ĐẶT VẤN ĐỀ
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người, thông qua giao tiếp cá
nhân gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, tiếp thu nền văn hóa lịch sử, biến
nó thành cái riêng của mình, đồng thời cũng góp phần vào sự phát triển văn
hóa chung. Không những thế, giao tiếp còn là một bộ phận cấu thành, không
thể thiếu được để con người tiến hành bất kỳ một hoạt động nào. Giao tiếp
càng có ý nghĩa quan trọng đối với những ngành nghề mà đối tượng tác động
trực tiếp là con người như: dạy học, bán hàng … đặc biệt là nghề y.
Đối với nghề y, nhờ có giao tiếp mà người thầy thuốc thu nhận được
nhiều thông tin về bệnh tật, thực hiện quá trình thăm khám và chăm sóc, điều
trị có hiệu quả. Chính vì vậy, ngay từ những năm tháng trong trường đại học,
sinh viên y khoa đã được trang bị các kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp, rèn luyện kỹ năng giao tiếp để chuẩn bị hành trang trở thành người
bác sỹ tương lai.
Sinh viên năm thứ 3 của trường Đại học Y Hà Nội, là năm đầu tiên bắt
đầu đi lâm sàng tại bệnh viện. Giao tiếp tốt với người bệnh là kĩ năng quan
trọng khởi đầu cho quá trình tạo mối quan hệ chuyên môn với người bệnh.
Nhờ đó, quá trình tìm hiểu thông tin, khai thác bệnh sử, tiền sử bệnh sẽ tốt
hơn, quá trình thăm khám có sự hợp tác của người bệnh được thuận lợi, sinh
viên từ đó sẽ học lâm sàng tốt hơn.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều sinh viên đã không tự tin khi giao tiếp,
luống cuống khi tiếp xúc với người bệnh, lúng túng khi thăm khám, thiếu linh
hoạt và nhạy bén khi giải quyết các tình huống xảy ra trong quá trình giao tiếp
với bệnh nhân. Hậu quả là người bệnh đã từ chối hợp tác, không cho sinh viên
hỏi bệnh, thăm khám. Chính vì vậy, quá trình thực hành lâm sàng của sinh
viên gặp rất nhiều khó khăn và kết quả học tập không đạt được như mong
1
muốn. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân, mà một trong số đó là do sinh
viên đã gặp phải những trở ngại về mặt tâm lý trong quá trình giao tiếp mà họ
không phát hiện ra hoặc không thể vượt qua. Đây là vấn đề rất cần thiết phải
đi sâu tìm hiểu.
Tuy nhiên, cho đến nay, có rất ít các công trình nghiên cứu nhằm phát hiện
ra những rào cản tâm lý trong giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp của sinh viên y
với người bệnh. Với mong muốn giúp các em vượt qua những trở ngại đó và
dần từng bước trưởng thành trong nghề nghiệp, chúng tôi tiến hành đề tài
nghiên cứu:
“Trở ngại tâm lý trong giao tiếp với người bệnh của sinh viên Y3 đa khoa
trường Đại học Y Hà Nội khi thực tập lâm sàng và một số nguyên nhân”
Với mục tiêu:
1. Mô tả một số trở ngại tâm lý, ảnh hưởng trở ngại tâm lý trong giao tiếp
với người bệnh của sinh viên Y3 đa khoa trường Đại học Y Hà Nội khi
thực tập lâm sàng tại bệnh viện.
2. Mô tả ý kiến sinh viên về một số nguyên nhân dẫn đến những trở ngại
tâm lý nói trên.
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm giao tiếp.
1.1.1. Định nghĩa giao tiếp
Vấn đề giao tiếp từ lâu đã thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực như: điều khiển học, ngôn ngữ học, tâm lý học, y
học … Mỗi lĩnh vực dưới góc nhìn của mình lại đưa ra những quan niệm khác
nhau để lý giải về vấn đề này. Điều này đã tạo nên những định nghĩa giao tiếp
hết sức phong phú, đa dạng và phức tạp.
Theo nhà điều khiển học Wiener: giao tiếp là một quá trình trao đổi
thông tin hai chiều giữa hai bên đối thoại[13].
Dưới góc độ ngôn ngữ học, Diệp Quang Ban, Đinh Trọng Lạc cho
rằng: “Giao tiếp là sự tiếp xúc với nhau giữa cá thể này với cá thể khác trong
một cộng đồng xã hội. Loài động vật không làm thành những xã hội vì chúng
không có giao tiếp với nhau như loài ong, loài kiến” [15].
Trong cuốn “Tâm lý học đại cương”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
(1998) do Nguyễn Quang Uẩn chủ biên, các tác giả cho rằng: giao tiếp là mối
quan hệ giữa con người với con người, thông qua đó con người trao đổi với
nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau ảnh hưởng tác động qua lại
với nhau [6].
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết dưới góc độ “hoạt động”, sau khi lý giải hai
mối quan hệ xảy ra trong quá trình hoạt động của con người đã đi đến nhận
định: Giao tiếp là sự tác động qua lại giữa con người với nhau trong xã hôi
nhằm thỏa mãn nhu cầu về người khác để truyền đạt thông tin, để cởi mở tâm
tình, để hợp tác, để ra lệnh.
3
Trong cuốn “Khoa học hành vi và Truyền thông giáo dục sức khỏe”, do
Nguyễn Văn Hiến chủ biên, các tác giả đã đưa ra định nghĩa: “Giao tiếp là
hoạt động xác lập, vận hành các mối quan hệ giữa con người với con người
nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định” [9].
Một nhóm tác giả khác thì định nghĩa : Giao tiếp là sự tiếp xúc trao
đổi thông tin giữa người với người thông qua ngôn ngữ, cử chỉ, tư thế,
trang phục[5]. Đồng thời các tác giả cũng tổng kết các đặc trưng của giao
tiếp như sau :
- Thứ nhất: Giao tiếp là một quan hệ xã hội mang tính chất xã hội. Quan
hệ này được thể hiện thông qua sự trao đổi tiếp xúc giữa con người với
con người. Hệ quả của quan hệ này hình thành nên các chuẩn mực, các
giá trị, các mục đích, các nhu cầu, lợi ích….
- Thứ hai: Đặc trưng của giao tiếp là tính chủ thể. Tức giao tiếp được
thực hiện bởi các cá nhân cụ thể. Các cá nhân trong giao tiếp là cặp
“chủ thể- đối tượng” luôn đổi chỗ, tạo sự chi phối và tác động lẫn nhau.
- Thứ ba: Giao tiếp xã hội ảnh hưởng đến quá trình nhận của con người.
- Thứ tư: Trong quá trình giao tiếp con người trao đổi các kiến thức, các
hiểu biết và cả thái độ tích cực đó cho nhau.
- Thứ năm: Thông qua giao tiếp con người tiếp thu các kinh nghiệm của
cá nhân như lối sống (cách xử sự), truyền đạt các kĩ năng, kĩ xảo….
- Thứ sáu: Trong giao tiếp xã hội có sự truyền đạt, lây lan các cảm xúc,
tâm trạng.
Như vậy, dưới góc nhìn của Tâm lý học xã hội, các nghiên cứu đã chỉ
ra những đặc trưng nổi bật của giao tiếp xã hội. Giao tiếp có thể xảy ra giữa
hai cá nhân, nhóm ba cá nhân trở lên cho tới cả “đám đông” xã hội.
Trong khóa luận này, chúng tôi sử dụng định nghĩa giao tiếp của tác giả
Nguyễn Quang Uẩn - chủ biên cuốn “Tâm lý học đại cương”.
4
1.1.2. Vai trò của giao tiếp trong chăm sóc sức khỏe
Giao tiếp có vai trò rất quan trọng trong đời sống con người cũng như
trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Trong chăm sóc sức khỏe, giao tiếp:
- Nâng cao kiến thức và nhận thức của cá nhân, cộng đồng về các vấn
đề và giải pháp về sức khỏe cho cá nhân và cộng đồng.
- Ảnh hưởng đến nhận thức, niềm tin, thái độ và chuẩn mực xã hội liên
quan đến sức khỏe và chăm sóc sức khỏe.
- Thúc đẩy hành động chăm sóc sức khỏe.
- Giải thích và minh họa các kỹ năng cần thiết cho chăm sóc sức khỏe.
- Chỉ ra những lợi ích của thay đổi hành vi có hại, thực hành hành vi có
lợi cho sức khỏe.
- Củng cố kiến thức, thái độ và hành vi về chăm sóc sức khỏe.
- Bác bỏ niềm tin hoang đường và quan niệm sai lệch về sức khỏe,
bệnh tật.
- Giúp phát triển mối quan hệ trong tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi cho
phát triển sức khỏe.
- Vận động cho các vấn đề sức khỏe hoặc cho các hành động hướng
đến sức khỏe của cộng đồng.
Ngày nay, có rất nhiều bằng chứng cho thấy cán bộ y tế có giao tiếp tốt
với người bệnh đưa ra những chẩn đoán chính xác và đầy đủ hơn, đồng thời
cũng làm cho người bệnh giảm lo lắng và hài lòng hơn. Người bệnh tuân thủ
những lời khuyên và tuân thủ theo phác đồ điều trị dẫn đến tỷ lệ phục hồi và
cải thiện về sức khỏe nhiều hơn. Ngược lại, cũng có những bằng chứng chỉ ra
rằng giao tiếp không tốt giữa cán bộ y tế và người bệnh có thể dẫn đến hậu
quả không tốt cho sức khỏe của người bệnh. Giao tiếp giữa bác sĩ và người
bệnh không tốt, không đầy đủ là một nguyên nhân chính dẫn đến sự không hài
5
lòng của người bệnh. Hầu hết các lời than phiền về bác sĩ đều liên quan ít giao
tiếp và không chú ý lắng nghe người bệnh.
Giao tiếp không tốt giữa cán bộ y tế và người bệnh có thể do cán bộ y
tế không đào tạo đầy đủ về kỹ năng giao tiếp khi còn là sinh viên. Một trong
những lí do hết sức quan trọng là kỹ năng giao tiếp chưa được quan tâm đầy
đủ trong chương trình đào tạo đại học và kỹ năng này không được xác định rõ
ràng. Ngày nay, đã có nhiều bằng chứng ủng hộ hoạt động giảng dạy kỹ năng
giao tiếp cho sinh viên Y khoa và trên thực tế đã cải tiến được chất lượng giao
tiếp giữa cán bộ y tế và người bệnh.
1.2. Trở ngại tâm lý trong giao tiếp.
1.2.1. Khái niệm trở ngại tâm lý trong giao tiếp
Trở ngại trong đời thường được hiểu là những cản trở, những vướng
mắc, những cản trở xảy ra trước một hoạt động nào.
Theo Từ điển tiếng Việt: Trở ngại là những cản trở, những điều ngăn cản,
gây khó khăn. Còn theo Từ điển Wikionar, danh từ trở ngại: là cái gây khó khăn,
làm cản trở, gây trở ngại cho công việc, cho việc thực hiện kế hoạch.
Vậy trở ngại là những cản trở gây khó khăn cho việc thực hiện hoạt động.
Trở ngại tâm lý trong giao tiếp là toàn bộ những đặc điểm tâm lý cá
nhân và kiểu hành vi ứng xử không phù hợp với nội dung, đối tượng và hoàn
cảnh giao tiếp.
1.2.2. Biểu hiện của trở ngại tâm lý
Những dấu hiệu cơ bản của trở ngại tâm lý trong giao tiếp được thể
hiện thông qua ba mặt cơ bản của tâm lý con người, đó là: nhận thức, xúc cảm
- tình cảm và hành vi giao tiếp.
Về nhận thức: đó có thể là do chủ thể không hiểu biết đầy đủ về đối
tượng, chủ thể hiểu nhầm đối tượng giao tiếp, chủ thể đánh giá tình huống
6
giao tiếp chưa đúng, chủ thể hạn chế hiểu biết về bản thân và đặc điểm chủ
thể có quan niệm chưa đầy đủ về giao tiếp.
Về xúc cảm - tình cảm: có biểu hiện xúc cảm không phù hợp đối tượng,
tình huống giao tiếp (lẽ ra nên nhẹ nhàng thì lại quát tháo…), không hoặc kém
kiềm chế cảm xúc.
Về hành vi: gồm một số biểu hiện như thiếu tự tin, gò bó, lúng túng, né
tránh, các hành vi phi ngôn ngữ thiếu linh hoạt, thiếu phù hợp.
1.2.3. Nguyên nhân gây trở ngại tâm lý.
Trở ngại tâm lý trong giao tiếp là một vấn đề hết sức phức tạp, do
đó việc xem xét nguyên nhân gây nên những trở ngại này cũng rất khó
khăn. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, người ta thấy có hai nhóm nguyên
nhân sau:
Nhóm nguyên nhân khách quan:
- Hoàn cảnh giao tiếp mới lạ.
- Tình huống bất ngờ, phức tạp.
- Thiếu thời gian giao tiếp.
- Đơn vị xã hội khác nhau.
- Chênh lệch quá lớn về tuổi tác.
- Khác nhau về giới tính.
- Không trùng về tâm thế với đối tượng giao tiếp.
- Khác biệt về lối sống, ngôn ngữ.
- Tập quán giao tiếp khác nhau.
-
7
Nhóm nguyên nhân chủ quan:
- Thiếu kinh nghiệm giao tiếp.
- Kém phát triển về năng lực và kỹ năng giao tiếp.
- Có sự khác biệt về phong cách chủ thể với đối tượng giao tiếp.
- Chủ thể đánh giá quá cao hoặc quá thấp đối tượng.
- Không phù hợp về tính cách.
- Thiếu hiểu biết về đối tượng.
- Sơ ý, bất cẩn làm phật ý đối tượng.
- Các phẩm chất ý chí kém phát triển (thiếu kiên trì, tự chủ…).
- Khả năng biểu cảm kém.
- Có sự khác nhau về kiểu loại khí chất và mức độ biểu hiện.
- Mặc cảm lớn về ngoại hình có dị tật bẩm sinh.
- Thiếu khả năng diễn đạt tốt.
- Thiếu hiểu biết về tục quán hoặc tục lệ.
- Máy móc dập khuôn trong giao tiếp.
- Chưa có tâm thế trong giao tiếp.
1.2.4. Phân loại trở ngại tâm lý
Có nhiều cách phân loại trở ngại tâm lý trong giao tiếp.
Căn cứ vào chức năng và nhiệm vụ giao tiếp, có:
- Trở ngại tâm lý trong trao đổi thông tin, các trở ngại này xảy ra khi
trao đổi nội dung thông điệp giữa các chủ thể giao tiếp. Vì một lí do nào đó
làm nội dung thông tin không đến được hoặc đến một cách không đầy đủ.
- Trở ngại tâm lý trong hiểu biết lẫn nhau. Các rào cản như vị trí xã hội,
tuổi tác, giới tính, tính cách, nhận thức, quan điểm hay thiếu thông tin, thông
8
tin sai lệch … luôn có thể là cản trở cho quá trình hiểu biết lẫn nhau. Điều này
dẫn đến việc khả năng giao tiếp bị hạn chế
- Trở ngại tâm lý trong điều chỉnh tâm lý. Để giao tiếp tốt cá nhân cần
điều chỉnh tâm lý cho phù hợp với hoàn cảnh, tình huống … Trong quá trình
này có thể xuất hiện hàng loạt các trở ngại như không biết phản ứng thế nào
cho phù hợp, quá nóng nảy vội vã … dẫn tới không điều chỉnh được tâm lý.
- Trở ngại tâm lý trong tác động qua lại. Quá trình luôn có sự tương tác
giữa các chủ thể. Trong quá trình tương tác, có thể xuất hiện các cản trở như
người nghe hiểu sai ý người nói, người nói hiểu chưa đầy đủ thông tin phản
hồi từ người nghe …
- Trở ngại tâm lý trong giao lưu tình cảm. Khi giao tiếp các trạng thái
cảm xúc, tình cảm tiêu cực diễn ra ở một chủ thể giao tiếp cũng có thể là
nguyên nhân gây nên cản trở giao tiếp.
- Trở ngại tâm lý trong tổ chức hoạt động chung.
- Trở ngại tâm lý trong việc hình thành phát triển quan hệ xã hội, quan
hệ liên nhân cách.
Căn cứ vào phương tiện giao tiếp, có:
- Trở ngại tâm lý trong giao tiếp ngôn ngữ: Sự tiếp xúc, trao đổi thông
tin giữa người với người thông qua nói và viết có thể bởi ảnh hưởng bởi ngôn
từ không chau chuốt, mức độ diễn đạt ngôn ngữ trừu tượng kém, dùng quá
nhiều từ địa phương.
- Trở ngại tâm lý trong giao tiếp phi ngôn ngữ: Mỗi nền văn hóa, mỗi
dân tộc đều có một hành vi mang ý nghĩa khác nhau. Điều này làm nảy sinh
khó khăn cho việc giao tiếp giữa chủ thể đến từ các nền văn hóa khác nhau …
Căn cứ vào các mặt biểu hiện của trở ngại tâm lý, có:
- Trở ngại tâm lý thuộc về khía cạnh nhận thức
- Trở ngại tâm lý thuộc về khía cạnh tình cảm
9
- Trở ngại tâm lý thuộc về khía cạnh hành vi ứng xử
Như vậy, trở ngại tâm lý trong giao tiếp vô cùng đa dạng, phong phú và
phức tạp. Các loại trở ngại có nhiều mức độ, cấp độ khác nhau có quan hệ đan
xen và chuyển hóa qua nhau.
1.2.5. Ảnh hưởng của trở ngại tâm lý đến hiệu quả của quá trình giao tiếp.
Tâm lý của con người là kinh nghiệm xã hội - lịch sử chuyển thành
kinh nghiệm riêng của cá nhân thông qua hoạt động và giao tiếp. Tâm lý là
sản phẩm của hoạt động và giao tiếp. [22,47]. Qua giao tiếp các mối quan hệ
của con người được thiết lập và qua đó con người hoàn thiện dần về nhân
cách của mình.
Như vậy, giao tiếp là một trong những điều kiện đầu tiên để đảm bảo sự
tồn tại của cá nhân và của cả xã hội loài người. Giữa cuộc sống thường ngày,
con người luôn trao đổi thông tin với nhau, phối hợp hành động với nhau, tiếp
xúc trao đổi với nhau qua đó có sự hiểu biết và rung động lẫn nhau. Song nhu
cầu giao tiếp của con người không phải lúc nào cũng “suôn sẻ” cũng được
như ý muốn. Bất kì người nào khi giao tiếp cũng gặp phải những “hàng rào tâm
lý”. Hàng rào này xuất hiện vào bất kì giai đoạn nào của quá trình giao tiếp. Nó
làm cản trở quá trình giao tiếp diễn ra suôn sẻ thậm chí khiến quá trình giao tiếp
trì trệ, khó khăn và hệ quả là nội dung thông điệp có thể sai lệch, mối quan hệ
giữa người truyền tin và người nhận tin cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Nguyên nhân của hiện tượng này là do có sự trở ngại của một số yếu tố
chủ quan và khách quan.
Ngoài ra còn có cản trở ở sự chênh lệch giữa chủ thể và đối tượng giao
tiếp về tuổi tác, cương vị, trình độ hiểu biết, tình trạng sức khỏe, các định kiến
cá nhân, các ác cảm, mức độ tri giác bản thân và xã hội hoặc những khó khăn
trong việc sử dụng ngôn ngữ hay khác nhau về phong tục tập quán, ngôn
10
ngữ trình độ phát triển văn hóa xã hội ở các địa phương, các dân tộc, các quốc
gia khác nhau… đều gây ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình giao tiếp.
Có hàng vạn yếu tố gây ảnh hưởng lớn hay nhỏ gây trở ngại tâm lý
trong giao tiếp và hệ quả là mục đích, mục tiêu của quá trình giao tiếp không
đạt được.
1.3. Một số nghiên cứu về trở ngại tâm lý trong giao tiếp.
Khó khăn tâm lý trong giao tiếp là vấn đề còn khá nhiều mới mẻ, vì vậy
nó còn ít được nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học.
1.3.1. Nghiên cứu trên thế giới.
Đối với con người, giao tiếp là một hoạt động không thể thiếu được, là
điều kiện quyết định biến con người sinh học thành con người xã hội, từ cá
nhân thành nhân cách.
Từ thời cổ Hy Lạp, hai tác giả là Socrate (407-399 TCN) và Platon
(428- 347 TCN) đã nói đến đối thoại như là sự giao tiếp trí tuệ, phản ánh mối
quan hệ giữa con người với con người.
Vào thế kỉ XIX có một số nhà triết học như: L.Phơbach, C.Mac… đã
đề cập đến vấn đề giao tiếp. L.Phơbach(1804- 1872) nhấn mạnh: Bản chất
con người chỉ thể hiện trong giao tiếp, trong sự thống nhất của con người,
trong sự thống nhất dựa trên tính hiện thực giữa tôi và bạn.
Đến thế kỉ XX vấn đề giao tiếp mới được nhiều nhà Triết học, Tâm lý
học, Xã hội học quan tâm nghiên cứu như: G.C.Mít (1863- 1931)- nhà triết
học, tâm lý học Mỹ; Mactinbubơ(1878- 1965) - đại diện của triết học hiện
sinh và triết học Nhật Bản…
Những năm 1930, L.X.Vưgôtxki nghiên cứu vấn đề giao tiếp và được
giới thiệu trong các Hội nghị tâm lý học.
Bên cạnh đó, có một số công trình nghiên cứu về giao tiếp dưới các góc
độ khác nhau được tiến hành ở Liên Xô như: A.A.Lêonchiev với tác phẩm
11
“Tâm lý học giao tiếp” (1974); I.L.Kôlôminxki với tác phẩm “Tâm lý học về
các mối quan hệ tác động qua lại trong nhóm nhỏ” (1976); K.K.Platônôv với
tác phẩm “Vấn đề giao tiếp trong tâm lý học” (1981) …
Ở phương Tây, có một số tác giả cũng nghiên cứu về vấn đề này như:
Năm 1956 có ba tác giả người Mỹ là Johnson, L.Grison, M.Schalckamp đã
viết cuốn “Giao tiếp”. Nội dung của cuốn sách đề cập đến các vấn đề: Mối
quan hệ của kỹ năng giao tiếp với sự tiến bộ trong trường đại học của sinh
viên, cách biểu lộ tình cảm, phát triển kỹ năng bình luận
Năm 1960, tác giả Bavelas (Pháp) đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm
về cấu trúc giao tiếp.
Một số tác giả như Stecxen (Pháp), M.Acgin (Anh), E.E Acgyt,
Toddthorne, Doris Wents (Mỹ) cũng có nhiều công trình nghiên cứu khác
nhau về giao tiếp.
Trong các công trình nghiên cứu của một số tác giả, đã có đề cập tới trở
ngại tâm lý trong giao tiếp: G.M.Andreeva khi phân tích chức năng của thông
tin của giao tiếp đã nhận thấy: Ở điều kiện trao đổi thông tin của con người,
có thể xuất hiện những “bức rào” trở ngại tâm lý, tác giả đã nêu ra một vài
nguyên nhân nảy sinh trở ngại tâm lý trong giao tiếp nhưng không đề cập đến
nội hàm khái niệm này.
Hai tác giả H.Hipson và M.Phorvec khi giải thích các chức năng của
giao tiếp đã nêu ra các yếu tố gây khó khăn cho giao tiếp [21] đó là:
- Người phát tin không có khái niệm chính xác về người cùng giao tiếp
với mình.
- Người phát tin che dấu lí do thông tin hoặc những lí do đó không rõ
đối với bản thân người phát tin, nên ý định của họ không được thực hiện.
- Do sự khác nhau của hoàn cảnh hoặc lập trường văn hóa xã hội.
12
- Trong giao tiếp gián tiếp, người phát tin không thể quan sát được
thông báo của mình được người nhận lĩnh hộ như thế nào, thông báo đó tác
động như thế nào đến người nhận.
- Do khoảng cách quá lớn.
- Do cách kiến giải khác nhau về khái niệm sử dụng ở trao đổi thông tin
tạo nên những “hàng rào khái niệm” ngăn cản giao tiếp.
Như vậy, tác giả đã nêu ra một loạt các nhân tố gây khó khăn cho giao
tiếp, nhưng cụ thể khó khăn giao tiếp là gì? Cách phân loại nó ra sao? thì
công trình nghiên cứu này chưa đề cập đến.
Như vậy, khó khăn tâm lý trong giao tiếp là một vấn đề ít được nghiên
cứu ở nước ngoài.
1.3.2. Nghiên cứu ở Việt Nam.
Vấn đề giao tiếp mới chỉ được đi sâu nghiên cứu từ những năm 1970
trong khoa học tâm lý. Có thể điểm qua các công trình nghiên cứu như sau:
Tác giả Đỗ Long với bài viết “C.Mac và phạm trù giao tiếp” (1963);
Tác giả Trần Trọng Thủy với bài “Giao tiếp và sự phát triển nhân cách của
trẻ” (1981), “Giao tiếp tâm lý, nhân cách” (1981); Tác giả Bùi Văn Huệ với
bài viết “Bàn về phạm trù giao tiếp” (1981).
Tác giả Nguyễn Văn Lê [22] (dưới góc độ thông tin) đã bàn đến khó
khăn tâm lý trong giao tiếp như:
- Sự quá chênh lệch giữa người phát và người thu.
- Khả năng xây dựng và trình bày thông điệp của người phát thông tin.
Tác giả cũng đưa ra các yếu tố tâm lý gây khó khăn trong giao tiếp như:
Những chấn thương tình cảm, những sự khác nhau về chính kiến, những xung
đột, những định kiến,…
Tác giả Lê Hương đã đi vào phân tích những khó khăn tâm lý trong
công tác quản lí xí nghiệp của các nhà quản lí, chủ yếu thể hiện ở hai mặt:
13
Nhu cầu và hoạt động. Tác giả còn đưa ra những số liệu thực tế để chứng
minh cho những khó khăn tâm lý đó [23].
Tác giả Huyền Phan trong bài “Những trở ngại tâm lý khi giao tiếp” đã
chỉ ra: nhiều khi giao tiếp không đạt mục đích vì bị các trở ngại tâm lý ngăn
cản. Muốn giao tiếp đạt mục đích phải vượt qua các trở ngại tâm lý, đó là :
- Bức tường thành kiến do có ác cảm với một người nào đó, do cái nhìn
thiên lệch đã tạo ra ấn tượng không tốt đẹp khi giao tiếp.
- Bức tường ác cảm này sinh khi có định kiến với đối tượng do có
thông tin sai lệch về đối tượng.
- Bức tường sợ hãi xuất hiện do những suy nghĩ, băn khoăn dẫn đến
tiếp xúc gượng ép, thiếu tự tin.
- Bức tường thiếu hiểu biết này sinh do khi tiếp xúc không hiểu nhau
hoặc không hiểu đúng về nhau.
Khắc phục được những bức tường trở ngại tâm lý này thì chắc chắn
giao tiếp sẽ đạt mục đích, ta sẽ có thêm nhiều bạn bè để chia sẻ buồn vui
trong cuộc sống.
Tác giả Phạm Ngọc Viễn trong cuốn sách “Tâm lý học thể dục thể
thao” khi phân tích biện pháp cơ bản của công tác huấn luyện tâm lý chung
cho vận động viên đã nêu ra những khó khăn tâm lý thể hiện dưới dạng các
cảm giác sợ hãi, không tin tưởng, do dự trong quyết định,… của các vận động
viên. Những khó khăn tâm lý này thường xuất hiện trong điều kiện thi đấu có
các yếu tố gây nhiễu như: khởi động không thành công, đối phương kề mình
có thành tích cao, trọng tài thiếu khách quan,… Các khó khăn tâm lý rất đa
dạng về mặt nội dung, tuy nhiên có thể chia chúng thành ba mặt sau:
- Những khó khăn về nhận thức: Xuất hiện khi phản ánh không đúng về
khả năng bản thân.
14
- Những khó khăn về cảm xúc: Phụ thuộc vào thái độ của vận động
viên đối với nhiệm vụ được giải quyết.
- Những khó khăn về mặt đạo đức: Nảy sinh khi nhận thức và rung cảm
về những yêu cầu của xã hội.
Trong công trình trên, tác giả đã có ưu điểm phát hiện và gọi tên được
các khó khăn tâm lý, xác định được nguyên nhân nảy sinh các khó khăn đồng
thời phân loại được các khó khăn đó. Tuy nhiên, còn các vấn đề như bản chất
của các khó khăn này là gì? làm thế nào để bạn hạn chế được nó? thì tác giả
lại không nói đến.
Tác giả Mạnh Toàn đã trích ra ý kiến của bác sỹ người Mỹ Rabbi Kahler
về 5 nguyên nhân cản trở những cuộc tiếp xúc giữa người và người, đó là:
- Kiêu ngạo
- Hay lo
- Mặc cảm
- Nhút nhát
- Luôn cảm thấy có lỗi.
Ở đây tác giả chỉ nêu và giải thích qua 5 nguyên nhân mà không bàn
đến lí luận cũng như không nghiên cứu thực nghiệm về khó khăn tâm lý trong
giao tiếp.
Như vậy, điểm qua các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy :
Những vấn đề lí luận về khó khăn trong giao tiếp tuy đã được nghiên cứu
nhưng còn quá ít, hơn nữa việc nghiên cứu thực tiễn chưa nhiều, đặc biệt việc
nghiên cứu những trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh viên Y khoa với
người bệnh hầu như không được chú ý.
15
1.4. Hoạt động thực hành lâm sàng của SV Y3 trường ĐH Y Hà Nội tại
các cơ sở y tế.
1.4.1. Giới thiệu về trường đại học Y Hà Nội.
Trường Đại học Y Hà Nội được thành lập năm 1902. Trường luôn là một
trong những trường ĐH y hàng đầu của nền giáo dục Việt Nam với bề dày
lịch sử. Trong hơn một thế kỷ hình thành và phát triển vừa qua, nhà trường đã
đóng góp một vai trò quan trọng trong việc đào tạo nhân lực cho ngành y tế,
có nhiều thành tích đáng kể trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phục vụ xã
hội và phát triển đất nước, cả trong thời bình cũng như trong các cuộc kháng
chiến của dân tộc.
Trường ĐHY Hà Nội có 2 Viện, 2 Khoa, 41 Bộ môn và 9 đơn vị trực
thuộc. Trường là một trong những trường ĐH Y có đầy đủ các Bộ môn thuộc
các lĩnh vực khoa học và chuyên ngành cần thiết trên toàn quốc. Hiện nay,
trường là một trong 14 trường ĐH trọng điểm quốc gia của cả nước và là
trung tâm đào tạo cán bộ có chất lượng cao của ngành.
1.4.2. Hoạt động thực hành lâm sàng của SVY3 trường Đại học Y Hà Nội
trong chương trình đào tạo.
Hoạt động thực hành lâm sàng của sinh viên Y3 trường ĐH Y Hà Nội là
một trong những nội dung cơ bản trong chương trình đào tạo của SV Y khoa.
Trong chương trình đào tạo của sinh viên Y3 năm học 2012-2013, thời
gian thực tập lâm sàng tại cơ sở y tế trong vòng 22 tuần bắt đầu từ 31/12/2012
và kết thúc vào 16/6/2013.
Trong thời gian học thực hành lâm sàng, các sinh viên được học 2 môn
là lâm sàng ngoại và lâm sàng nội, trong đó 11 tuần đầu các lớp A,B,C đi nội
trước sau đó đi ngoại còn 2 lớp D và E sẽ đi ngược lại là đi nội trước và đi
ngoại sau.
Tất cả các buổi đi lâm sàng của sinh viên đều được đi vào buổi sáng.
Các lớp sẽ chia nhau theo tổ và theo 2 ca để đi thực hành lâm sàng. Thời gian
16
học bắt đầu từ 7h30’ và kết thúc lúc 11h30’. Với sự hướng dẫn và sắp xếp của
giáo viên hướng dẫn các sinh viên sẽ được chia đi các phòng để hỏi bệnh và
sau đó làm bệnh án.
Mục đích đi lâm sàng: sinh viên được học tập thực tế tại giường bệnh,
được tiếp xúc với người bệnh, người nhà của họ và những trang thiết bị phục
vụ công tác khám chữa bệnh. Sinh viên sẽ thực hành các kỹ năng thăm khám
toàn thân, các hệ cơ quan, tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh, các hội chứng,
triệu chứng lâm sàng … các bệnh nội, ngoại khoa.
1.4.3.Một số kỹ năng giao tiếp cơ bản của sinh viên y khoa khi đi thực
hành lầm sàng:
Để thực hiện được các nhiệm vụ học tập khi đi lâm sàng, một hoạt
động không thể thiếu được đối với SV là giao tiếp để thiết lập quan hệ với các
cán bộ y tế, thầy cô, bạn bè và đặc biệt là tiếp xúc với người bệnh, gia đình
của họ.
Chính vì vậy, việc rèn luyện để có được những kỹ năng giao tiếp thuần
thục, khắc phục những trở ngại diễn ra trong quá trình giao tiếp là điều vô
cùng quan trọng đối với SV y khoa.
Một số kỹ năng giao tiếp cơ bản của sinh viên trong quá trình thực tập
lâm sàng:
+ Kỹ năng tiếp xúc ban đầu
Cảm nhận qua tiếp xúc ban đầu rất quan trọng. Khi người bệnh cảm
thấy sự thấy sự thân thiện, quan tâm của bác sĩ đối với mình, thì người bệnh
sẽ vượt qua được mặc cảm, đau đớn để hợp tác cung cấp thông tin cho bác sĩ.
Còn nếu người bệnh không cảm nhận được sự thân thiện, an toàn khi giao
tiếp, chắc chắn người bệnh sẽ từ chối tham gia vào quá trình tiếp theo và sẽ đi
tìm một bác sĩ khác(mà họ thấy tin cậy hơn) để đề nghị được thăm khám và
theo dõi. Kỹ năng tiếp xúc ban đầu sẽ tạo được thiện cảm với người bệnh
trong lần đầu gặp bác sĩ. Kỹ năng tiếp xúc ban đầu gồm:
17
- Đón tiếp người bệnh
- Chào và hỏi tên, tuổi người bệnh
- Tạo môi trường trong giao tiếp thân thiện
+ Kỹ năng đặt câu hỏi
Kỹ năng đặt câu hỏi là kỹ năng chính của hầu hết những người làm
trong lĩnh vực y tế vì kỹ năng này giúp xác định những thông tin cơ bản của
người bệnh và của người khác trước khi có thể đưa ra chẩn đoán hoặc tư vấn.
Các loại câu hỏi: câu hỏi đóng, câu hỏi mở, câu hỏi gợi ý.
+ Kỹ năng lắng nghe
Lắng nghe để tiếp nhận thông tin, giải mã và phản hồi chính xác, hiểu
được những điều ẩn chứa đằng sau lời nói, cử chỉ của đối tượng (người
bệnh, gia đình họ …) và nâng cao hiệu quả của quá trình giao tiếp.
Kỹ năng này được sử dụng trong: Tiếp xúc ban đầu; Khai thác bệnh sử,
tiền sử của người bệnh; Trong thăm khám, chăm sóc người bệnh…
+ Kỹ năng hỏi bệnh sử và tiền sử
Khai thác bệnh sử và tiền sử là giai đoạn đầu khi người bệnh đến với
thầy thuốc; cung cấp các thông tin ban đầu cùng với việc thăm khám lâm sàng
và cận lâm sàng, từ đó đưa ra các phương pháp điều trị thích hợp.
Kỹ năng hỏi bệnh sử và tiền sử bao gồm nhiều kỹ năng nhỏ:
- Kỹ năng giao tiêp cơ bản để tìm hiểu thông tin từ người bệnh
- Kỹ năng phân tích thông tin
- Kỹ năng tổng hợp thông tin
+ Kỹ năng đồng cảm
Đó là kỹ năng thấu hiểu được những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm, cảm
giác, hành động … của người bệnh (qua quan sát biểu hiện bên ngoài, hiểu
nội tâm, đặt mình vào vị trí người bệnh…) và có những hành động đáp ứng
(sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ…) phù hợp. Biểu hiện bằng lời nói hay ngôn ngữ
cử chỉ, nét mặt
18
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm, thời gian nghiên cứu.
- Địa điểm: Trường Đại học Y Hà Nội.
- Thời gian: Từ tháng 1/2013 đến tháng 6/2013.
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu định lượng (điều tra bằng bộ câu hỏi) kết hợp
nghiên cứu định tính (Phỏng vấn sâu)
2.3. Đối tượng, cỡ mẫu và chọn mẫu nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Sinh viên Y3(sinh viên y học năm thứ 3) hệ
bác sỹ đa khoa năm học 2012-2013, trường Đại học Y Hà Nội.
- Cỡ mẫu: Toàn bộ 509 sinh viên khối Y3 hệ bác sỹ đa khoa Trường
Đại học Y Hà Nội năm học 2012-2013.
- Chọn mẫu:
+ Mẫu được chọn theo phương pháp chọn mẫu có chủ đích.
+ Tiêu chuẩn lựa chọn: Đối tượng lựa chọn vào nghiên cứu phải đảm
bảo tất cả các tiêu chuẩn sau:
• Là sinh viên Y3 đang học hệ bác sỹ đa khoa tại trường Đại học Y
Hà Nội, năm 2013.
• Đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.4. Công cụ và quy trình thu thập thông tin.
- Công cụ thu thập thông tin: Chúng tôi xây dựng một bảng hỏi gồm 6
phần. Trong đó:
Phần 1: Thông tin chung của sinh viên.
19
Phần 2: Đặc điểm khi đi thực hành lâm sàng.
Phần 3: Những trở ngại về mặt tâm lý trong giao tiếp của SV Y3ĐKvới
người bệnh khi thực tập lâm sàng.
Phần 4: Ảnh hưởng của trở ngại tâm lý trong giao tiếp với người bệnh .
Phần 5: Những nguyên nhân dẫn đến trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh
viên với người bệnh khi thực hành lâm sàng tại bệnh viện .
Phần 6: Những kiến nghị của sinh viên đối với nhà trường, cơ sở thực hành và
bản thân sinh viên.
- Quy trình thu thập số liệu:
+ Xây dựng bộ câu hỏi điều tra dựa trên các biến số nghiên cứu. In ấn
bộ câu hỏi.
+ Được sự đồng ý của phòng Quản lý và Đào tạo đại học, chúng tôi liên
hệ trước với giáo vụ phụ trách các lớp bác sỹ đa khoa để có được thông tin về
số lượng ở các lớp này.
+ Sau đó, chúng tôi liên hệ trước với giảng viên của một số môn học
(những người tham gia hỗ trợ), để trao đổi kế hoạch thu thập số liệu cho
nghiên cứu và thông báo với đối tượng trước ki điều tra.
+ Việc thu thập số liệu được tiến hành trên lớp và có sự trợ giúp của
giảng viên phụ trách môn học đó.
+ Trước khi điền vào bộ câu hỏi, đối tượng được giải thích rõ về mục
đích, ý nghĩa của nghiên cứu, xin ý kiến đồng ý tham gia nghiên cứu và
hướng dẫn trả lời câu hỏi.
+ Nghiên cứu viên sẽ soát lại phiếu sau khi đối tượng nghiên cứu hoàn
thành xong để đảm bảo không bị bỏ sót câu trả lời.
20
2.5. Biến số/chỉ số nghiên cứu.
STT
Nội dung/
Mục tiêu
nghiên cứu
Tên biến Chỉ số
1 Thông tin chung
về đối tượng
nghiên cứu
- Giới
- Lớp
- Tỷ lệ % theo lớp.
- Tỷ lệ % SV theo giới.
2 Tình hình tiếp
xúc với người
bệnh khi thực tập
lâm sàng của SV
- Mức độ đi thực tập
lâm sàng môn nội
- Mức độ đi thực
tập lâm sàng môn
ngoại
- Mức độ tiếp xúc
với số BN trung
bình 1 buổi học
lâm sàng
- Mức độ thực hiện
tiếp xúc với bệnh
nhân trung bình 1
buổi học lâm sàng
- Mức độ khó khăn
khi giao tiếp với
bệnh nhân
- Khó khăn về các
khía cạnh nào khi
giao tiếp
- Tỷ lệ % SV đi học môn nội
trong 7 tuần và 11 tuần.
- Tỷ lệ % SV đi học môn ngoại
trong 7 tuần và 11 tuần.
- Tỷ lệ % số BN SV tiếp xúc
trung bình trong 1 buổi thực
tập theo các mức độ.
- Tỷ lệ % thời gian trung bình
SN tiếp xúc với BN trong 1
buổi thực tập theo các mức độ.
- Tỷ lệ % SV cảm thấy khi tiếp
xúc với BN theo các mức độ.
- Tỷ lệ % SV thấy khó khăn về
mặt tâm lý.
- Tỷ lệ % SV thấy khó khăn về
mặt sức khỏe.
- Tỷ lệ % SV thấy khó khăn về
môi trường GT.
- Tỷ lệ % SV thấy khó khăn về
đối tượng GT.
3 Những khó khăn - Mức độ gặp phải - Tỷ lệ % SV chưa hiểu biết
21
về mặt tâm lý
của SV khi giao
tiếp với NB
về mặt nhận thức
- Mức độ gặp phải
về mặt cảm xúc,
thái độ
- Mức độ gặp phải
về mặt hành vi
đầy đủ về người bệnh.
- Tỷ lệ % SV nhìn nhận định
kiến về người bệnh.
- Tỷ lệ % SV không biết bắt
đầu tiếp xúc, làm quen với BN.
- Tỷ lệ % SV không biết khai
thác tiền sử.
- Tỷ lệ % SV không biết phát
triển cuộc trò chuyện.
- Tỷ lệ % SV chưa biết cách
thuyết phục BN.
- Tỷ lệ % SV chưa biết tạo
không khí thân mật.
- Tỷ lệ % SV hạn chế về kiến
thức chuyên nghành.
- Tỷ lệ % SV chưa hiểu biết về
các quy định của BV.
- Tỷ lệ % SV nhìn nhận thấp
bản thân.
- Tỷ lệ % SV còn rụt rè, nhút
nhát, ngại ngùng.
- Tỷ lệ % SV căng thẳng tâm lý.
- Tỷ lệ % SV cảm thấy không
tự tin.
- Tỷ lệ % SV nóng vội, mất
bình tĩnh.
- Tỷ lệ % SV cảm giác sợ hãi,
22
lo lắng.
- Tỷ lệ % SV có tâm trạng,
cảm xúc không tích cực.
- Tỷ lệ % SV mặc cảm khi ở vị
trí là SV thực tập.
- Tỷ lệ % SV hành động gượng
gạo.
- Tỷ lệ % SV kỹ năng còn hạn
chế.
- Tỷ lệ % SV chưa sử dụng
hiệu quả ngôn ngữ không lời.
- Tỷ lệ % SV có kỹ năng
thuyết phục còn hạn chế.
- Tỷ lệ % SV xử lý thiếu linh
hoạt trong GT.
- Tỷ lệ % SV ứng xử chưa tế
nhị.
- Tỷ lệ % SV chưa tích cực,
chủ động trong GT.
- Tỷ lệ % SV chỉ tập trung khai
thác về bệnh.
- Tỷ lệ % SV chưa tập trung
chú ý khi GT.
Ảnh hưởng của
trở ngại tâm lý
trong giao tiếp
với người bệnh.
- Ảnh hưởng của
trở ngại tâm lý.
- Tỷ lệ % SV bị BN hỏi đi hỏi
lại nhiều lần.
- Tỷ lệ % bệnh nhân khó chịu.
- Tỷ lệ % từ chối, không hợp
23
4 Nguyên nhân gây
ra trở ngại tâm lý.
-Nguyên nhân dẫn
đến trở ngại tâm lý
đó.
tác.
- Tỷ lệ % buổi học lâm sàng
trôi qua buồn tẻ.
- Tỷ lệ % tâm trạng chán nản.
- Tỷ lệ % kết quả học lâm sàng
không như mong muốn.
- Tỷ lệ % chưa tạo được sự tin
tưởng.
- Tỷ lệ % sự khác biệt về tuổi,
giới,…
- Tỷ lệ % thiếu sự giám sát,
quản lý chặt chẽ.
- Tỷ lệ % môi trường giao tiếp
mới lạ.
- Tỷ lệ % bệnh nhân chưa rõ
mục đích.
- Tỷ lệ % SV quá đông.
- Tỷ lệ % thời gian học về GT
ít.
2.6. Xử lý và phân tích số liệu.
- Làm sạch số liệu trước khi nhập.
- Nhập số liệu bằng phần mềm EpiData.
- Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS.
2.7. Sai số và cách khống chế sai số.
24
- Trong nghiên cứu này một số sai số có thể gặp là :
+ Sai số do SV bỏ trống không điền.
+ Sai số do SV chưa hiểu rõ câu hỏi.
+ Sai số do quá trình nhập số liệu
- Cách khống chế sai số:
+ Hướng dẫn kỹ cách trả lời từng câu hỏi cho SV trước khi họ tự điền
vào bộ phiếu.
+ Kiểm tra bộ phiếu mà SV đã trả lời ngay sau khi họ hoàn thành xong
để đảm bảo các thông tin thu thập được đầy đủ và đúng mục tiêu nghiên cứu.
+ Giải thích kỹ những câu hỏi à SV chưa hiểu rõ trong quá trình điền phiếu.
+ Kiểm tra kỹ các file số liệu trước khi phân tích để phát hiện những lỗi
sai trong quá trình nhập và khắc phục sai sót đó.
2.8. Đạo đức trong nghiên cứu.
- Nghiên cứu được sự đồng ý của Ban Giám hiệu, phòng Quản lý và
Đào tạo Đại học, Viện đào tạo Y học dự phòng- YTCC, Bộ môn Y đức và Y
xã hội học trường Đại học Y Hà Nội.
- Trước khi tiến hành nghiên cứu, đối tượng được giải thích rõ nội
dung, mục đích, ý nghĩa của việc tham gia nghiên cứu.
- Nghiên cứu chỉ tiến hành với những SV đồng ý tham gia nghiên cứu
và đảm bảo giữ bí mật với các thông tin thu thập được.
- Kết quả nghiên cứu, các ý kiến đề xuất được sử dụng vào mục đích
nâng cao kỹ năng giao tiếp, góp phần nâng cao kết quả hoạt động thực tập
lâm sàng cho SV.
25