Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh trong xây dựng chính quyền nhà nước cấp cơ sở tỉnh thừa thiên huế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.5 KB, 102 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn
hoá kiệt xuất của thế giới, người sáng lập, rèn luyện Đảng ta và xây dựng Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tư
tưởng Hồ Chí Minh có ảnh hưởng sâu sắc đến cách mạng Việt Nam. Tên tuổi
và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người gắn liền với thời đại mới, thời đại
Hồ Chí Minh. Việt Nam - Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử thế giới hiện đại như
một bản anh hùng ca bất diệt. Tư tưởng của Người soi đường cho cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong suốt hơn 76 năm qua.
Ngày nay càng khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đuốc
soi sáng cho Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và nhân dân Việt Nam tiến
lên xây dựng một đất nước "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh". Từ thực tiễn của sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, trong điều kiện hoàn cảnh trong nước và thế giới có những thay đổi
và biến động phức tạp, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những khó
khăn để vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Khẳng định tư tưởng của Người,
Đại hội lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: Đảng ta lấy chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho
hành động. Sự khẳng định đó đã được tiếp tục ghi vào các văn kiện qua các
kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí
Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện được mục
tiêu ấy vấn đề xây dựng chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản nhất. Đó là
vấn đề xây dựng một nhà nước kiểu mới dân chủ nhân dân.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hồ có ý nghĩa vạch thời đại của dân tộc ta.


2


Cách mạng Tháng Tám đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta,
mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc. Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
Thành quả lớn nhất của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là Đảng và
Hồ Chí Minh đã xây dựng một Nhà nước cách mạng kiểu mới ở Việt Nam.
Đặc trưng nổi bật của Nhà nước cách mạng kiểu mới đó là Nhà nước dân chủ,
Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Về xây dựng chính quyền nhà nước của chúng ta đó là chính quyền nhà
nước của dân, do dân và vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nước
ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của
dân, chính quyền từ xã đến Trung ương đều do dân cử ra". Trong hệ thống
chính quyền nhà nước, chính quyền cơ sở có vị trí hết sức quan trọng. Người
nêu rõ: "cấp xã là gần dân nhất, là nền tảng hành chính. Cấp xã làm được thì
mọi cơng việc đều xong xi".
Thơng qua các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến
pháp sửa đổi một số điều năm 2001 đều thể hiện mục tiêu xây dựng một chế
độ nhà nước dân chủ với nguyên tắc nhất quán "Toàn bộ quyền lực của Nhà
nước đều thuộc về nhân dân".
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, việc tiếp tục xây dựng hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, Nhà nước của dân, do dân, vì dân hiện
nay vừa là cơ bản, vừa cấp bách, nhằm đáp ứng với yêu cầu xây dựng đất
nước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, đảm
bảo xây dựng thành công CNXH ở nước ta.
Với vị trí, vai trị và tầm quan trọng của chính quyền cơ sở và việc xây
dựng chính quyền cơ sở trong hệ thống chính quyền nhà nnước ở nước ta,
việc nghiên cứu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân,
vì dân và đặc biệt là xây dựng chính quyền ở cơ sở là yêu cầu cần thiết. Mặc
dù đã có nhiều tác giả nghiên cứu nhiều nội dung xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân, trên nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên, chưa



3
có một tác giả nào nghiên cứu về nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
trong việc xây dựng chính quyền cơ sở nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động của chính quyền cơ sở xã phường thị trấn trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên - Huế nên tôi chọn đề tài "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây
dựng chính quyền nhà nước cấp cơ sở tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện nay" để
làm luận văn thạc sĩ Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước và pháp luật là một vấn
đề có giá trị khoa học đã được rất nhiều giới lý luận nghiên cứu. Đã có rất
nhiều cuốn sách, bài nghiên cứu về chủ đề xây dựng nhà nước kiểu mới của
dân do dân vì dân, về xây dựng chính quyền cơ sở trong tổng thể hệ thống
chính trị ở cơ sở. Trong đó đáng chú ý là các tác phẩm: "Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật", Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1995; GS.TS Hồng
Văn Hảo: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới - Sự hình thành và
phát triển", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; TS. Nguyễn Đình Lộc:
"Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân", Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1998; TS, Nguyễn Xuân Tế: "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
Trong chương trình khoa học cấp Nhà nước và pháp luật KX.02 thời kỳ 19911995, có một đề tài KX.02-13: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân,
do dân và vì dân" do TS. Nguyễn Đình Lộc làm chủ nhiệm, Viện nghiên cứu
pháp lý (Bộ Tư pháp), GS.TS Hồng Chí Bảo: "Quan điểm và giải pháp để
cũng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở" Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002,...Các cơng trình nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước dân chủ kiểu mới ở nước ta, về xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở
là nguồn tài liệu chủ yếu để chúng tơi sử dụng vào q trình nghiên cứu.
Hồ Chí Minh đã kế thừa vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Đây là một nét hết
sức độc đáo trong tư tưởng xây dựng nhà nước kiểu mới vừa mang tính lý



4
luận vừa mang tính thực tiễn rất cao của tư tưởng Hồ Chí Minh. Cho đến nay
nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học đã đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước kiểu mới, nhằm vạch một chiến lược cơ bản xây dựng
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở nước ta. Gắn liền với việc
nghiên cứu về xây dựng nhà nước kiểu mới, nhiều lãnh tụ và các nhà khoa
học đã làm sáng tỏ chức năng, nhiệm vụ, vai trò, vị trí của Nhà nước của dân
do dân vì dân.
Việc xây dựng chính quyền cơ sở nói chung và ở tỉnh Thừa Thiên-Huế
nói riêng từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay tuy đã đạt được
nhiều kết quả, song còn nhiều vấn đề trong thực tiễn đang đặt ra cần phải tiếp
tục củng cố hoàn thiện cả về tổ chức bộ máy cũng như hoạt động, xây dựng
đội ngũ cán bộ công chức nhằm bảo đảm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước
trên địa bàn của tỉnh Thừa Thiên - Huế trong giai đoạn hiện nay. Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng chính quyền nhà nước ở cơ sở là vấn đề
có ý nghĩa quan trọng nhằm tăng cường củng cố tổ chức bộ máy nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước ở cấp cơ sở xã, phường trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên - Huế.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ tính dân chủ nhân dân trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân do dân vì dân, xây dựng
chính quyền ở cơ sở, luận văn vận dụng để đánh giá thực trạng và đề xuất một số
giải pháp xây dựng chính quyền ở cơ sở tỉnh Thừa Thiên - Huế bảo đảm vững
mạnh, dân chủ, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Làm rõ một số nội dung chủ yếu về xây dựng nhà nước pháp quyền

của dân, do dân, vì dân; về xây dựng chính quyền ở cơ sở trong tư tưởng Hồ
Chí Minh.


5
+ Đánh giá thực trạng của chính quyền cơ sở trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên - Huế trong thời gian qua, chỉ ra những bức xúc đặt ra hiện nay cần
giải quyết.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng chính quyền cơ sở vững
mạnh, dân chủ, hoạt động có hiệu quả trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước kiểu mới, xây dựng
chính quyền ở cơ sở là một vấn đề rộng lớn. Trong đề tài này tác giả không
tham vọng nghiên cứu toàn bộ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
Dưới góc độ của chính trị học, tác giả chỉ đề cập một số nét cơ bản trong tư
tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân,vì dân và xây dựng
chính quyền ở cơ sở, từ đó tác giả vận dụng vào việc xây dựng chính quyền
cơ sở ở tỉnh Thừa Thiên - Huế bảo đảm trong sạch, vững mạnh, dân chủ, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả.
Thời gian khảo sát từ 2000-2005.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Về cơ sở lý luận: Để giải quyết vấn đề về xây dựng chính quyền cơ sở
ở Thừa Thiên - Huế, tác giả đã nghiên cứu và vận dụng các luận điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu
mới. Cũng như việc nghiên cứu các quan điểm, đường lối về xây dựng nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc
biệt là các chủ trương cải cách nền hành chính nhà nước trong thời kỳ đổi mới
đó là Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 8
khoá VII, Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII, Nghị quyết Trung ương 3, Nghị
quyết Trung ương 7, khoá VIII, Nghị quyết Đại hội lần thứ IX, Nghị quyết

Trung ương 5 khoá IX và Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng.
- Phương pháp nghiên cứu: Tác giả vận dụng phương pháp biện chứng
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời vận dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội nói chung như là phương pháp lơgíc


6
học để giải quyết các vấn đề mang tính hệ thống. Ngồi ra tác giả cịn ứng
dụng và sử dụng các phương pháp như điều tra xã hội học, thống kê, so
sánh... để lý giải các vấn đề của luận văn đặt ra.
6. Đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn
- Đóng góp mới của luận văn:
+ Luận văn đã đưa ra được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh về xây dựng chính quyền cơ sở trong tổng thể xây dựng chính quyền
nhà nước của dân, do dân, vì dân ở nước ta.
+ Luận văn đưa ra được một số giải pháp nhằm xây dựng chính
quyền cơ sở vững mạnh, dân chủ, trọng sạch, hoạt động có hiệu quả trên
địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế.
- Ý nghĩa của luận văn:
+ Góp phần lý giải và làm sáng tỏ hơn việc vận dụng t tởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền cđa d©n, do dân, vì dân đối với việc
xõy dng nh nc núi chung v xây dựng chính quyền cơ sở núi riờng.
+ Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp những luận cứ
khoa học cho việc hoạch định, điều chỉnh một số chủ trơng, chính sách của
Đảng và Nhà nớc trong việc xây dựng Nhà nớc pháp quyền của dân, do dân, vỡ
dân nói chung và cơ sở nói riêng.
+ Luận văn còn cú th vận dụng làm t liệu nghiên cứu, tham khảo
trong việc giảng dạy bộ môn t tởng Hồ Chí Minh, môn Nhà nớc - Pháp luật,
Chớnh tr hc tại các trờng chính trị.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoi phn m u, kt lun v danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.


7
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM
1.1. NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY
DỰNG CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

1.1.1. Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân trên cơ sở vận
dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin với quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử đã chứng minh rằng nhà nước ra đời là do sự phát triển của lực lượng
sản xuất, là kết quả của sự phân chia giai cấp. Nhà nước là một hiện tượng
vận động của xã hội loài người. Nhà nước xuất hiện, phát triển và sẽ mất đi
khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng khơng
cịn nữa. Trong xã hội lồi người từng tồn tại 4 kiểu nhà nước, tương ứng với
4 hình thái kinh tế - xã hội. Đó là kiểu nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến,
nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Từ thực tế cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư
sản và nhà nước của nó, Các Mác đã rút ra kết luận rằng: Giai cấp vô sản
muốn hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì phải dùng bạo lực đập tan bộ
máy nhà nước ăn bám, bóc lột của giai cấp tư sản và thiết lập nhà nước của
giai cấp vơ sản. Sau khi xố bỏ nhà nước tư sản, giai cấp công nhân xây dựng
nhà nước mới, thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Lý luận của Mác về nhà nước vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIX khi chủ
nghĩa tư bản đã chiến thắng chế độ phong kiến trên phạm vi châu Âu và Bắc
Mỹ, khi giai cấp công nhân đã trưởng thành và lấy triết học Mác làm vũ khí

để tiến hành đấu tranh chống áp bức bóc lột của giai cấp tư sản và hệ thống
chính quyền nhà nước tư sản.
V.I. Lênin đã kế thừa và bổ sung những quan điểm của Mác-Ăngghen
trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc ở cuối thế


8
kỷ XIX. Từ thực tế lịch sử thế giới, Lênin cho rằng, cách mạng vơ sản có thể
nổ ra và giành thắng lợi ở những mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc.
Nhiệm vụ của giai cấp vô sản Nga là dùng bạo lực cách mạng, đập tan bộ máy
nhà nước áp bức bóc lột nhân dân của Nhà nước Nga Sa Hồng, giải phóng
nhân dân các dân tộc bị Nhà nước tư sản Nga thống trị, thành lập Nhà nước
Xơ viết.
Để chính quyền thuộc về nhân dân do giai cấp cơng nhân lãnh đạo
thì phải xây dựng một Đảng cách mạng chân chính có đủ khả năng đồn
kết, tập hợp mọi lực lượng cách mạng, lấy liên minh cơng nơng làm nịng
cốt. Đảng mác-xít phải vạch ra chiến lược, sách lược đấu tranh đúng đắn,
phải nhanh chóng xây dựng nhà nước kiểu mới. Hệ thống chính quyền nhà
nước mới có đủ khả năng trấn áp các phần tử chống đối lại cách mạng và tổ
chức xây dựng xã hội mới - xã hội do nhân dân làm chủ khơng cịn bóc lột,
áp bức, nơ dịch.
Nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, mang bản chất của giai cấp
công nhân, nhà nước pháp quyền do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản. Nhà nước kiểu mới xố bỏ ách áp bức bóc lột của giai cấp tư
sản thống trị, thiết lập chính quyền cách mạng về tay nhân dân, nên về bản
chất của nó khác hẳn với các nhà nước bóc lột thể hiện trên cả phương diện
bản chất giai cấp, tính dân chủ và vai trò sáng tạo xây dựng xã hội mới của
nhân dân lao động, trên cơ sở liên minh công nông và tầng lớp trí thức. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả đấu tranh cách mạng của nhân dân lao
động mà nịng cốt là giai cấp cơng nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng

sản. Tuy nhiên do đặc điểm và hoàn cảnh của mỗi nước khác nhau, nên trong
q trình đấu tranh giành chính quyền và xây dựng nhà nước kiểu mới, ở mỗi
nước nên chọn cho mình những phương pháp đấu tranh và xây dựng hình
thức nhà nước cho phù hợp. Đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào việc xây dựng nhà nước XHCN ở nước mình.


9
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam,
là người khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ. Trong q trình tìm
đường cứu nước, Người đã đi khắp châu Âu, châu Mỹ, châu Phi...để tìm hiểu
phong trào cách mạng thế giới, đồng thời khảo sát các kiểu nhà nước đương
thời. Người đặc biệt quan tâm nghiên cứu bản chất nhà nước tư sản Mỹ
(1776) Pháp (1789) và nhà nước Nga Xô Viết (1917). Hồ Chí Minh đã có
những nhận xét về nhà nước tư sản ở Mỹ, Người viết: “Trong lời tuyên ngơn
của Mỹ có câu rằng: “Giời sinh ra ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính
mệnh của mình, quyền làm ăn cho sung sướng... Hễ Chính phủ nào mà có hại
cho dân chúng, thì dân chúng phải đập đổ Chính phủ ấy đi, và gây lên Chính
phủ khác...” Nhưng bây giờ Chính phủ Mỹ lại khơng muốn cho ai nói đến
cách mệnh, ai đụng đến Chính phủ!
Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng cơng
nơng vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai.
Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là
chưa phải cách mệnh đến nơi” [40, tr.270].
Hồ Chí Minh đã nhìn thấy thực chất của những từ: tự do, bình đẳng,
bác ái, khai sáng, văn minh của giai cấp tư sản, nhất là giai cấp tư sản Pháp
trong cách mạng tư sản Pháp: “Tư bản nó dùng chữ tự do, bình đẳng để lừa
dân, xúi dân đánh đổ phong kiến rồi, thì nó thay phong kiến mà áp bức dân"
[40, tr.274].
Qua khảo sát nhà nước tư sản Mỹ, nhà nước tư sản Pháp, Hồ Chí Minh
đã rút ra kết luận: Bản chất của Nhà nước tư sản là bóc lột, nơ dịch nhân dân,

nó bắt nguồn từ một cuộc cách mạng không triệt để. Người viết: "Cách mạng
Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh khơng
đến nơi, tiếng là cộng hồ dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng,
ngồi thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay cơng nơng
Pháp hẳn cịn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hịng thốt khỏi vịng áp bức,
cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy" [40, tr.274].


1
0
Tiếp xúc với nhà nước Nga Xơ Viết, Hồ Chí Minh đã đánh giá sự vĩ đại
của Cách mạng Tháng Mười. Người khẳng định: “Giống như mặt trời chói
lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu,
hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử lồi người chưa
từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế” [50, tr.300].
Từ ý nghĩa vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 Hồ Chí Minh
đánh giá cao kiểu nhà nước Xơ Viết, đó là: "Trong thế giới bây giờ chỉ có
cách mạng Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng
được hưởng tự do, bình đẳng thật, khơng phải tự do và bình đẳng dối trá như
đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi
được vua, tư bản, địa chủ rồi lại ra sức cho công nông các nước và nhân dân
bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và
tư bản trong thế giới. Cách mệnh nước Nga dạy cho chúng ta rằng: Muốn
cách mệnh thành cơng thì phải lấy dân chúng cơng nơng làm gốc, phải có
đảng vững bền, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại phải theo chủ nghĩa
Mã khắc Tư và Lênin" [40, tr.280].
Từ việc đánh giá các kiểu nhà nước đương thời trên thế giới, Hồ Chí
Minh đã lựa chọn kiểu Nhà nước Xơ Viết, đó là Nhà nước Cơng, Nơng, Binh.
Tiếp thu mơ hình Nhà nước Xơ Viết, qua tác phẩm Đường cách mệnh(1927)
chúng ta thấy quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới,

Nhà nước XHCN, nhà nước của nhân dân lao động làm chủ. Người khẳng
định: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là
làm sao cách mệnh rồi thì phải quyển giao cho dân chúng số nhiều, chớ để
trong tay một bọn ít người” [40, tr.270].
Quan điểm về Nhà nước kiểu mới của Hồ Chí Minh được tiếp tục thể
hiện trong Chính cương vắn tắt của Đảng ta (tháng 2 năm 1930) là đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn
độc lập và dựng ra Chính phủ Cơng, Nơng, Binh. Đặc biệt, trong văn kiện Hội


1
1
nghị TW 8 (tháng 5 năm 1941) do Hồ Chí Minh chủ trì, đã khẳng định nhiệm
vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. Hội nghị khẳng
định: Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân
dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành cơng, lật đổ chính quyền thực
dân, phong kiến, thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, là chính
quyền dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đơng Nam Á. Nhiệm vụ của chính
quyền dân chủ nhân dân là chống thù trong, giặc ngoài, xây dựng và bảo vệ
Nhà nước dân chủ nhân dân non trẻ, bảo vệ độc lập dân tộc và đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Rõ ràng từ ý tưởng, luận điểm thành lập chính quyền cơng, nơng, binh
đến việc thành lập Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà là một tư duy sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Sự ra đời của hai văn kiện quan trọng đó là
Tun ngơn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và Hiến pháp 1946, thể hiện tư
tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước độc lập, tự chủ, dân chủ thực
sự của dân, do dân và vì dân.
Như vậy, từ tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước và cách mạng,

từ khảo sát các loại hình nhà nước trên thế giới. Hồ Chí Minh đã lựa chọn
kiểu Nhà nước Xơ Viết. Nhưng khi xây dựng Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam,
thì nhà nước dân chủ nhân dân khơng rập khn máy móc y ngun Nhà
nước Nga Xơ Viết, mà vẫn giữ bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
XHCN. Đây là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ
thể của cách mạng Việt Nam, đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
1.1.2. Xây dựng nhà nước do nhân dân làm chủ
1.1.2.1. Mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân
Xây dựng nhà nước của dân, quyền lực thuộc về nhân dân là điều cơ
bản để phân biệt sự khác nhau về bản chất của Nhà nước ta so với Nhà nước


1
2
tư sản ở châu Âu, châu Mỹ và Nhà nước thực dân phong kiến ở Việt Nam
trước năm 1945. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tháng 8 năm
1945 thắng lợi là cơ sở cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ ra đời. Đó
là nhà nước của dân, quyền bính thuộc về nhân dân.
Sau ngày Tuyên ngơn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ
lâm thời, khi nêu ra những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hồ, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đó là tư tưởng về xây dựng nhà nước
dân chủ, muốn thể hiện đầy đủ tính dân chủ nhân dân thì nhà nước phải tổ
chức ra một bộ máy thông qua bầu cử phổ thông đầu phiếu và phải có hiến
pháp và pháp luật để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Người khẳng định:
“Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực
dân không kém phần chun chế, nên nước ta khơng có hiến pháp... Chúng ta
phải có một hiến pháp dân chủ. Tơi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng
hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” [42, tr.8]. Tổng
tuyển cử là một biểu hiện về quyền dân chủ chính trị của nhân dân, đảm bảo
chế độ dân chủ, tự do. Chính sách bầu cử và ứng cử là vấn đề cốt tử để đảm

bảo tính hợp hiến trong xây dựng bộ máy nhà nước. Chính sách đó là tự do
hay hạn chế, bình đẳng hay phân biệt, giả hay thật, áp đặt hay tự do lựa chọn,
là những chuẩn mực để xem xét một bộ máy chính quyền có thực sự của dân
hay khơng. Hồ Chí Minh đã chỉ ra tính chất của nhiệm vụ ấy: “Tổng tuyển cử
là một dịp cho toàn thể quốc dân lựa chọn những người có tài có đức, để gánh
vác cơng việc nhà nước. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn
lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là cơng dân thì đều có quyền đi
bầu cử. Khơng chia gái trai, giàu nghèo, tơn giáo, nịi giống, giai cấp, đảng
phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó, cho nên
Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết. Do Tổng
tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội...” [42, tr.133]. Người còn nhấn mạnh:
“Chế độ tuyển cử của nước ta thực hiện dân chủ đồng thời thực hiện sự đoàn


1
3
kết toàn dân” [47, tr.591]. Với một Quốc hội được bầu ra bằng phổ thông đầu
phiếu đã bảo đảm cho đất nước một Hiến pháp dân chủ. Tổng tuyển cử là tự
do, bình đẳng, là dân chủ và đồn kết trong tổ chức bộ máy nhà nước, là một
bảo đảm cho Nhà nước ta thể hiện bản chất giai cấp lại vừa đại diện cho
quyền lợi của toàn dân tộc. Đó là tư tưởng của Hồ Chí Minh trong xây dựng
nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Với tư tưởng chỉ đạo, bằng việc động viên nhân dân vào sinh hoạt
chính trị trọng đại nhất của đất nước, Hồ Chí Minh đã tổ chức thành cơng
cuộc Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội khố I nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước, đại biểu cho ý chí của tồn dân
và Quốc hội cử ra Chính phủ chính thức. Hồ Chí Minh khẳng định: "Chính
phủ đó thật là chính phủ của tồn dân", điều đó khẳng định sự ra đời của chế
độ xã hội mới dựa trên nền tảng dân chủ. Thơng qua nhà nước do mình cử ra,
quyền lực của nhân dân trở thành quyền lực mang tính nhà nước với chủ thể

là nhân dân. Do vậy, quyền lực nhà nước có cội nguồn từ nhân dân, xuất phát
từ nhân dân, nhân dân tạo lập nên bộ máy nhà nước và uỷ quyền cho nhà
nước thay mặt mình thực hiện quyền lực ấy. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Chính phủ này tỏ rõ cái tinh thần quốc dân liên hiệp, là một chính phủ chú
trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh thủ quyền độc lập và thống nhất
lãnh thổ cùng xây dựng một nước Việt Nam mới. Chính phủ này là Chính phủ
tồn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc tham gia” [42, tr.430].
Như vậy thực hiện dân chủ trong chính trị đã hình thành một thiết chế
nhà nước dân chủ nhân dân, để thực hiện và bảo vệ quyền làm chủ của nhân
dân. Nhà nước của dân là sản phẩm của cuộc tổng tuyển cử, nhân dân bầu ra
nhà nước, nhưng nhân dân có trách nhiệm xây dựng nhà nước bằng cách tham
gia xây dựng chính quyền nhà nước từ cơ sở đến Trung ương. Hồ Chí Minh
nêu rõ quan điểm: Tất cả quyền bính trong cả nước là của tồn dân. Việc
nước là việc chung. Mỗi con rồng cháu tiên, bất kỳ già trẻ trai gái, giàu


1
4
nghèo, nịi giống, tơn giáo...đều phải ghé vai gánh vác một phần. Nhân dân
trực tiếp tham gia xây dựng và quản lý nhà nước. Về quan điểm phục vụ nhân
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập một cách biện chứng giữa nhà nước với
nhân dân, đó là: “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, Chính phủ chỉ có
mục đích là phụng sự cho lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào
giúp đỡ, đơn đốc, kiểm sốt và phê bình để làm trịn nhiệm vụ của mình là
người đầy tớ trung thành tận tuỵ của dân” [42, tr.76].
Hồ Chí Minh có quan điểm rất rõ ràng về việc thiết lập quyền lực của
nhân dân trong việc xây dựng nhà nước. Dân có quyền kiểm tra, giám sát
cũng như việc xem xét chất lượng hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà
nước, của đội ngũ cán bộ công chức trong việc thực thi nhiệm vụ do nhân dân
uỷ quyền và nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu ấy khi xét thấy không

đủ tiêu chuẩn, khơng hồn thành nhiệm vụ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân ở đây
cũng là sự kế thừa tư tưởng yêu dân, thân dân, tôn trọng dân trong việc vận
dụng truyền thống thân dân về dựng nước và giữ nước của cha ông xưa, “Lật
thuyền là dân, chở thuyền cũng là dân”, “Lật thuyền mới biết sức dân như
nước”. Cho nên Chính phủ và công chức nhà nước phải ý thức được rằng
phục vụ vì lợi ích nhân dân, lợi ích nhà nước là mục tiêu cao cả và trên hết.
1.1.2.2. Một nhà nước vì dân
Khác với các kiểu nhà nước trước đây như: Nhà nước phong kiến, Nhà
nước tư sản, Nhà nước thuộc địa nửa phong kiến, đó là nhà nước kiểu mới ở
Việt Nam do nhân dân bầu ra nên mọi quyền hành đều thuộc về nhân dân.
Sau cuộc tổng tuyển cử bầu ra quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, hệ
thống chính quyền từ Trung ương đến cơ sở cũng được thành lập để điều hành
và quản lý nhà nước, quản lý xã hội xã hội theo sự uỷ quyền của nhân dân.
Hồ Chí Minh nêu lên một loạt những luận điểm về xây dựng một nhà
nước dân chủ. Đó là các quan điểm về tính chất, về mục tiêu, về nội dung và


1
5
nhiệm vụ của nhà nước vì dân. Người viết: “ Nước ta là nước dân chủ, bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...” [43, tr.698].
Chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do dân làm chủ, vì Chính
quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra, nhiệm vụ của chính
quyền dân chủ là phục vụ nhân dân, tổ chức giáo dục động viên nhân dân xây
dựng và kiến thiết nước nhà.
Với quan điểm phục vụ nhân dân đã được Hồ chí Minh khẳng định qua
thư gửi cho UBND các cấp: “ Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính
phủ từ tồn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh
việc chung của dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới

quyền thống trị của Pháp, Nhật” [42, tr.56]. Đó là tư duy về xây dựng bộ máy
nhà nước phục vụ nhân dân vơ điều kiện, đặc lợi ích của nhân dân lên trên
hết, trước hết, đó là sự sống cịn của chế độ mới.
Về tính chất của nhà nước kiểu mới đó là chính quyền đại diện cho
nhân dân, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên nước ngồi, Hồ Chí Minh đã
thể hiện rõ quan điểm về chức vụ của mình: “Tơi tuyệt nhiên khơng ham
muốn cơng danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch, là vì
đồng bào uỷ thác thì tơi gắng sức làm, cũng như một người lính, vâng mệnh
lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tơi lui, thì tơi rất
vui lịng lui. Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [42, tr.161].
Hồ Chí Minh đã khẳng định thái độ của nhân dân đối với chính phủ và
trách nhiệm của chính phủ phải phục vụ nhân dân, đó là: “Dân là chủ thì
Chính phủ phải là đầy tớ” và Người cịn nhấn mạnh “Nếu Chính phủ làm hại
dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Nhưng khi dân dùng đầy tớ làm việc
cho mình, thì phải giúp đỡ Chính phủ” [43, tr.60]. Đó chính là mối quan hệ
biện chứng giữa nhà nước với nhân dân.


1
6
Đồng thời Hồ Chí Minh ln căn dặn cán bộ cơng chức phải tin ở dân
vì khả năng của dân là to lớn. Cán bộ phải tin vào dân chúng, đưa mọi vấn đề
cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết, việc gì cũng phải lấy ý kiến
dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc. Người chỉ rõ: “Có lực lượng dân chúng
việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Khơng có, thì việc gì làm cũng
khơng xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau
chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn nghĩ mãi khơng
ra” [43, tr.295]. Sức mạnh của nhân dân là rất to lớn, nếu chính phủ biết động

viên khai thác thì nhân dân sẵn sàng hăng hái tham gia các công việc xây
dựng kiến quốc.
Khơng những xác định vị trí nhân dân là chủ đối với nhà nước, Hồ Chí
Minh cịn giải thích rất cụ thể mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân. Người
khẳng định “Chính phủ Cộng hồ Dân chủ là gì? Là đày tớ chung của dân, từ
Chủ tịch tồn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đầy tớ. Làm
việc ngày nay không phải là để thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại
dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ” [43, tr.60]. Với quan điểm hết sức rõ
ràng về thái độ ý thức trách nhiệm trước dân, những cơng việc của chính phủ
phải làm chỉ vì nhân dân, ngồi ra khơng có mục đích nào khác.
Hồ Chí Minh ln ln khẳng định rằng chính quyền vì dân đó là chính
quyền phải “phụng sự nhân dân”, nghĩa là chính quyền và đồn thể phải chịu
trách nhiệm trước dân, việc gì lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì hại đến
dân phải hết sức tránh. Nhà nước ta do dân bầu ra, nên mọi hoạt động của nhà
nước đều vì lợi ích, nguyện vọng của nhân dân. Hồ Chí Minh ln ln giáo
dục cán bộ cơng chức nhà nước và đồn thể là phải hết lịng hết sức phục vụ
lợi ích đất nước, lợi ích nhân dân, vì trong xã hội khơng có gì tốt đẹp vẻ vang
bằng phục vụ lợi ích của nhân dân.
Về lợi ích của nhân dân, Hồ Chí Minh phân tích hết sức sâu sắc về
những vấn đề nhà nước cần quan tâm đến nhân dân, Người nhấn mạnh


1
7
“...nhân dân cần trơng thấy lợi ích thiết thực, lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích
riêng và lợi ích chung, lợi ích bộ phận và lợi ích toàn cục. Đối với nhân dân
khơng thể lý luận sng, chính trị sng" [44, tr.292]. Theo Hồ Chí Minh,
nhân dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân ăn no, mặc đủ,
nhân dân được hưởng mọi quyền công dân và quyền con người.
Nhà nước kiểu mới phấn đấu vì dân chủ, vì hạnh phúc của nhân dân.

Trong thư gửi UBND các cấp, Hồ Chí Minh đã nêu rõ quan điểm: “Nếu nước
độc lập mà dân khơng được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập chẳng có
nghĩa lý gì” [42, tr.56]. Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, cơng chức nhà nước
các cấp phải có tinh thần, thái dộ đúng đắn trong việc phục vụ nhân dân. Các
cơ quan của Chính phủ từ tồn quốc đến các làng đều là công bộc của dân,
nghĩa là để gánh vác công việc chung của dân. Người cũng yêu cầu cán bộ,
công chức nhà nước phải yêu dân, kính dân, thì dân mới u ta, kính ta.
Chính quyền dân chủ trước hết theo Hồ Chí Minh là phải có một đội
ngũ cán bộ cơng chức hết lịng hết sức phục vụ nhân dân, thật sự trong sạch,
thật sự gương mẫu, xây dựng được một bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hiểu dân,
sát dân, hoạt động có hiệu quả. Người chỉ rõ: “Từ Chủ tịch nước đến giao
thông viên cũng vậy, nếu khơng làm được việc cho dân thì dân không cần đến
nữa" [44, tr.365]. Trong việc xây dựng nhà nước kiểu mới Người rất quan tâm
đến xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực cơng tác để hồn
thành cơng việc nhà nước. Người đề cập đến đạo đức cách mạng của cán bộ,
công chức, theo Người đó là: Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư, phải có
quan điểm quần chúng, phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân chứ
không phải là cái gì cao xa, đó là những điều rất bình thường, rất cụ thể,
nhưng thực hiện không phải dễ dàng nếu khơng có ý chí rèn luyện, khơng bền
gan phấn đấu. Đồng thời, Người hết sức nghiêm khắc phê phán thái độ của
một số cán bộ chính quyền nhà nước khi phụ trách một vùng nào đó thì như
một ơng vua con, "ông tướng, bà tướng" đã gây ra bao ác cảm, bao chia rẽ


1
8
làm cho cấp trên xa cấp dưới, đoàn thể xa nhân dân đó chính là biểu hiện
quan liêu, hách dịch, cửa quyền của một bộ phận mà Hồ Chí Minh đã chỉ rõ.
Với tầm nhìn xa trơng rộng của một lãnh tụ thiên tài, khi xây dựng nhà
nước kiểu mới, Hồ Chí Minh nhắc nhở đội ngũ cán bộ các cấp phải tránh tệ

quan liêu, cửa quyền, ức hiếp nhân dân, trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng,
chia rẽ, kiêu ngạo. Vì đây là những bệnh làm tha hố bộ máy nhà nước, xa
dân, chia rẽ mọi quan hệ mật thiết giữa nhà nước với nhân dân. Nhà nước vì
dân, hình thành trên cơ sở đại đồn kết dân tộc, song muốn xây dựng nhà
nước trong sạch, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ nhà nước phải chấp hành luật
pháp một cách nghiêm nghiêm. Với thái độ kiên quyết và khoan dung, Người
yêu cầu: “Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu
khơng tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ khơng khoan dung”. Vì hạnh phúc của
dân tộc, vì lợi ích của nhà nước, chúng ta phải ghi sâu những chữ: “Cơng
bình, chính trực" vào lòng [42, tr.58].
Tinh thần trách nhiệm của nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước đối
với nhân dân được Hồ Chí Minh đề cập một cách sâu sắc về các chính sách
của Đảng và nhà nước quan tâm chăm lo đến nhân dân: “Chính sách của
Đảng và chính phủ là phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân. Nếu
dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi;
nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ
có lỗi” [22, tr.572].
Nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước, trong quá trình hoạt động của
các cơ quan nhà nước, nhân dân có quyền kiểm tra, kiểm sốt nhà nước, giúp
đỡ nhà nước, tạo điều kiện cho nhà nước, công chức nhà nước thực hiện
nhiệm vụ của mình. Đây khơng chỉ là vai trò, trách nhiệm mà còn là một
quyền lợi của nhân dân đối với nhà nước.
Nước ta là nước dân chủ có nghĩa dân là chủ và dân làm chủ. Nhân
dân có quyền làm chủ thì đồng thời cũng phải có nghĩa vụ làm trịn trách


1
9
nhiệm của công dân, tuân thủ pháp luật. Với tư cách người làm chủ, theo
Hồ Chí Minh nhân dân phải chăm lo việc nước như việc nhà. Người công

nhân phải u q máy móc như u q con của mình, người nơng dân
phải u q trâu bị của hợp tác xã như bản thân mình. Phải biết giữ gìn
của cơng, phải chăm lo việc tập thể như chăm lo việc gia đình. Đã là người
chủ thì phải biết tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ và
việc nước là việc chung, mỗi một người, bất kỳ già trẻ trai gái giàu nghèo
đều phải gánh một phần. Với tư tưởng dân làm chủ đã động viên mọi tầng
lớp nhân dân tự ý thức được thái độ, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình để
tham gia phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh chính trị, xây dựng kiến
thiết đất nước.
Như vậy nhà nước của dân, do dân, vì dân địi hỏi phải thể hiện đầy đủ
vai trị, trách nhiệm của mình trước nhân dân. Coi việc phục vụ nhân dân là
nhiệm vụ vẻ vang, là niềm hạnh phúc to lớn, đặt lợi ích của nhân dân lên trên
hết, các cơ quan nhà nước và cơng chức nhà nước trong q trình thực thi
cơng vụ phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về hành vi và thái độ của mình,
quan hệ mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu dân, học
hỏi dân, nói lên tiếng nói của nhân dân, khơng sách nhiễu, hách dịch nhân
dân... Đó là những tiêu chí quan trọng mà Hồ Chí Minh đã đặt ra để các cơ
quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước phấn đấu nhằm xây dựng một nhà
nước thật sự dân chủ. Những yêu cầu trên bắt nguồn từ triết lý: Quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, nhân dân làm chủ quyền lực nhà nước. Vì vậy nhà
nước là người được nhân dân uỷ quyền thay mặt mình thực thi quyền lực, là
"đầy tớ" của dân, công bộc của dân.
1.1.2.3. Nhà nước mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân
Vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh
khẳng định bản chất giai cấp của nhà nước nói chung. Theo Người, tính chất
của nhà nước được thể hiện qua nội dung giai cấp của nhà nước đó, ai là


2
0

người bị trị, ai là kẻ thống trị, nhà nước đó đem lại lợi ích cho ai thì mang bản
chất của giai cấp đó. Nghĩa là, nhà nước bao giờ cũng gắn với một giai cấp
nhất định, khơng có nhà nước phi giai cấp, nhà nước siêu giai cấp.
Việc xác định bản chất giai cấp của nhà nước là một vấn đề đặc biệt
quan trọng vì nó quyết định tồn bộ nội dung của hiến pháp, pháp luật và
quyết định những thuộc tính căn bản khác của nhà nước. Để xác định đúng
đắn bản chất giai cấp của nhà nước, Hồ Chí Minh yêu cầu phải trả lời được
vấn đề “trong nhà nước ấy, giai cấp nào thống trị, giai cấp nào bị thống trị.
Nhà nước ấy bảo vệ lợi ích cho giai cấp nào, đàn áp giai cấp nào” [45, tr.217].
Dựa vào thực tế để trả lời câu hỏi đó, Người đã nhận xét ở nước ta trước kia
vẫn có nhà nước, nhưng đó là cơng cụ của đế quốc và phong kiến để đàn áp
nhân dân, bóc lột nhân dân, nhà nước đó khơng có tính nhân dân và tính dân
tộc thật sự mà chỉ có khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành cơng thì nhà
nước của ta mới là: Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh
công, nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Vai trị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân đối với nhà nước quyết định
bản chất giai cấp của nhà nước trên ba mặt. Một là, nó quy định mục đích
hoạt động của nhà nước đem lại lợi ích cho nhân dân, giải phóng quần chúng
lao động; hai là, chế định chức năng của nhà nước: Thực hành chuyên chính
với kẻ thù của nhân dân, thực hành dân chủ với đại bộ phận nhân dân, tổ chức
xây dựng chế độ xã hội mới; ba là, quyết định cơ chế tổ chức, hoạt động của
nhà nước: Đó là cơ chế dân chủ, bảo dảm trên thực tế, với tư cách là chủ và
làm chủ của nhân dân lao động. Vai trị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân đối
với nhà nước gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của Nhà nước Việt
Nam, là nội dung chủ đạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới.
Bản chất giai cấp của Nhà nước ta được thể hiện ở nguyên tắc tổ chức
cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhà
nước ta phát huy dân chủ đến cao độ... Có phát huy dân chủ đến cao độ thì




×