Tải bản đầy đủ (.docx) (128 trang)

Hoàn thiện pháp luật về hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.82 KB, 128 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi thành lập tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng. Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn chú
trọng việc tổ chức, lãnh đạo và phát triển các tổ chức hội. Trong sự nghiệp đổi
mới, Đảng ta khẳng định:
trong giai đoạn mới cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng
về nghề nghiệp và đời sông của nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi
nhà, tương thân, tương ái. Các tổ chức hội quần chúng được thành lập theo
nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính trong khn khổ
pháp luật (1)
Hiện nay, các tổ chức hội đã phát triển nhanh với số lượng lớn và
được tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng: hội, tổng hội, liên hiệp hội, hiệp
hội... Hoạt động của hội ngày càng phong phú và có hiệu quả trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội như: xố đói giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên, môi
trường, nâng cao dân trí, tham gia vào việc xã hội hố các hoạt động y tế, văn
hoá, giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, thể dục thể thao, từ thiện
nhân đạo. Nhiều hội đã và đang tham gia cung cấp dịch vụ công do Nhà nước
chuyển giao, tham gia tư vấn, phản biện các đề án, chính sách, góp phần nâng
cao vai trị quản lý và hồn thiện về thể chế, chính sách của Nhà nước.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách pháp luật và áp dụng pháp luật
về Hội trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, bất cập, chưa phù
hợp với tình hình phát triển của các tổ chức hội. Một số hội hoạt động còn
mang tính hình thức, nặng tư tưởng bao cấp, ỷ lại và hành chính hố, chưa
phản ánh được nguyện vọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên.
Hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về hội còn hạn chế do các
biện pháp, chế tài chưa đủ mạnh, nhiều lĩnh vực quản lý, nhất là những lĩnh
vực có yếu tố nước ngồi cịn chưa được quy định. Nhiều vấn đề lý luận về tổ
chức hội trong điều kiện đặc thù ở nước ta trong mối quan hệ với vị trí, vai trị




2
của hội trong xu thế tồn cầu hố và bối cảnh hội nhập quốc tế chưa được làm
sáng tỏ.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, mở rộng dân
chủ và tăng cường xã hội hoá trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện
nay cũng chính là địi hỏi cần hồn thiện pháp luật về hội nhằm tạo hành lang
pháp lý giúp các tổ chức hội có điều kiện phát triển thuận lợi, đồng thời nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Để khắc phục những bất cập, hạn chế của văn bản pháp luật hiện hành
về hội, đồng thời thể chế hoá đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà
nước, đáp ứng yêu cầu phát triển hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế thì việc
hồn thiện pháp luật vê hội là một yêu cầu khách quan và cấp thiết.
Chính vì thế, tơi chọn vấn đề “Hồn thiện pháp luật về hội trong bối
cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay"làm đề tài luận văn thạc sỹ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm qua, ở Việt Nam đã có một số cơng trình nghiên cứu liên
quan đến pháp luật về hội nói chung, tổ chức và hoạt động của hội nói riêng,
như: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ về “Thực trạng và giải pháp quán lý
nhà nước với các tổ chức phi chính phủ " do Vụ các tổ chức phi chính phủ Ban tổ chức cán.bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) chủ trì thực hiện năm 2000;
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ về “Nghiên cứu hồn thiện cơng tác quản
lý nhà nước của Bộ Nội vụ đối với hội và tổ chức phi chính phủ trong thời kỳ
đổi mới” do Vụ Tổ chức phi chính phủ - Bộ Nội vụ thực hiện, hoàn thành
tháng 10/2004; Báo cáo tổng hợp của dự án “Điều tra thực trạng về hội và tổ
chức phi chính phủ ở nước ta hiện nay” do Viện Nghiên cứu khoa học Nhà
nước thuộc Bộ Nội vụ chủ trì thực hiện, hồn thành tháng 3/2006; Báo cáo
“Đánh giá ban đầu về xã hội dân sự tại Việt Nam” do dự án CIVICUS CSISAT (công cụ đánh giá nhanh chỉ số xã hội dân sự) thực hiện, hoàn thành

tháng 01/2006; Tài liệu hướng dẫn về Luật liên quan đến các tổ chức dân sự
của Viện Xã hội mở, NewYork, do Hội trợ giúp người tàn tật Việt Nam dịch;


3
Tuyển tập “Ý kiến đóng góp về quyền lập hội” do Liên hiệp các hội khoa học
kỹ thuật Việt Nam xuất bản tháng 5/2006.
Tác giả Thang Văn Phúc (chủ biên), Nguyễn Xuân Hải, Nguyễn Ngọc
Lâm, Nguyễn Quốc Tuấn đã xuất bản cuốn sách “Vai trò của các hội trong
đổi mới và phát triển đất nước" (Nhà xuất bản Chinh trị quốc gia, Hà Nội ,
năm 2002), trong đó tập trung phân tích các vấn đề: nhận thức chung về hội
và đặc điểm của hội ở Việt Nam, các hội ở Việt Nam trong đôi mới và phát
triển đất nước, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước
với các hội quân chúng.
Thạc sỹ Nguyễn thị Hồng, giảng viên Trường chính trị tỉnh Phú Thọ
có luận án tốt nghiệp khố 9 Học viện Chính trị QG HCM về “Cơ sở lý luận
xây dưng pháp luật về tổ chức và hoạt động cua hội Ở miệt Nam hiện nay”.
Tác giả đã phân tích khái niệm, đặc điểm của hội; vị trí, vai trị của hội trong
đời sống xã hội và phát triển đất nước; thực trạng pháp luật về tô chức và hoạt
động của hội Ở Việt Nam hiện nay để từ đó kiến nghị một số giải pháp cơ bản
xây dựng pháp luật về tổ chức và hoạt động của hội ở Việt Nam hiện nay.
Bện cạnh đó, cịn có Kỷ yếu hội thảo "Khung pháp lý tổ chức, hoạt
động và quản lý tổ chức phi chính phủ Việt nam trong tình hình hiện nay” do
Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ và Viện KAS tổ chức tháng 12-2000; Tài liệu
tập huấn về “Tổ chức, quản lý hội và tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam” do
Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ tổ chức tháng 11-2000 tập hợp các bài viết
của các chuyên gia của Bộ Công an và Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ; Kỷ
yếu hội thảo “Trao đổi kinh nghiệm xây dựng pháp luật về các tổ chức xã
hội” do Ban Công tác lập pháp của Quốc hội tổ chức tháng 8/2004 tại Hạ
Long; Kỷ yếu hội thảo “Pháp luật về hội” của Nhà pháp luật Việt - Pháp tổ

chức tháng 11/2004; . Các bài viết và tham luận tại các cuộc hội thảo phân
tích Ở nhiều khía cạnh khác nhau song đều có điểm thống nhất chung là sớm
ban hành Luật về hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên nghiên cứu tổ chức và hoạt động
của hội và kiến nghị nhiều giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả của cơng tác
quản lý nhà nước về hội dưới nhiều góc độ, trong đó có một giải pháp quan


4
trọng là xây dựng Luật về hội. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu này chưa
tập trung nghiên cứu sâu vào vấn đề hoàn thiện pháp luật về hội gắn với
những so sánh với pháp luật quốc tế với vai trị là một nội dung nghiên cứu
chính. Vì vậy, đề tài luận văn thạc sỹ luật học "Hoàn thiện pháp luật về hội
trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay"sẽ góp phần giải quyết
được vấn đề nêu trên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các chủ trương, chính sách và
văn bản quy phạm pháp luật về hội.
- Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tốt nghiệp cao học, luận văn tập
trung nghiên cứu sâu về những vấn đề lý luận cơ bản của việc hoàn thiện
pháp luật về hội nhằm điều chỉnh, định hướng tổ chức và hoạt động của hội
trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thời gian
nghiên cứu từ thời kỳ sau cách mạng tháng 8 đến nay và kinh nghiệm xây
dựng pháp luật về tổ chức xã hội của một số tổ chức quốc tế (Ngân hàng thế
giới, Trung tâm quốc tế về luật phi lợi nhuận) và một số nước trên thế giới
(Pháp, Đức, Trung Quốc...)
4. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
Mục đích của Luận văn là tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về hội đáp ứng việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế, đồng thời phù
hợp với đặc thù chính trị-xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Để thực hiện mục đích trên, Luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm của hội, phân tích tính đặc thù, vị trí,
vai trị của hội ở nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
- Phân tích thực trạng pháp luật về hội ở nước ta từ giai đoạn sau cách
mạng tháng 8 đến nay, tập trung vào thời kỳ đổi mới.
- Đề xuất, luận chứng các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật
về hội đáp ửng yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế và phù hợp với đặc thù
chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay.


5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về
Nhà nước và pháp luật; tư tưởng Hồ Chí Minh; những quan điểm, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta về phát triển hội; những học thuyết, tinh hoa tư
tưởng của nhân loại về tổ chức và hoạt động của hội. Luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp của triệt học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp phân tích và
tổng hợp, phương pháp của luật học so sánh; phương pháp của lý thuyết hệ
thống.
6. Nhũng điểm mới của Luận văn
Luận văn phân tích có hệ thống về q trình phát triển của pháp luật
về hội ở nước ta; đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu pháp luật về hội trong mối
quan hệ so sánh với pháp luật về các tổ chức xã hội của một số nước trên thế
giới và tổ chức quốc tế để đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hội
theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước ta, góp phần thúc đẩy sự phát
triển của các tổ chức hội trên cơ sở phù hợp với đặc thù về chính trị - xã hội
của nước ta và pháp luật quốc tế.
7. Ý nghĩa của Luận văn:
Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về khái niệm, đặc điểm của hội ở

Việt Nam hiện nay; bổ sung những quan điểm, định hướng trong tổ chức và
hoạt động cũng như quản lý nhà nước về hội, nhất là trong điều kiện có nhiều
ý kiến, quan điểm khơng thống nhất về vấn đề này.
- Góp phần hồn thiện pháp luật về hội trong bối cảnh mở rộng dân
chủ XHCN, tăng cường xã hội hoá và chủ động hội nhập quốc tế.
8. Kết cấu của Luận văn:
Luận văn ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu
tham khảo, phần nội dung gồm 3 chương, 10 tiết.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HỘI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC
TẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Mặc dù Sắc lệnh số 52/SL ngày 22-4-1946 của Chủ tịch Chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hồ và Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30-7-2003
của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội (sau đây gọi là
Nghị định 88) đã đưa ra khái niệm về hội, song để đáp ứng nhận thức, tư duy
mới về “hội” trong bối cảnh hội nhập quốc tế, mở rộng dân chủ xã hội cũng
như đáp ứng yêu cầu của cơng tác quản lý Nhà nước trong tình hình mới, thì
cần một cách tiếp cận tồn diện hơn, đầy đủ hơn về khái niệm “hội”.
Đi tìm một khái niệm mới về “hội”, trong thời gian qua, cùng với việc
xây dựng dự thảo Luật về hội, các học giả, các chuyên gia pháp luật và cán bộ
làm công tác hội đã tranh luận sôi nổi ở nhiều diễn đàn, đưa ra nhiều quan
điểm trái chiều với những cách thức tiếp cận đa diện. Cho đến nay, ở Việt
Nam, xét ở khía cạnh học thuật và pháp lý, chưa có khái niệm “Hội” theo một
cách nhìn tồn diện, thống nhất. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu và các nhà

quản lý đều đồng tình rằng, hội là một trong những thành tố của Xã hội dân sự.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu khái niệm về hội cũng như các vấn đề
liên quan đế hội cần phải đặt trong tổng thể của một tập hợp các chủ thể xã
hội, phi nhà nước dưới khái niệm chung là Xã hội dân sự; đồng thời cần xem
xét quan hệ của “hội” với tư cách là một thành tố trong xã hội dân sự với các
thành tố khác.
1.1. XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ - QUAN
NIỆM CỦA THẾ GIỚI VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm xã hội dân sự và mối quan hệ với nhà nước,
thị trường trong cấu trúc xã hội
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của xã hội dân
sự


7
Theo ngơn ngữ tiếng Việt, có 2 cụm từ được sử dụng cho Xã hội dân
sự, đó là: xã hội công dân và xã hội dân sự. Tuy nhiên, tương tự như các nước
khác, hiện nay, ở Việt Nam, khuynh hướng sử dụng cụm từ Xã hội dân sự phổ
biến hơn do được dịch đúng theo nghĩa đen cụm từ tiếng Anh Civil Society.
Về khái niệm xã hội dân sự, Viện Khoa học chính trị - Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh định nghĩa:
Xã hội cơng dân là hệ thống các tổ chức của công dân, các cộng đồng
công dân và các quan hệ giữa chúng, nhằm hiện thực hoá các cá nhân và nhân
cách, nối các cá nhân với hệ thống xã hội, củng cố và bảo vệ lợi ích cộng
đồng. Đồng thời thơng qua các cộng đồng, xã hội công dân phối hợp hoạt
động với nhà nước, bảo đảm cho quan hệ giữa nhà nước và xã hội cân bằng,
ổn định, tạo các điều kiện tối ưu cho phát triển bền vững và tiến bộ xã hội.(2)
Cũng theo giáo trình này, “các thể chế xã hội công dân độc lập tương
đối, không phụ thuộc, không phải là các tổ chức nhà nước, cũng không phải là

các tổ chức (cơ sở) sản xuất kinh doanh”(2)
Trung tâm xã hội dân sự của Trường kinh tế Luân Đôn đưa ra định
nghĩa:
Xã hội dân sự được hiểu là khu vực của hoạt động tập thể, tự nguyện
nhằm chia sẻ những mối quan tâm, mục đích và giá trị chung. Về lý thuyết,
hình thức tổ chức của xã hội dân sự là sự khác biệt với nhà nước, gia đình và
thị trường; trong khi trên thực tiễn, ranh giới giữa nhà nước, xã hội dân sự, gia
đình và thị trường thường là rất phức tạp và mờ nhạt. Xã hội dân sự nhìn
chung bao gồm sự đa dạng về khơng gian, nhân sự và dạng thức tổ chức;
đồng thời, tồn tại sự linh hoạt trong những thoả thuận về hình thức, vấn đề tự
quản và quyền hạn. Xã hội dân sự thường được biết tới thông qua các tổ chức,
như các tổ chức từ thiện có đăng ký, các tổ chức phi chính phủ phát triển, các
nhóm cộng đồng, các tổ chức phụ nữ, các tổ chức tín ngưỡng, các hội nghề
nghiệp, các tổ chức cơng đồn, các nhóm tự giúp đỡ, các phong trào xã hội,
các hiệp hội kinh tế, các nhóm tư vấn và liên hiệp.(3)
Ngân hàng thế giới dùng thuật ngữ Xã hội dân sự như sau:


8
Xã hội dân chủ để chỉ lực lượng đông đảo các tổ chức phi lợi nhuận
và phi chính phủ đang hiện diện trong đời sống công chúng, biểu hiện những
lợi ích và giá trị của các thành viên của tổ chức mình hoặc các lợi ích khác,
dựa trên sự quan tâm về dân tộc, văn hố, chính trị, khoa học, tôn giáo hoặc từ
thiện. Các tổ chức xã hội dân sự, do đó, được hiểu là bao gồm các nhóm cộng
đồng, các tổ chức phi chính phủ, các liên đồn lao động, các nhóm bản địa, tổ
chức từ thiện, các tổ chức tín ngưỡng, các hiệp hội nghề nghiệp và các quỹ. (4)
Tổ chức phi chính phủ quốc tế CIVICUS (Liên minh Thế giới về sự
Tham gia của người dân) định nghĩa xã hội dân sự là “môi trường bên ngồi
Gia đình, Nhà nước và Thị trường, là nơi quần chúng liên hiệp với nhau để
phát triển những quyền lợi chung”(5)

Tuy nhiên, xét về mục đích của các chủ thể tham gia các hoạt động
trong xã hội dân sự, TS Hồng Ngọc Giao cho rằng:
Trong phạm vi khơng gian này, khơng chỉ có các chủ thể dân sự thuần
t là những liên kết chính thức, khơng chính thức của những cá nhân, tổ
chức xã hội với những mục đích tương thân, tương ái, hoặc chia sẻ sở thích,
hoặc đáp ứng các mối quan tâm đời thường, dân sự. Trong không gian quan
hệ này, cịn có thể có những sự liên kết của những cá nhân có cùng tín
ngưỡng, hoặc có cùng niềm tin và/hoặc mối quan tâm tới quyền lực Nhà
nước. Nói cách khác, Xã hội dân sự, hiểu theo nghĩa rộng, sẽ bao hàm cả
những tổ chức dân sự ‘đặc biệt’ – đó là các tổ chức tơn giáo, và các đảng
chính trị. (6)
Bên cạnh việc xem xét Xã hội dân sự trên phương diện một khu vực,
một môi trường xã hội được thiết kế và vận hành không có yếu tố nhà nước,
khái niệm Xã hội dân sự còn được được hiểu theo phương diện với ý nghĩa là
xã hội văn minh. PGS.TS Nguyễn Như Phát cho rằng:
Tiếp cận cấp độ này cho ta thấy, không phải tất cả những gì nằm ngồi
nhà nước đều là văn minh và ngược lại, tất cả những gì thuộc khu vực nhà
nước là khơng hay có văn minh. Khi tiếp cận theo cách này, Dieter Rucht
muốn khẳng định xã hội dân sự là một xã hội văn minh và điều quan trọng,
khơng phải mọi yếu tố ngồi nhà nước đều được nhìn nhận như những thành


9
tố của xã hội dân sự. Những thiết chế mafia, những tổ chức khủng bố quốc
tế…chắc chắn không nằm trong cơ cấu của bất kỳ quốc gia nào, song đó
khơng phải là những yếu tố của xã hội dân sự. (7)
Qua những khái niệm trên, có thể thấy rằng, xã hội dân sự khá đa dạng
về bản chất và các thành tố của chính nó, dựa trên sự khác nhau về kiểu khái
niệm, cách tiếp cận, nguồn gốc lịch sử và bối cảnh quốc gia. Tuy nhiên,
những khái niệm này đều chỉ ra rằng, Xã hội dân sự là một khơng gian quan

hệ rộng rãi, bên ngồi Gia đình, Nhà nước và Thị trường. Như vậy, có thể
hiểu xã hội dân sự là xã hội của những người dân với những giao dịch,
những liên kết, hay các mối quan hệ tương tác ngồi Gia đình, Nhà nước và
Thị trường, nhằm đáp ứng những sở thích, sự quan tâm, lợi ích của các thành
viên. Tổ chức xã hội dân sự bao gồn nhiều loại hình tổ chức khác nhau, song
khơng bao gồm các tổ chức mafia, khủng bố quốc tế và các tổ chức tội phạm.
Một cách khái quát, có thể nhận dạng xã hội dân sự theo những đặc
điểm như sau:
- Là một không gian quan hệ xã hội nằm ngồi Gia đình, Nhà nước và
Thị trường, vận hành độc lập tương đối với Nhà nước và Thị trường;
- Bản chất là một xã hội với những giá trị văn minh, hợp tác và hồ
bình. Quan hệ phát sinh trong xã hội dân sự là những mối quan hệ không
nhằm mục đích lợi nhuận, tự nguyện, mang tính chất tương hỗ dân sự, hoặc vì
lợi ích cơng cộng, lợi ích xã hội; các mối quan hệ này khơng mang tính chất
quyền lực công;
- Các hoạt động của xã hội dân sự được thể hiện thơng qua nhiều hình
thức đa dạng tuỳ thuộc vào điều kiện, đặc thù của mỗi quốc gia, như: các tổ
chức từ thiện, các nhóm cộng đồng, các hiệp hội nghề nghiệp, các liên đoàn
lao động, các tổ chức tín ngưỡng… thường được gọi là các tổ chức phi chính
phủ hay các tổ chức phi lợi nhuận.
1.1.1.2. Mối quan hệ của xã hội dân sự với nhà nước và thị trường
Ngày nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, vai trò của xã hội dân sự
cũng như các tổ chức xã hội càng được khẳng định và có bước phát triển


1
0
mạnh mẽ. Trải qua các giai đoạn phát triển, nhiều tổ chức xã hội dân sự được
coi là đối tác đầy đủ trong các diễn đàn của Liên hiệp quốc nhờ những đóng
góp đáng kể vì một thế giới hồ bình và thịnh vượng. Phát biểu tại Diễn đàn

thế giới về xã hội thông tin (The World Summit on the Information Society)
tổ chức tại Tunisia từ ngày 16-18/10/2005, ông KofiAnan, nguyên Tổng thư
ký liên hiệp quốc đã khẳng định:
Liên hiệp quốc trước kia chỉ quan hệ chính thức với các Chính phủ.
Nhưng giờ đây chúng tơi hiểu rằng hồ bình và thịnh vượng khơng thể đạt
được mà khơng có đóng góp của các đối tác, bao gồm các chính phủ, các tổ
chức quốc tế, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội dân sự. Trong thế giới ngày
nay, chúng tôi tin cậy vào vai trị của từng đối tác.(8)
Tuy nhiên, khơng chỉ ngày nay, tầm quan trọng của xã hội dân sự mới
được khẳng định. C. Mác đã từng khái quát vai trị của xã hội dân sự là: “Xã
hội cơng dân đó là trung tâm thực sự, vũ đài thực sự của toàn bộ lịch sử” (9).
Ý nghĩa của nhận định này là ở chỗ, giai cấp nào, lực lượng xã hội nào, đảng
chính trị nào muốn chiến thắng đều phải chiến thắng ở xã hội công dân.
Trong mỗi quốc gia, cấu trúc xã hội bao gồm chủ yếu 3 thành phần là:
Nhà nước, Thị trường và Xã hội dân sự. Dưới giác độ nghiên cứu phát triển,
Nhà nước pháp quyền – kinh tế thị trường – xã hội dân sự được coi là 3 trụ
cột của sự phát triển. Giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã
hội dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia.

Sơ đồ 1: Lý thuyết “tam giác phát triển”
Mơ hình trên miêu tả quá trình phát triển của “tam giác phát triển”.
Theo đó, ba yếu tố nhà nước, thị trường và xã hội dân sự là ba cạnh của một


1
1
tam giác. Nguồn lực của một quốc gia do 3 yếu tố đó hợp lại bằng chu vi của
tam giác (tổng ba cạnh) và không đổi tại thời điểm khảo sát. Hiệu quả của sự
phối hợp giữa 3 yếu tố đó được thể hiện bằng diện tích tam giác, ký hiệu là S.

Nếu giải quyết 3 mối quan hệ đó khơng cân đối, chúng ta có một tam giác
thường với các cạnh khơng bằng nhau; khi đó, diện tích tam giác sẽ là nhỏ
nhất (S1).
Nếu ba cạnh của “tam giác phát triển” bằng nhau thì xã hội sẽ phát
triển cân đối. Diện tích do ba cạnh của tam giác đều tạo thành là lớn nhất (S2
> S1).
Ở trình độ lý tưởng, khi nhà nước, thị trường và xã hội dân sự xâm
nhập vào nhau, chuyển hoá cho nhau đến mức một chủ thể tham gia vào đời
sống xã hội có thể đại diện cho nhà nước, cho thị trường và cho xã hội dân sự;
khi đó, “nhà nước khơng cịn là nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa”(10).
Nhà nước mất tính chính trị, thị trường mất tính hàng hố, xã hội dân sự mất
tính nhóm. Ở trình độ này, các quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội thay đổi về
chất. Nhà nước tiêu vong, các quan hệ thị trường thay đổi, con người được
giải phóng triệt để; đó là “khi mọi người đã học được cách quản lý xã hội” –
“khi đó nói chung bất cứ việc quản lý nào cũng đều trở nên không cần thiết
nữa” (11). Các cạnh của tam giác đã chuyển hoá thành đường trịn và diện
tích tam giác lúc này đã chuyển thành diện tích hình trịn, tạo nên hiệu quả
cực đại: S3 > S2 > S1.
Xét về mối quan hệ giữa xã hội dân sự với Nhà nước và Thị trường,
có thể thấy rằng, 3 yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó
Nhà nước với ưu thế là quyền lực chính trị, với các thiết chế quyền lực cơng,
ln giữ vai trị chi phối.
Nhà nước là một thiết chế quyền lực cơng, có quyền hạn quyết định
mức độ, phạm vi của ‘khơng gian dân sự ngồi nhà nước’- xã hội dân sự. Nhà
nước thông qua luật pháp và các thiết chế hành chính của mình có thể công
nhận, tôn trọng và đảm bảo sự vận hành độc lập, sự phát triển của xã hội dân
sự. Nhưng, đồng thời, cũng chính Nhà nước có thể, bằng quyền lực chính trị,
hạn chế, thu hẹp hoặc thậm chí triệt tiêu xã hội dân sự.



1
2
Với chức năng duy trì trật tự cơng cộng, Nhà nước có quyền đưa ra
những hạn chế cụ thể đối với quyền lập hội, lập phường của nhân dân. Tuy
nhiên những hạn chế này chỉ được coi là chính đáng về mặt thể chế chính trị,
và phù hợp pháp luật quốc tế, khi có lý do chính đáng do việc bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự công cộng, và vì sự đảm bảo quyền và tự do cơ bản của các
cơng dân khác.
Bên cạnh đó, Nhà nước với chức năng xã hội, tạo điều kiện để phát
huy quyền lập hội, quyền hội họp, quyền tham gia các công việc của nhà nước
và xã hội theo đúng quy định của pháp luật. Công chức, cơ quan quyền lực
được đặt vào vị trí ‘cơng bộc’ của nhân dân, chứ khơng là ‘quan cai trị’. Bộ
máy Nhà nước phục vụ hoạt động theo các ngun tắc minh bạch, cơng khai,
có trách nhiệm. Do vậy việc hình thành một xã hội dân sự mạnh không chỉ là
một nhu cầu của nhân dân, mà cũng đồng thời là một mong muốn của nhà
nước pháp quyền. Trong trường hợp này nhà nước và xã hội dân sự có mối
liên hệ mật thiết, bổ sung lẫn cho nhau.
Về mối quan hệ giữa xã hội dân sự và nhà nước, thực tiễn cho thấy,
mặc dù xã hội dân sự rất quan trọng, nhưng trong mọi trường hợp xã hội dân
sự cũng chỉ là một trong 3 bộ phận cấu thành của một xã hội quốc gia. Xã hội
dân sự dù có mạnh mẽ tới đâu cũng khơng thể thay thế Nhà nước. Nhà nước
và xã hội dân sự có vai trị và sứ mệnh riêng trong tiến trình phát triển xã hội.
Để phát triển bền vững, lành mạnh, giữa xã hội dân sự và nhà nước phải có
quan hệ bổ sung lẫn nhau. Nhà nước lấn lướt, o ép xã hội dân sự thì dễ trở
thành chuyên quyền độc đoán. Xã hội dân sự đối lập với Nhà nước, cạnh
tranh với Nhà nước về quyền lực thì dễ đưa tới tình trạng vơ chính phủ.
Với Thị trường, xã hội dân sự là không gian quan hệ phi lợi nhuận của
các chủ thể kinh doanh, sản xuất nhằm bảo vệ lợi ích của các ngành nghề,
chia sẻ thơng tin... thông qua các hội, phường, hiệp hội. Khi tham gia thị
trường, các cá nhân, doanh nghiệp cũng có nhu cầu liên kết, lập hội, lập

phường vì những mối quan tâm chung về sản phẩm, về thị trường, giá cả…
Bên cạnh những hội, phường kinh doanh sản xuất, xã hội dân sự cịn được
biết đến thơng qua những tổ chức của những người tiêu dùng, những tổ chức


1
3
mơi trường... là những tổ chức có nhiều quan tâm tới tác động của thị trường
về giá cả, chất lượng hàng hoá đối với người tiêu dùng, cũng như về tác động
môi trường của những hoạt động sản xuất, kinh doanh. Một xã hội dân sự
mạnh sẽ là điều kiện tốt để đảm bảo kinh doanh bình đẳng, thân thiện với môi
trường và xã hội. Và ngược lại, nếu xã hội dân sự yếu thì sẽ là cơ hội cho sự
thăng hoa của chủ nghĩa lợi nhuận thuần tuý.

1.1.1.3. Đặc điểm của xã hội dân sự ở Việt Nam
Trong một thời gian dài, thuật ngữ xã hội dân sự được xem là nhạy
cảm, đặc biệt sau khi các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Do vậy,
việc tiếp cận và nghiên cứu về xã hội dân sự ở nước ta chưa được quan tâm
đúng mực, dẫn đến nhận thức về vấn đề này chưa đầy đủ, đôi khi có những
quan điểm phiến diện về vai trị, tác động của xã hội dân sự trong xây dựng và
phát triển đất nước.
Bắt đầu từ năm 2005, với sự giúp đỡ của Chương trình Phát triển Liên
Hiệp Quốc (UNDP), Liên minh tồn cầu vì sự tham gia của cơng dân
(CIVICUS), Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV), lần đầu tiên tại Việt Nam, vấn
đề xã hội dân sự đã được Viện Những vấn đề phát triển (VIDS – thuộc Liên
hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam) tiến hành nghiên cứu thông qua
Dự án CIVICUS-CSI-SAT và vừa xuất bản báo cáo đánh giá ban đầu. Theo
đánh giá của báo cáo này thì bối cảnh lịch sử của xã hội dân sự tại Việt Nam
trải qua bốn giai đoạn phát triển:
- Trước năm 1945: với đặc điểm là một xã hội mà trong đó cộng đồng

làng xã ít phụ thuộc vào Nhà nước. tư duy người dân hình thành tinh thần đấu
tranh chồng ngoại xâm đã góp phần vào tình trạng khép kín trong hệ thống
hành chính quan liêu của Việt Nam;
- Sau năm 1945: xã hội dân sự được Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chính phủ chuyển thành những tổ chức quần chúng;
- Sau 1975: Công cuộc đổi mới (1986) và sự sụp đổ của các nước
XHCN Đông âu đã làm cho Việt Nam mỏ cửa cải cách cho khu vực hợp tác
xã, khuyến khích kinh tế hộ gia đình, cho thành phần tư nhân, đầu tư nước


1
4
ngồi, cải cách tổ chức kinh tế và tài chính, hợp tác với nước ngồi, đặc biệt
là bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ (1995);
- Giai đoạn cuối cùng hình thành trong thập niên 90 với sự bùng nổ
của nền kinh tế Việt Nam, các cải cách pháp luật và hành chính song hành với
q trình hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng với bối cảnh lịch sử như trên, xã hội dân sự Việt Nam được hình
thành. khơi phục, phát triển và mở rộng khơng ngừng. Nếu trước nám 1986,
các tổ chức xã hội chủ yếu bao gồm các tổ chức quần chúng (các tổ chức
chính trị-xă hội) như Cơng đồn, Liên hiệp phụ nữ, Hội Nơng dân và Đồn
TNCS Hồ Chí Minh, thì từ đầu thập niên 90 việc mở của xã hội cho các thành
phần kinh tế khác cũng tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội và việc phục hồi
các tập quán liên quan đến sinh hoạt hàng ngày, một phần theo các hình thức
mới. Một xã hội dân sự rộng lớn hơn đã xuất hiện và nở rộ các tổ chức.
Mặc dù dự án đưa ra 7 nhóm chính để cung cấp một cái nhìn khái quát
về Xã hội dân sự ở Việt Nam (bao gồm cả các tổ chức tín ngưỡng và các tổ
chức phi chính phủ quốc tế tại Việt Nam), nhưng phạm vi nghiên cứu, khảo
sát chính thức về xã hội dân sự ở Việt Nam được thơng qua 4 nhóm sau đây:

1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức quần chúng trực thuộc;
2. Các hội nghề nghiệp, bao gồm cả các tổ chức liên hiệp hội thuộc
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
3. Các tổ chức phi chính phủ Việt Nam (cũng được gọi là các tổ
chức khoa học và công nghệ nếu đăng ký thuộc Liên hiệp các hội khoa học và
kỹ thuật Việt Nam);
4. Các nhóm khơng chính thức tại cộng đồng
Nói cách khác, tổ chức xã hội ở Việt Nam bao gồm 4 nhóm như kể
trên. So với cách tiếp cận của thế giới thì có 2 điểm lưu ý thể hiện đặc thù của
Việt Nam. Đó là: thứ nhất, nhóm 1 gồm Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
quần chúng trực thuộc mặc dù có mối quan hệ rất chặt chẽ với Đảng và Chính
phủ nhưng vẫn được coi là những tổ chức xã hội dân sự; thứ hai, đảng chính


1
5
trị, các tổ chức tín ngưỡng, tơn giáo và các tổ chức phi chính phủ nước ngồi
khơng được coi là thành phần thuộc xã hội dân sự Việt Nam.
Đánh giá tổng quan về xã hội dân sự ở Việt Nam, dự án CIVICUSCSI-SAT đã đưa ra sơ đồ Hình thoi xã hội dân sự thể hiện bốn bình diện Xã
hội dân sự ở Việt Nam; đó là: cấu trúc xã hội, môi trường xã hội, tác động xã
hội và các giá trị xã hội với thang điểm cho mỗi bình diện là từ 0-3 điểm.

Cấu trúc
3
2

1.6

1


Các giá trị

1.7

0

1.4

Môi trường

1.2

Tác động

Sơ đồ 2: Hình thoi Xã hội dân sự ở Việt Nam
(nguồn: dự án CIVICUS CSI-SAT)

Kết quả điều tra, khảo sát của dự án cho thấy, Hình thoi Xã hội dân
sự ở Việt Nam có độ lớn vừa phải và khá cân bằng, nó cũng phản ánh quan
điểm đánh giá tương đối lạc quan khi so sánh với các đánh giá của các chun
gia quốc tế. Bình diện “Tác động” có giá trị thấp hơn ba bình diện cịn lại.
- “Cấu trúc” của Xã hội dân sự có cả điểm mạnh và yếu điểm (điểm số
là 1,6). Quy mô của Xã hội dân sự đặc biệt rất rộng lớn do bao gồm các Tổ
chức quần chúng, nhưng ngay cả không kể đến các tổ chức quần chúng, thì
Xã hội dân sự cũng đã to lớn. Có đến “74% số cơng dân là thành viên của tối
thiểu một tổ chức, 62% là thành viên của từ 2 tổ chức Xã hội dân sự trở lên,
và tính bình qn mỗi cơng dân tham gia 2,3 tổ chức” (12). Các tổ chức quần
chúng có khi giảm đi phần ý nghĩa của nó ở chỗ các hội viên tham gia mang
tính hình thức hơn là hoạt động một cách tích cực, tuy nhiên họ lại tạo ra một



1
6
khuôn khổ quan trọng từ trung ương tới cấp độ cộng đồng trong các hoạt
động tùy theo nhu cầu và mối quan tâm của từng địa phương. Một loại hình tổ
chức mới, đó là các tổ chức phi chính phủ Việt Nam, đã được thành lập trong
thập kỷ 90 của thế kỷ trước, chủ yếu ở các thành phố và đã mở ra một bình
diện mới cho đời sống. Các tổ chức này có ít hội viên, nhưng lại phục vụ cho
những nhóm người thiệt thịi mà trước đây ít được quan tâm. Trong những
năm gần đây các nhóm cộng đồng đã bắt đầu nở rộ tại vùng nông thôn để hỗ
trợ cho các hoạt động đời sống, các nhóm văn hóa và vui chơi giải trí cũng
được mở rộng đáng kể. Cho dù có rất nhiều tổ chức bao trùm lên các cơ cấu
tổ chức, nhưng nhiều khi còn mang tính hình thức và ít điều phối các hoạt
động giữa các tổ chức với nhau.
- Bình diện yếu thứ hai trong số bốn bình diện trên là “Mơi trường” xã
hội (điểm số là 1,4), đặc trưng bởi các hạn chế về chính sách, thiếu quy định
và cịn tồn tại những thủ tục minh bạch cho việc thành lập và hoạt động. môi
trường để xã hội dân sự hoạt động đã được thúc đẩy trên văn bản, nhưng trên
thực tế yếu tố khích lệ phát huy sự tham gia của xã hội dân sự trong cơng
cuộc phát triển cịn yếu. Tuy nhiên, thập kỷ vừa qua đã chứng kiến một số cải
thiện, không gian hoạt động cả Xã hội dân sự đã được mở rộng theo hướng
tích cực, nhưng vẫn cịn một chặng đường dài trước khi có thể nói về một mơi
trường khuyến khích cho các tổ chức xã hội dân sự. Dự án cũng thấy được
một đặc điểm khác biệt của bối cảnh Việt Nam, nơi mà môi trường dành cho
xã hội dân sự, một mặt phụ thuộc rất nhiều vào không gian mà Nhà nước
dành cho các tổ chức xã hội, và mặt khác là vào chính sách không can thiệp
tới các dạng tổ chức mới.
- Các giá trị trong Xã hội dân sự được dự án đánh giá là tích cực và ở
mức độ tương đối cao (điểm số là 1,7). Đặc biệt mạnh là các giá trị giảm
nghèo, phi bạo lực, và bình đẳng giới, và theo đánh giá thì tất cả các tổ chức

xã hội dân sự đều tăng cường các giá trị này. Dữ liệu thống kê cho thấy vai
trò và thành phần của phụ nữ và các cán bộ lãnh đạo là nữ giới cao hơn nhiều
trong các tổ chức xã hội dân sự so với khu vực nhà nước. Đánh giá ở mức độ
thấp hơn, nhưng vẫn ở cấp độ trung bình, đó là các giá trị về dân chủ, lịng vị


1
7
tha và môi trường bền vững trong các tổ chức, nhưng các giá trị này được
đánh giá là đã được tăng cường trong xã hội.
- Tác động của Xã hội dân sự tại Việt Nam đã trở thành bình diện khó
khăn nhất để đánh giá (điểm số là 1,2). Tuy nhiên, người ta phát hiện thấy
rằng tất cả các loại hình tổ chức xã hội dân sự tiếp cận tốt hơn đến tận cấp cơ
sở so với các chương trình và chính sách của chính phủ. Theo cách đó, các tổ
chức xã hội đã có tác động mạnh mẽ hơn nhằm đảm bảo cho những người bất
hạnh và những người nghèo được quan tâm tới trong các chính sách cơ bản,
như HIV/AIDS, quyền trẻ em và các vấn đề giới. Cịn ít các tổ chức tiếp cận
với vùng sâu vùng xa. Các Tổ chức quần chúng và các tổ chức khác chưa có
ảnh rõ rệt đối với việc phát triển tri thức bản địa. Tác động đối với các chính
sách quốc gia trực tiếp là do kết quả của các Tổ chức quần chúng, và mới đây
là do một số hoạt động của các tổ chức nghề nghiệp, có khả năng đóng góp ý
kiến cho các bộ luật được Quốc hội thơng qua.

1.1.2. Tổ chức phi chính phủ - quan niệm của thế giới và thực
tiễn Việt Nam
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của tổ chức phi chính phủ
Qua việc tìm hiểu khái niệm xã hội dân sự, có thể thấy rằng, dù có
nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng có một “nhân vật chính”, cũng là cụm từ
được biết đến khá nhiều khi đề cập tới khu vực xã hội dân sự; đó là Tổ chức
phi chính phủ.

Tổ chức phi chính phủ được dịch ra tiếng Việt từ tên tiếng Anh – Non
Govermental Organization. Tuy nhiên, cũng giống như khái niệm về Xã hội
dân sự, khái niệm về Tổ chức phi chính phủ rất đa dạng, phụ thuộc vào lịch
sử, cách tiếp cận và bối cảnh của từng quốc gia.
Ngân hàng thế giới định nghĩa Tổ chức phi chính phủ là:
tổ chức tư nhân theo đuổi những hoạt động làm giảm bớt thiệt hại,
thúc đẩy những lợi ích cho người nghèo, bảo vệ môi trường, cung cấp những
dịch vụ xã hội cơ bản, hoặc thực hiện phát triển cộng đồng. Hiểu theo nghĩa
rộng hơn, thuật ngữ Tổ chức phi chính phủ có thể được áp dụng đối với bất kỳ


1
8
tổ chức phi lợi nhuận nào độc lập với chính phủ. Những tổ chức phi chính phủ
điển hình là những tổ chức dựa trên, một phần hoặc toàn bộ, những giá trị từ
thiện và tự nguyện. Mặc dù khu vực các tổ chức phi chính phủ đã phát triển
theo hướng chuyên nghiệp hoá trong 2 thập kỷ vừa qua nhưng những nguyên
tắc về chủ nghĩa vị tha và tự nguyện vẫn là những đặc tính nhận biết quan
trọng (13)
Từ điển bách khoa toàn thư trực tuyến Wikipedia cho rằng:
Thuật ngữ Tổ chức phi chính phủ được sử dụng rất đa dạng trên thế
giới, phụ thuộc vào ngữ cảnh sử dụng, có thể được hiểu là nhiều dạng khác
nhau của các tổ chức. Ở nghĩa rộng nhất, một tổ chức phi chính phủ là tổ chức
mà khơng phải là bộ phận trực tiếp thuộc cấu trúc chính phủ.
Vì thuật ngữ phi chính phủ được đề cập với nghĩa quá rộng nên nhiều
tổ chức phi chính phủ hiện nay thích dùng thuật ngữ tổ chức tự nguyện tư
nhân (private voluntary organization - PVO) hoặc tổ chức phát triển tư nhân
(private development organization - PDO) hơn. (14)
Từ điển bách khoa toàn thư Britannica định nghĩa tổ chức phi chính
phủ là:

tổ chức khơng thuộc cơ cấu của chính phủ. Một khác biệt quan trọng
để nhận biết là giữa các nhóm phi lợi nhuận và nhóm vì mục đích lợi nhuận;
đại đa số các tổ chức phi chính phủ là hoạt động khơng vì lợi nhuận.
Mục đích của các tổ chức phi chính phủ bao gồm các lĩnh vực liên
quan đến quyền và lợi ích của con người trong phạm vi một quốc gia hoặc
quốc tế. Tổ chức phi chính phủ có thể được tài trợ bởi các nhà tài trợ tư nhân,
các tổ chức quốc tế, các chính phủ hoặc một hình thức kết hợp các hình thức
này.(15)
Sách “Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính cơng trong một thế
giới cạnh tranh” của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) có đưa ra khái niệm
về tổ chức chức phi Chính phủ là:
các tổ chức tình nguyện tư nhân, các tổ chức phi lợi nhuận, các tổ
chức tự nguyện phát triển. Hiểu theo cách thông thường, các tổ chức phi


1
9
chính phủ có bốn đặc trưng là: tổ chức tình nguyện, độc lập, phi lợi nhuận,
mục đích nâng cao điều kiện sống của những người bị thiệt thịi hoặc vì
những vấn đề chung rộng lớn của cộng đồng... (16)
Qua các khái niệm trên về Tổ chức phi chính phủ, có thể thấy rằng,
mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng hiểu theo nghĩa rộng nhất, Tổ
chức phi chính phủ là tổ chức khơng thuộc cấu trúc của chính phủ.
Theo cách hiểu hẹp hơn, Tổ chức phi chính phủ là tổ chức khơng
thuộc cơ cấu của chính phủ, được thành lập và hoạt động trên cơ sở tự
nguyện, từ thiện và phi lợi nhuận nhằm mục đích bảo vệ, nâng cao chất
lượng sống của con người và phát triển cộng đồng.
Các đặc trưng của tổ chức phi chính phủ:
- là tổ chức tự nguyện của cá nhân hoặc tổ chức, khơng thuộc cơ cấu
của chính phủ; tổ chức này được thành lập một cách chính thức, về mặt pháp

lý độc lập với nhà nước, mặc dù có thể được nhà nước hỗ trợ;
- hoạt động khơng vì mục đích lợi nhuận: có thể tạo nên thặng dư tài
chính nhưng khơng với mục đích thu lợi riêng cho người quản lý hoặc điều
hành;
- theo đuổi những mục đích liên quan đến việc thúc đẩy quyền lợi của
hội viên, phát triển con người và phát triển cộng đồng;
- được tài trợ bởi các nhà tài trợ tư nhân, các tổ chức quốc tế, chính
phủ hoặc bao gồm cả 3 nguồn tài trợ nói trên.

1.1.2.2. Phân loại tổ chức phi chính phủ
Dựa trên những tiêu chí khác nhau, tồn tại nhiều cách phân loại các tổ
chức phi chính phủ. Theo Từ điển bách khoa tồn thư trực tuyến Wikiapedia,
có một danh sách dài những từ viết tắt được phát triển xung quanh thuật ngữ
NGO - Tổ chức phi chính phủ:
INGO (international NGO) là tổ chức phi chính phủ quốc tế, như
CARE, Helvetas (Swiss Association for International Cooperation - Hiệp hội
phát triển quốc tế Thuỵ Sỹ), International Alert (tổ chức cảnh báo quốc tế)...


2
0
- BINGO (business-oriented international NGO) là viết tắt của tổ
chức phi chính phủ quốc tế hoạt động trong lĩnh vực kinh tế ;
- RINGO (religious international NGO) là tổ chức phi chính phủ
quốc tế về tơn giáo, như Catholic Relief Services
- ENGO (environmental NGO) là tổ chức phi chính phủ trong lĩnh
vực môi trường, như Global 2000;
- GONGO (government-operated NGOs) là tổ chức phi chính phủ do
chính phủ thành lập để có tư cách hoạt động đối với những trợ giúp bên
ngoài;

- QUANGOs (quasi-autonomous NGOs) là tổ chức bán phi chính
phủ. Loại tổ chức này do chính phủ tài trợ kinh phí nhưng lại hoạt động độc
lập với chính phủ, như the International Organization for Standardization
(ISO) - Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế, mà thực tế không phải là một tổ chức phi
chính phủ nguyên nghĩa, khi thành viên của nó là các quốc gia, và nhiều quốc
gia ở châu Âu được đại diện bởi cơ quan của chính phủ mình trong ISO. (17)
Ngân hàng Thế giới lại chia các tổ chức phi chính phủ thành 2 loại
theo lĩnh vực hoạt động và phản biện xã hội.
Mục đích nguyên khởi của một tổ chức phi chính phủ theo lĩnh vực
hoạt động là thiết kế và thực hiện các dự án liên quan đến phát triển. Cịn mục
đích trước tiên của tổ chức phi chính phủ phản biện xã hội là để bảo vệ hoặc
thúc đẩy một mục đích cụ thể. Đối lập với việc quản lý các dự án theo lĩnh
vực hoạt động, các tổ chức điển hình dạng này cố gắng nâng cao nhận thức,
hiểu biết và kiến thức thơng qua các hoạt động lobby, hoạt động báo chí và
các hoạt động sự kiện.

1.1.2.3. Tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam
Tiền thân của các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam bắt đầu xuất
hiện trong thập kỷ 90 dưới tên gọi các tổ chức khoa học và kỹ thuật phi lợi
nhuận hoặc các tổ chức nghiên cứu và phát triển khoa học-kỹ thuật. Sau đó,
các tổ chức này được gọi là “các tổ chức xã hội,” “các tổ chức theo chuyên
đề” các “tổ chức phi chính phủ địa phương” và gần đây gọi là các “tổ chức



×