cộng (NVSCC) tại 7
thành phố trong cả nước và phỏng vấn 1.000 người trên 14 tuổi qua điện
thoại. Kết quả cho thấy: 94% số người trả lời phỏng vấn tuyên bố thường
xuyên RT sau khi sử dụng NVSCC nhưng con số thực tế khi quan sát tại
13
NVSCC là 63,4% số người quan sát đã RT. Đặc biệt nữ giới RT nhiều hơn
nam giới. Trong những người phỏng vấn có 73% RTXP trước khi nấu ăn
và 67% RT khi từ ngoài trở về nhà. Và mặc dù phần đông mọi người trả lời
phỏng vấn (chiếm 77,6%) biết rằng RT là hữu ích trong việc ngăn chặn
truyền bệnh; nhưng 39,6% số người trả lời phỏng vấn đã không làm như
vậy vì họ không có thói quen RT và 30,2% nghĩ rằng việc RT bất tiện [29].
Tại Colombia theo điều tra tại 25 trường học ở Bogota qua bảng câu
hỏi thấy có 33,6% tổng số học sinh là thường xuyên RTXP trước khi ăn và
sau khi đi vệ sinh. Khoảng 7% học sinh có ý thức cập nhật thông tin thường
xuyên về các vấn đề liên quan tới nhiễm trùng và rửa tay [31].
1.3.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam
Theo một điều tra về tình hình thực hiện các biện pháp dự phòng cơ
bản tại BV Bạch Mai và một số BV khu vực phía Bắc được công bố ngày
17/3/2007. Tại BV Bạch Mai: chỉ 2,6% nhân viên y tế RTTQ trước khi
thăm khám bệnh nhân và 4,2% RTTQ trước khi chuyển từ thao tác bẩn
sang thao tác sạch trên cùng một bệnh nhân. Tỷ lệ RTTQ trong ngày của
các NVYT còn quá thấp, chỉ từ 3 – 5 lần/ngày [15]. Thạc sỹ Trần Đức
Mục_Phó Vụ trưởng Vụ Điều trị (Bộ y tế) cho biết chỉ có 17% NVYT ở

Việt Nam RTTQ thường xuyên và đúng cách [12].
Nghiên cứu về việc tuân thủ RTTQ tại BV Saint Paul và Thanh Nhàn
năm 2007 cho thấy, tỷ lệ bác sĩ và điều dưỡng không RT lần nào chiếm tỷ
lệ 58,3%. Tỷ lệ NVYT RT khi có cơ hội chỉ là 12,2% [1].
Kết quả khảo sát trong năm 2009 tại 29 khoa lâm sàng thuộc khối
ngoại, sản, cấp cứu của 9 BV tuyến Trung ương và tỉnh của khu vực phía
Bắc cho thấy: hơn 58% NVYT không trả lời đúng các câu hỏi về VSBT
[15]. Còn trong lễ phát động “Bàn tay sạch” được tổ chức tại BV Nhi
14
Trung ương, 300 NVYT có mặt đều không nắm được quy trình RTTQ do
bộ Y tế quy định. Những NVYT thao tác sai quy trình đều không cảm thấy
gò bó khi được yêu cầu thực hiện lại [4].
Tại cộng đồng, Cục Y tế dự phòng Việt Nam, Bộ Y tế công bố sau
một loạt nghiên cứu đánh giá "Hiện trạng về RT bằng xà phòng tại cộng
đồng dân cư của 10 xã khu vực phía Bắc". Cuộc điều tra được tiến hành hết
sức công phu với việc các cán bộ tham gia điều tra đã ở tại các hộ gia đình từ
5h sáng đến 20h tối và tiến hành quan sát về thực hành vệ sinh cá nhân của
1.180 người dân. Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ người dân trong cộng đồng
RTXP rất thấp. Chỉ có 6,1% số đối tượng được quan sát có RTXP trước khi
ăn; 0,8% số người RTXP sau tiểu tiện; 18,6% có thực hiện hành vi RTXP
sau khi đại tiện. Tỷ lệ các bà mẹ đang nuôi con dưới 5 tuổi có 2,6% RTXP
trước khi cho trẻ ăn, 10,5% sau khi cho trẻ đi tiểu/đại tiện và 17,1% có
RTXP sau dọn phân cho trẻ [21].
Trong nghiên cứu “Vệ sinh môi trường nông thôn Việt Nam” (2006)
được tiến hành 8 vùng trên toàn quốc, phỏng vấn và quan sát 37.000 hộ gia
đình cho thấy: tỷ lệ RTXP rất thấp ở cả 3 thời điểm 12% trước khi ăn,
12,2% sau tiểu tiện và 15,6% sau đại tiện. Trong số những người được
phỏng vấn 2,3% số người nêu ra được RTXP là một trong những biện pháp
phòng tránh bệnh tiêu chảy và bệnh giun. Nhóm đối tượng có học vấn thấp,
nam giới, người dân tộc thiểu số, người sống tại vùng núi phía Bắc, Tây

Nguyên, Trung Bộ có tỷ lệ RTXP thấp hơn các nhóm tương ứng khác [7].
Nghiên cứu về hành vi vệ sinh của học sinh tại 966 điểm trường học
trong 224 xã vùng nông thôn Việt Nam năm 2006 tiến hành quan sát tại
những điểm trường có khu rửa tay và có học sinh đi vệ sinh tại thời điểm
quan sát thu được kết quả: 4,6% số học sinh RTXP sau khi đi tiểu tiện và
15
11,5% RTXP sau khi đi đại tiện [9]. Tình trạng thiếu nước và xà phòng làm
giảm tỷ lệ học sinh RTXP [9,36]. Tại các điểm trường có xà phòng thì tỷ lệ
học sinh RTXP khá cao 30,7% và 64,5% tại 2 thời điểm tương tự.
16
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.2 Đối tượng nghiên cứu
Sinh viên năm thứ 6 (Y6) hệ Bác sĩ đa khoa trường đại học Y Hà Nội
năm học 2009 - 2010.
- Tiêu chuẩn lựa chọn:
• Những sinh viên hiện đang theo học năm thứ 6 hệ Bác sĩ đa khoa
trường đại học Y Hà Nội tại thời điểm nghiên cứu ( năm 2010)
• Sinh viên tự nguyện và đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
• Những sinh viên hiện đang theo học tại trường đại học Y Hà Nội tại
thời điểm nghiên cứu nhưng khác chuyên ngành và/hoặc khác năm
học.
• Những sinh viên không tự nguyện và từ chối tham gia nghiên cứu.
• Sinh viên không tuân thủ qui trình thu thập số liệu (không hoàn
chỉnh bộ câu hỏi, sao chép bài của sinh viên khác…)
2.3 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu đã được tiến hành từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2010, thời gian

thu thập số liệu tháng 4 năm 2010 tại trường đại học Y Hà Nội.
17
2.4 Mẫu và cách chọn mẫu
Cách chọn mẫu: mời tất cả sinh viên khối Y6 hệ Bác sĩ đa khoa đang
học tại trường đại học Y Hà Nội tham gia nghiên cứu. Nhóm nghiên cứu
tới tất cả 12 tổ sinh viên giải thích về nghiên cứu, phát bộ câu hỏi và mời
các bạn tham gia tự điền bộ câu hỏi với sự hướng dẫn và giám sát của
nghiên cứu viên.
Khối sinh viên Y6 đa khoa có tất cả 12 tổ, tổng số 295 sinh viên,
chúng tôi đã phát ra 295 phiếu câu hỏi nhưng chỉ thu lại được 160 phiếu,
trong đó có 40 phiếu điền chưa đủ hết các thông tin. Mẫu số thực tế để
phân tích cho nghiên cứu là 120 sinh viên Y6 đa khoa.
2.5 Biến số, chỉ số nghiên cứu
2.5.1 Một số đặc trưng cá nhân của sinh viên
- Tuổi
- Giới
- Dân tộc : Kinh hay dân tộc khác
- Nơi ở hiện tại: kí túc xá, ở trọ, ở cùng gia đình
- Điều kiện nơi rửa tay của SV: có nước sạch và XP rửa tay
2.5.2 Nhóm biến số về RTTQ
- Định nghĩa rửa tay thường quy: là rửa tay bằng xà phòng và nước
nhằm loại bỏ chất bẩn và vi sinh vật vãng lai trên tay [34].
- Quy trình RTTQ: Bộ y tế đã có công văn số 7518/BTY-ĐT ngày
12/10/2007 về việc hướng dẫn thực hiện quy trình RTTQ và sát khuẩn tay
nhanh bằng dung dịch chứa cồn [6].
18
Các bước tiến hành:
• Bước 1: Lấy 3 ml dung dịch chứa cồn. Chà hai lòng bàn tay vào
nhau.
• Bước 2: Chà lòng bàn tay này lên mu và kẽ ngoài các ngón tay của

bàn tay kia và ngược lại.
• Bước 3: Chà hai lòng bàn tay vào nhau, miết mạnh các kẽ ngón tay.
• Bước 4: Chà mặt ngoài các ngón tay của bàn tay này vào lòng bàn tay
kia.
• Bước 5: Dùng lòng bàn tay này xoay ngón cái của bàn tay kia và ngược
lại
• Bước 6: Xoay đầu ngón tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại.
Chà xát tay đến khi khô tay.
19
Ghi chú:
- Mỗi bước chà 5 lần.
- Thời gian rửa tay tối thiểu 30 giây, hoặc chà xát tay cho đến khi
tay khô.
Khi thực hiện RTTQ cần chú ý:
• Nhất thiết phải RT bằng nước và XP khi tay dây bẩn, dính máu/dịch
cơ thể.
• Có thể khử khuẩn tay bằng dung dịch cồn khi tay không trông rõ vết
cáu bẩn.
• Nếu RT bằng XP và nước: Sau RT cần lau khô toàn bộ bàn tay bằng
khăn sạch và khóa vòi nước bằng khăn vừa sử dụng tránh làm ô
nhiễm lại bàn tay.
• Không rửa lại tay bằng nước sau khi đã chà tay bằng cồn.
5 thời điểm cần tuân thủ RTTQ theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới:
• Trước khi đụng chạm vào người bệnh.
• Trước khi tiến hành một thủ thuật vô khuẩn.
• Sau khi tiếp xúc, phơi nhiễm với dung dịch cơ thể.
• Sau khi tiếp xúc, đụng chạm vào người bệnh.
• Sau khi tiếp xúc, đụng chạm vào các vật dụng xung quanh người bệnh.
- Nhóm biến số về kiến thức RTTQ
• Thời điểm cần RTTQ: sinh viên sẽ chọn xem trong những thời điểm

đưa ra, thời điểm nào cần RTTQ. Tại mỗi thời điểm chọn đúng đáp
án, chúng tôi sẽ tính 1 điểm, chọn sai đáp án không trừ và cũng
không tính điểm. Tổng nếu SV được từ 4/5 điểm trở lên -> tính là
sinh viên nắm được kiến thức về thời điểm RTTQ.
20
• Mục đích RTTQ: sinh viên lựa chọn đúng – sai cho từng mục đích,
cách tính điểm như trên. Nếu SV được từ 4/5 điểm trở lên -> tính là
SV nắm được mục đích RTTQ.
• Quy trình RTTQ do bộ Y tế quy định: SV kể được số bước có trong
quy trình (được 1 điểm), nội dung từng bước theo đúng thứ tự quy
trình. Mỗi bước SV kể đúng thứ tự và đủ được tính 1 điểm. Kể đúng
được thời gian tối thiểu cho RTTQ (30 giây) được 1 điểm.
• Đánh giá SV đạt kiến thức chung về RTTQ (bao gồm kiến thức về
thời điểm, mục đích, quy trình RTTQ) khi SV trả lời được từ 80%
câu hỏi về phần kiến thức (đạt được từ 16/20 điểm trở lên).
- Nhóm biến số về thái độ của SV đối với RTTQ: đánh giá mức độ tán
thành của SV: đồng ý – bình thường – không đồng ý đối với các quan
niệm (bao gồm cả các quan niệm đúng và chưa đúng) về mục đích, hiệu
quả, thời điểm và cách thức RTTQ. Nếu các quan niệm đúng SV đồng ý và
các quan niệm sai SV không đồng ý thì chúng tôi đánh giá là SV có thái độ
tích cực.
- Nhóm biến số về thực hành RTTQ: sinh viên sẽ điền vào phiếu hỏi các
thông tin như:
• Mức độ thường xuyên – không thường xuyên RTTQ
• Nguyên nhân SV không thường xuyên RTTQ
• Các thời điểm được khuyến cáo SV có – không RTTQ
• Thời gian trung bình một lần RT
• Cách RTTQ: sử dụng nước và xà phòng, cồn sát khuẩn, nước
21
2.5.3 Nhóm biến số về RTXP

- Định nghĩa rửa tay xà phòng: là rửa tay với xà phòng và nước
sạch [18].
- Quy trình RTXP do Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và đào tạo (2009) [11].
Bước 1: Làm ướt hai bàn tay
bằng nước sạch. Thoa xà
phòng vào lòng bàn tay. Chà
xát hai lòng bàn tay vào nhau.
Bước 2: Dùng ngón tay và
lòng bàn tay này cuốn và
xoay lần lượt từng ngón của
bàn tay kia và ngược lại.
Bước 3: Dùng lòng bàn tay này
chà xát chéo lên mu bàn tay kia
và ngược lại.
Bước 4: Dùng đầu ngón tay
của bàn tay này miết vào kẽ
giữa các ngón của bàn tay kia
và ngược lại.
Bước 5: Chụm 5 đầu ngón
tay của tay này cọ vào lòng
bàn tay kia bằng cách xoay
đi, xoay lại.
Bước 6: Xả cho tay sạch hết xà
phòng dưới nguồn nước sạch.
Lau khô tay bằng khăn hoặc
giấy sạch.
Chú ý:
• Thời gian mỗi lần rửa tay tối thiểu là 01 phút.
• Các bước 2,3,4,5 làm đi làm lại tối thiểu 5 lần.
4 thời điểm quan trọng RTXP [18]:

• Trước khi chuẩn bị thức ăn.
• Trước khi ăn.
• Sau khi đi vệ sinh.
22
• Sau khi làm vệ sinh cho trẻ.
- Nhóm biến số về kiến thức RTXP
• Thời điểm RTXP cũng tương tự như RTTQ, nếu SV trả lời được từ
9/11 điểm trở lên tính là SV nắm được kiến thức về thời điểm
RTXP.
• Mục đích RTXP: SV sẽ tự liệt kê các bệnh phòng được khi RTXP.
Mỗi bệnh liệt kê đúng sẽ được tính là 1 điểm.
• Đánh giá chung về kiến thức RTXP đạt khi SV trả lời được từ 80%
câu hỏi.
- Nhóm biến số về thái độ RTXP : chúng tôi đánh giá mức độ đồng ý –
bình thường – không đồng ý của SV về các quan niệm được đưa ra dựa trên
một vài nghiên cứu trước, cả các quan niệm đúng và chưa đúng. Nếu các
quan niệm đúng SV đồng ý và các quan niệm sai SV không đồng ý thì
chúng tôi đánh giá là SV có thái độ tích cực.
- Nhóm biến số về thực hành RTXP: sinh viên sẽ điền vào phiếu hỏi các
thông tin như:
• Mức độ thường xuyên – không thường xuyên RTXP
• SV sử dụng xà phòng trong vòng 24h tính từ thời điểm trả lời câu hỏi
trở về trước: có – không – không nhớ.
• Thời điểm SV RTXP.
• Mức độ SV nhắc nhở những người xunh quanh RTXP:
thường xuyên – thỉnh thoảng – chưa từng nhắc.
23
2.6 Kỹ thuật và công cụ thu thập số liệu:
Số liệu được thu thập thông qua bộ câu hỏi. Bộ công cụ thu thập số
liệu do nhóm nghiên cứu xây dựng với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn.

Bộ công cụ thu thập số liệu được thử nghiệm trước khi đưa vào áp dụng
chính thức trong nghiên cứu.
2.7 Quản lý, xử lý và phân tích số liệu
Số liệu sau khi được thu thập được làm sạch và nhập vào máy tính
bằng phần mềm Epidata 2.1. Phần mềm thông kê Stata 10 được sử dụng
trong phân tích số liệu. Cả thống kê mô tả và suy luận được thực hiện.
Kiểm định khi bình phương được sử dụng để so sánh tỷ lệ thực hành RTTQ
và tỷ lệ RTXP trong số sinh viên được nghiên cứu. Mức ý nghĩa thống kê
p< 0,05 được sử dụng trong thống kê suy luận.
2.8 Sai số và cách khắc phục sai số
- Bộ câu hỏi được thử nghiệm trên 5 sinh viên trước khi điều tra
chính thức.
- Các phiếu chưa điền đủ thông tin được loại ra khỏi nghiên cứu.
- Quá trình nhập số liệu vào máy được thực hiện 2 lần và được kiểm
tra đối chiếu với từng phiếu.
2.9 Vấn đề đạo đức nghiên cứu
- Nghiên cứu được sự thống nhất và đồng ý của trường đại học Y
Hà Nội.
- Các bạn sinh viên tham gia vào nghiên cứu là tự nguyện và đồng ý.
- Kết quả nghiên cứu chỉ sử dụng cho mục đích viết khóa luận và đề
xuất kiến nghị nhằm nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành rửa tay
phòng bệnh của các bác sĩ đa khoa tương lai.
24
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Thông tin chung về sinh viên tham gia nghiên cứu
Biểu đồ 3.1 Phân bố sinh viên theo giới
Nhận xét:
Có 120 sinh viên Y6 đa khoa tham gia nghiên cứu, trong đó có
45,8% sinh viên nam và 54,2% sinh viên nữ.

Bảng 3.1 Phân bố sinh viên theo tuổi
Tuổi 23 24 25 26 27 Tổng
n 6 84 25 3 2 120
% 5.0 70.0 20.8 2.5 1.7 100
Nhận xét:
Kết quả ở bảng trên cho thấy đa phần sinh viên ở nhóm tuổi 24
(chiếm 70%). Tuổi cao nhất của sinh viên tham gia nghiên cứu là 27 tuổi,
tuổi thấp nhất là 23 tuổi. Tuổi trung bình của sinh viên là 24,4 tuổi.
* Đặc điểm về dân tộc: 100% sinh viên tham gia nghiên cứu là dân
tộc kinh.
Bảng 3.2 Nơi ở hiện tại của sinh viên
25

×