BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ CÔNG NGHỆ SINH HỌC
oOo
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
KHẢO SÁT ĐẶC TÍNH CỦA HYDROXYETHYL
CELLULOSE TRONG CÔNG NGHỆ BẢO QUẢN
MĂNG CỤT
Chuyên ngành : Công nghệ sinh học
Mã số ngành : 111
GVHD : KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH : NGUYỄN PHƯƠNG HÀ
MSSV : 105111017
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 07, năm 2009
i
MỤC LỤC
Danh mục Trang
Lời mở đầu 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về Măng cụt 2
1.1.1. Giới thiệu chung 2
1.1.2. Nguồn gốc và phân bố 3
1.1.2.1. Nguồn gốc 3
1.1.2.2. Phân bố 3
1.1.3. Đặc điểm thực vật 4
1.1.4. Đặc điểm sinh hóa 5
1.1.4.1. Thành phần dinh dưỡng 5
1.1.4.2. Thành phần hóa học 5
1.1.5. Đặc điểm sinh thái 7
1.1.6. Yêu cầu dinh dƣỡng 7
1.1.7. Kỹ thuật trồng trọt 7
1.1.7.1 Giống 7
1.1.7.2 Nhân giống 8
1.1.7.3 Thời vụ và khoảng cách trồng 9
1.1.7.4 Cách trồng 9
1.1.7.5 Che bóng râm và trồng xen 10
1.1.7.6 Chăm sóc 10
1.1.7.7 Tưới nước 11
1.1.7.8 Bón phân 12
1.1.7.9 Xử lý ra hoa 13
ii
1.1.7.10 Bệnh xì mủ quả ở măng cụt 13
1.1.8. Hiện trạng xuất nhập khẩu măng cụt ở nƣớc ta 14
1.1.9. Tiêu chuẩn xuất khẩu 16
1.1.10. Phƣơng pháp thu hoạch và bảo quản 17
1.1.10.1. Thu hoạch 17
1.1.10.2. Bảo quản 17
1.1.11. Ứng dụng 19
1.2. Tổng quan về bảo quản 23
1.2.1. Đặc điểm của rau quả và nguyên nhân gây hƣ hỏng rau quả 23
1.2.2. Hô hấp và cƣờng độ hô hấp 24
1.2.2.1 Hô hấp 24
1.2.2.2. Khái niệm cường độ hô hấp 27
1.2.2.3. Tác hại của quá trình hô hấp đối với nông sản khi bảo quản 28
1.2.2.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến cường độ hô hấp 29
1.2.3. Sự thoát hơi nƣớc cùa nông sản phẩm khi bảo quản 31
1.2.4. Một số thành phần hóa học và quá trình biến đổi của chúng trong quá trình
bảo quản 32
1.2.4.1. Nước 32
1.2.4.2. Glucid 33
1.2.4.2. Vitamin và acid hữu cơ 33
1.2.5. Biện pháp kỹ thuật bảo quản rau quả tƣơi 35
1.2.6. Hiện trạng bảo quản trái cây tƣơi xuất khẩu ở Việt Nam 35
1.3. Hydroxyethyl Cellulose (HEC) 36
1.3.1. Giới thiệu chung 36
1.3.2. Tính chất hóa lý 37
1.3.3. Đặc tính 38/
iii
1.3.3.1. Khả năng “làm dày” (Thickening) 38
1.3.3.2. Khả năng chịu muối (Salt Tolerance) 38
1.3.3.3. Khả năng tạo màng plastic “giả” (Pseudoplasticity) 39
1.3.3.4. Khả năng giữ nước (Water Retention) 39
1.3.4. Độc tính 39
1.3.5. Ứng dụng 39
1.3.5.1. Trong nông nghiệp 39
1.3.5.2. Trong sản xuất vật liệu xây dựng 40
1.3.5.3. Trong sản xuất mỹ phẩm và chất tẩy rửa 40
1.3.5.4. Trong quá trình latex polymerization 40
1.3.5.5. Trong sản xuất dầu khí 40
CHƢƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP
2.1. Vật liệu 41
2.1.1. Măng cụt 41
2.1.2.Hydroxyethyl cellulose 41
2.2. Phƣơng pháp 41
2.2.1. Phương pháp khảo sát khả năng bảo quản (về hình thái) của HEC 41
2.2.1.1. Nguyên tắc 41
2.2.1.2. Dụng cụ - hóa chất 41
2.2.1.3. Cách tiến hành 42
2.2.1.4. Đánh giá kết quả 42
2.2.2 Phương pháp xác định cường độ hô hấp 42
2.2.2.1. Nguyên tắc 42
2.2.2.2. Dụng cụ - hóa chất 44
2.2.2.3. Cách tiến hành 44
2.2.2.4. Tính kết quả 45
2.2.3. Định lượng đường tổng số bằng phản ứng so màu 45
iv
2.2.3.1 Nguyên tắc 45
2.2.3.2 Dụng cụ và hóa chất 45
2.2.3.4. Cách tiến hành 46
2.2.3.5. Tính kết quả 47
2.2.4. Định lượng vitamin C ( acid ascorbic ) bằng phương pháp chuẩn độ
iode 48
2.2.4.1 Nguyên tắc 48
2.2.4.2. Dụng cụ và hóa chất 48
2.2.4.3. Cách tiến hành 49
2.2.4.4 Tính kết quả 49
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ BIỆN LUẬN
3.1. Kết quả khảo sát khả năng bảo quản (về hình thái) của HEC 50
3.2. Kết quả đo cƣờng độ hô hấp 54
3.3. Kết quả hàm lƣợng đƣờng tổng số 55
3.4. Kết quả hàm lƣợng Vitamin C 57
CHƢƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận 59
4.2. Kiến nghị 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
v
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
HEC Hydroxyethyl cellulose
M Mẫu trước khi bảo quản
M0 Mẫu đối chứng sau bảo quản
M1 Mẫu bảo quản ở nồng độ HEC 0,5 %
M2 Mẫu bảo quản ở nồng độ HEC 1,0 %
M3 Mẫu bảo quản ở nồng độ HEC 1,5 %
M(i).(n) Mẫu (i) số thứ tự (n), với i, n = [1;5]
ĐC Mẫu không ở các thí nghiệm
Abs Trị số mật độ đo quang
Vit.C Vitamin C
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Phân loại của măng cụt 2
Bảng 1.2. Thành phần dinh dưỡng 5
Bảng 1.3. Đặc tính của HEC 40
Bảng 3.1. Khối lượng quả trước và sau bảo quản 50
Bảng 3.2. Tỷ lệ giảm khối lượng của từng mẫu sau bảo quản 50
Bảng 3.3. So sánh hình thái của quả trước và sau bảo quản 51
Bảng 3.4. So sánh cường độ hô hấp giữa các nghiệm thức 54
Bảng 3.5. So sánh hàm lượng đường tổng số trước và sau bảo quản 55
Bảng 3.6. So sánh hàm lượng Vitamin C trước và sau bảo quản 57
Bảng 3.7. Tỷ lệ hao hụt Vitamin C sau bảo quản 58
vii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 1.1. Hydroxyethyl cellulose thương phẩm 36
Hình 2.1. Nguyên tắc hoạt động của máy sắc ký khí 44
Hình 3.1. Hình thái quả trước và sau bảo quản 53
Đồ thị 3.1. Sự thay đổi khối lượng trước và sau bảo quản 50
Đồ thị 3.2. Sự khác biệt về cường độ hô hấp giữa các mẫu 55
Đồ thị 3.3. So sánh hàm lượng đường tổng trước và sau bảo quản 56
Đồ thị 3.4. Sự thay đổi hàm lượng Vitamin C trước và sau bảo quản 57
Hình 1. HEC và măng cụt được nhúng vào dung dich HEC
Hình 2. Dung dịch HEC ở các nồng độ 0,5 % - 1,0 % - 1,5 %
Hình 3. Cách sắp xếp măng cụt khi bảo quản
Hình 4. Máy đo cường độ hô hấp (GC – 2010 Shimadzu)
Hình 5. Hộp đo hô hấp
Hình 6. Máy đo quang phổ
Hình 7. Mẫu đo đường tổng số (sau khi cho hiện màu)
Khóa Luận Tốt Nghiệp Lời Mở Đầu
1
LỜI MỞ ĐẦU
Măng cụt, là một loại trái cây nhiệt đới được người nhiều ưa thích vì vị ngọt mát
và mùi thơm đặc trưng, được xem là “hoàng hậu” của các loại trái cây, nó đang trở
thành một loại quả xuất khẩu tiềm năng của nước ta. Nhận thấy điều này nên gần đây
trong “Đề án Phát triển Sản xuất và Xuất khẩu rau hoa quả tươi của Việt Nam”, Bộ
Thương mại cũng khẳng định măng cụt được xếp vào 1 trong 11 loại trái cây có lợi thế
cạnh tranh của nước ta và đang được tập trung đầu tư phát triển.
Tuy nhiên, để trở thành một loại quả xuất khẩu chủ chốt, măng cụt phải cần rất
nhiều nhân tố hỗ trợ, đặc biệt là phải hoàn thiện từ quy trình sản xuất đến quy trình bảo
quản sau thu hoạch.
Điều cần quan tâm nhất trong xuất khẩu măng cụt đó chính là: măng cụt phải đạt
tiêu chuẩn xuất khẩu và giá thành đầu tư không quá cao. Vì vậy, ngoài việc đầu tư vào
kỹ thuật trồng thì công nghệ bảo quản măng cụt sau thu hoạch cũng rất đáng quan tâm.
Các phương pháp bảo quản hiện nay (thông dụng nhất là bảo quản bằng túi
plastic có hoặc không có đục lỗ) chủ yếu có sự kết hợp với nhiệt độ mát hoặc lạnh, điều
này làm phát sinh chi phí trong lúc vận chuyển.
Đề tài này được thực hiện nhằm đưa ra môt phương pháp bảo quản măng cụt có
hiệu quả ngay cả trong điều kiện nhiệt độ bình thường, điều này đặc biệt quan trọng vì
những người trồng hoặc bán măng cụt đếu có thể sử dụng với giá thành rất thấp và
phương pháp đơn giản, nhưng vẫn cho kết quả tương đương hoặc tốt hơn các phương
pháp bảo quản khác.
Đồng thời đưa ra một ứng dụng mới cho hydroxyethyl cellulose (HEC), chất
được sử dụng để bảo quản trong đề tài.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
2
1.1. Tổng quan về Măng cụt
1.1.1. Giới thiệu chung
Măng cụt, một loại quả nhiệt đới đã được giới tiêu thụ Âu Mỹ đánh giá là một
trong những trái cây ngon nhất. Jacobus Bonitus cũng đã gọi măng cụt là: “Hoàng hậu
của các loại trái cây” (Queen of fruits). Măng cụt là loại quả quý, có phẩm chất rất ngon
vì vị ngọt, mát và thơm đặc biệt, được mọi người ưa chuộng; vì thế, quả măng cụt có giá
trị thương phẩm rất cao và là một trong những loại quả tiềm năng xuất khẩu của nước ta.
Măng cụt có nhiều tên gọi khác nhau như: tên tiếng Anh ( Mỹ ) là Mangosteen ;
tên Pháp là mangoustanier ; tên Trung Quốc là Sơn trúc tử, Thái Lan là Mankhut. Măng
cụt có tên la tinh là Garcinia mangostana tên “Garcinia” để ghi nhớ nhà thực vật học
Laurence Garcia, người đã sưu tập các mẫu cây cỏ và sống tại Ấn-độ vào thế kỷ XVIII.
“Mangostana” và tên tiếng Anh mangosteen đều phát xuất từ tên Mã-lai là “mangustan”.
Còn tên Việt Nam và Thái Lan thì lại gần giống nhau.
Măng cụt được giới khoa học phân loại như sau:
Bảng 1.1. Phân loại của măng cụt
Giới
Plantae
Bộ
Malpighiales
Họ
Clusiaceae
Chi
Garcinia
Loài
G. mangoostana
Chi Garcinia còn gồm một số cây tương cận, đa số mọc trong vùng Đông Ấn
(West Indies) trong đó có thể kể Garcinia cambogia, Garcinia cowa cung cấp quả
“cowa-mangosteen” lớn hơn và có khía màu vàng apricot, hay Garcinia indica hay
“Cocum-Conca” cho quả chua, áo hạt màu tím, dùng làm giấm , hạt ép lấy dầu.
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
3
1.1.2. Nguồn gốc và phân bố
1.1.2.1 Nguồn gốc
Cây măng cụt là cây ăn quả nhiệt đới có nguồn gốc từ Malaysia và những đảo
thuộc vùng xích đạo gần Indonesia, có lịch sử hàng chục thế kỷ. Loại cây này đã được
thuyền trưởng Cook mô tả khá chi tiết từ năm 1770, và được đưa đến Tích-lan năm
1880, trồng tại Anh trong các nhà kiếng từ năm 1855, sau đó đưa đến vùng West Indies
( bờ biển Trung Mỹ dưới Florida) từ giữa thế kỷ IXX.
Ở Việt Nam, măng cụt được các nhà truyền giáo đạo Gia Tô di thực vào miền
Nam nước ta, vua Minh Mạng đã cho đem cây này ra trồng ở Huế và giao cho một ông
Hoàng trông nom, và sau đó trồng tại các lăng tẩm, phủ đệ và chùa chiền tại Huế . Vua
Minh Mạng đặt tên cho trái măng cụt là Giáng Châu.
1.1.2.2 Phân bố
Ngày nay, cây măng cụt được bắt gặp ở những nước thuộc vùng xích đạo như
khu vực Đông Nam Á, Ấn Độ, Myanma cũng như ở Sri Lanka, Philipines, … Riêng tại
Việt Nam, do thích hợp với điều kiện nóng ẩm nên măng cụt chủ yếu được trồng ở phía
Nam, các tỉnh như Tây Ninh, Đồng Nai,Bình Dương Việt Nam đã có lúc là nơi có
những vườn măng vụt lớn nhất thế giới.
Ở Việt Nam, măng cụt chủ yếu được phân bố ở hai vùng đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL) và Đông Nam Bộ, trong đó ĐBSCL với tổng diện tích trồng khoảng 4,9
nghìn hecta, cho sản lượng khoảng 4,5 nghìn tấn/năm. Nam Bộ hiện có khoảng 5.400
hecta măng cụt, trong đó có vườn măng cụt trăm tuổi. Dưới 1/3 diện tích măng cụt cho
thu hoạch, trong đó phần lớn diện tích chưa ổn định năng suất. Bến Tre, Cần Thơ, Hậu
Giang, Bình Dương, Sóc Trăng, Đồng Nai là các địa phương chủ yếu trồng măng cụt và
đặc biệt Bến Tre là tỉnh dẫn đầu do tác động của chương trình trồng xen trong vườn dừa
lão đang vận hành.
Theo số liệu thống kê hiện nay toàn tỉnh Bến Tre có khoảng 4,5 nghìn hecta đất
trồng măng cụt (chiếm 77% diện tích cả nước). Hiện nay, Bến Tre là tỉnh đã có công bố
chính thức về việc chọn măng cụt là loại cây trồng chủ lực để đầu tư phát triển theo
hướng chuyên canh.
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
4
1.1.3. Đặc điểm thực vật
Cây măng cụt thuộc họ Clusiaceae; đây là một họ lớn gồm nhiều loại của vùng
nhiệt đới và Á nhiệt đới. Ở Việt Nam có 3 giống là họ dọc, họ tai chua và họ măng cụt.
Những cây này có tính thích nghi mạnh, hiện chủ yếu còn mọc hoang trong rừng.
Thân và rễ: Là cây thân gỗ lớn, cao khoảng 10 – 25 m, đường kính thân khoảng
15 – 35 cm. Thân thẳng, gốc to ngọn nhỏ dần, tán lá dày, xanh và gọn, dáng đẹp. Cành
cách đều nhau trên thân, góc cành và thân to, đầu cành hơi rũ xuống. Gỗ thân nặng và
bền, thường được sử dụng làm đồ mộc, trang trí,
Bộ rễ phát triển tương đối chậm và yếu, tập trung phần lớn ở độ sâu 20 -30 cm.
Rễ không có hệ thống lông hút mềm khả năng hấp thu nước bị hạn chế.
Lá: Lá măng cụt khá lớn, dài 12 – 25 cm, rộng 7 – 13 cm, dạng hình trứng, dày,
mọc đối nhau, cuống nhắn. Các đường gân hai bên nổi lên, phân bố đều đặn, hình lông
chim. Mặt trên lá xanh đen và bóng, mặt dưới lá xanh nhạt và hơi mốc. Khả năng quang
hợp của lá kém.
Hoa: Hoa đơn hoặc kép ở đầu những cành 1 - 2 năm tuổi. Hoa cứng có cuống dài
7 - 9 mm. Kích thước hoa tương đối lớn, khi nở đường kính hoa 4 - 6 cm, dài 1,5 - 2 cm.
Bốn cánh hoa màu xanh vàng xen lẫn mảng phớt hồng ở tâm.
Hoa măng cụt là loại hoa bất toàn, về hình thái là những hoa lưỡng tính nhưng về
chức năng thì là hoa cái vì tuy có nhị đực nhưng hoàn toàn bất thụ. Hạt măng cụt không
phải hình thành từ phôi đã thụ phấn theo đường hữu tính, mà là một phôi giả hình thành
không qua thụ phấn.
Trong điều kiện thuận lợi, cây ra hoa vào năm thứ 6 hoặc thứ 7 sau khi gieo,
thường thì từ 10 - 12 năm. Ở miền Nam nước ta cây măng cụt ra hoa vào tháng 1 - 3
dương lịch và trái chín vào tháng 5 - 9 dương lịch ( khoảng 104 - 108 ngày sau khi hoa
nở ).
Quả và hạt: Quả măng cụt thuộc loại quả nang còn mang đại hoa ở cuống và
núm nhụy ở đầu quả. Vỏ quả khi sống có màu xanh đọt chuối, khi chín vỏ đỏ dần, rồi
chuyển sang tím và tím sẫm khi mùi chín.
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
5
Quả hình cầu, đáy phẳng, đường kính 4 - 7 cm, nặng 70 - 100 g. Vỏ quả bóng
láng, dày 0,8 - 1 cm, chứa một loại dịch đắng màu vàng tiết ra khi quả non bị thương.
Bên trong quả có 5 - 7 múi trắng, rất dễ tách, cơm không sượng, vị chua ngọt (độ Brix
17 - 19 %). Phần thịt quả ăn được chỉ chiếm khoảng 25 - 30 % trọng lượng quả, còn lại
là vỏ và hạt. Mỗi múi có một hạt mẩy hoặc lép. Các hạt có màu tím sẫm được bao bọc
bởi một lớp xơ mỏng phát triển bên trong múi. Hạt dùng để nhân giống, nếu cây càng
trồng xa vùng xích đạo thì hạt càng dễ bị lép. Phẩm chất quả có thể thay đổi do điều
kiện khí hậu khác nhau.
1.1.4. Đặc điểm sinh hóa
1.1.4.1 Thành phần dinh dưỡng
Trong 100 g quả tươi có chứa các thành phần qua bảng sau :
Bảng 1.2. Thành phần dinh dưỡng
Calories
60-63
Chất đạm
0.5-0.60 g
Chất béo
0.1-0.60 g
Carbohydrates
10-14.7 g
Chất xơ
5.0-5.10 g
Calcium
0.01-8.0 mg
Sắt
0.20-0.80 mg
Phosphorus
0.02-12.0 mg
Thiamin B1
0.03 mg
Vitamin C
1.0- 2.0 mg
(Nguồn: Phân tích tại Đại học Nông Lâm, 1994)
1.1.4.2 Thành phần hóa học
Như các loại quả khác, măng cụt ngọt nhờ có nhiều chất đường: sucrose,
fructose, glucose và có thể cả maltose. Nó thơm nhờ một số lớn các chất dễ bốc hơi. Phổ
sắc ký lỏng tinh dầu chiết xuất phát hiện khoảng 50 hóa chất hữu cơ, trong số đó, hơn 30
chất đã được xác định. Chiếm nhiều nhất là (%) hexenol, bên cạnh đó còn có octan,
hexyl acetat, α-copaen, aceton, furfural, hexanol, methyl butenon, toluen. Những chất
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
6
khác đều dưới 2% nhưng kết hợp với các chất trên cấu thành hương vị của măng cụt.
Ngoài hexyl acetat và hexenyl acetat đặc biệt của măng cụt, mùi trái cây là do các chất
hexenal, hexanol, -bisabolen mà ra, thêm vào mùi xoài với α-copaen, mùi hoa lài với
furfuryl methylceton, mùi huệ dạ hương với phenyl acetaldehyd, mùi cỏ với hexenol,
hexanal, mùi cỏ héo với pyridin, mùi lá ướt với xylen, mùi hoa khô với benzaldehyd,
mùi hồ đào với d-cadinen . Aceton, ethyl cyclohexan đóng góp tính chất dịu ngọt trong
lúc toluen, a-terpinol đem lại mùi đường thắng, methyl butenol, guaien mùi dầu,
valencen đặc biệt mùi mứt cam . Đáng để ý là nếu furfural methylceton cống hiến hương
thơm dễ chịu thì furfural lại cho thoáng vào một mùi hôi khó ngửi. Tóm lại, mùi vị của
măng cụt là kết quả của sự kết hợp phức tạp của nhiều hợp chất khác nhau.
Những nghiên cứu về dược tính của măng cụt gần đây cho thấy măng cụt có
thành phần hóa học khá phức tạp. Các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào vỏ quả.
Thành phần chính đã được xác định là một loạt xanthon mà những chất chính là α-
mangostin, β-mangostin, g-mangostin, những isomangostin, normangostin, bên cạnh
trioxyxanthon, pyranoxanthon, dihydroxy-methyl-butenyl-xanthon, trihydroxy methyl
butenyl xanthon, pyrano xanthenon. Những garcinon A, B, C, D, E, mangostinon,
garcimangoson A,B,C, gartanin, egonol, epicatechin, procyanidin từ măng cụt nguồn
gốc Việt Nam, benzophenon glucosid tuy số lượng ít cũng đã được tìm ra.
Cũng có một vài bản báo cáo trình bày thành phần hóa học của lá măng cụt. Bên
cạnh protein (7,8%), tanin (11,2%), đã xác định được những trihydroxy-methoxy-
methyl-butenyl-xanthon, 2,3-ethyl-methyl-maleimid-glucopyranosid, cùng những
triterpenoid như cycloartenol, friedlin, -sitosterol, betulin, mangiferadiol, mangiferolic
acid, cyclolanostendiol , hydroxy cyclolanostenon .
Từ ruột thân cây, tetrahydroxy xanthon và dẫn xuất O-glucosid của nó cùng
pentahydroxy xanthon, maclurin, cũng đã được tìm ra. Còn tử y thì chứa đựng
mangostin, những calaba xanthon, dihydroxy và trihydroxy–dimethyl-allyl xanthon.
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
7
1.1.5. Đặc điểm sinh thái
Măng cụt là một loại cây đòi hỏi điều kiện thổ nhưỡng khắt khe, cần điều kiện
khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều và không được trồng lên cao quá vĩ tuyến 10 - 15
0
. Cây lớn
rất chậm, sau hai ba năm chỉ cao đến đầu gối, và chỉ bắt đầu cho quả sau 10 – 15 năm
trồng, tuổi thọ cây dài, cây già 60 - 70 năm vẫn ra hoa và kết quả tốt.
Khí hậu: Vì là loại cây nhiệt đới xích đạo, nên măng cụt ưa khí hậu nóng và ẩm
với nhiệt độ khoảng tư 25 - 30
0
C và ẩm độ không khí thấp nhất là 80%. Nhiệt độ thấp
hơn 20
0
C cây tăng trưởng chậm, khi nhiệt độ từ 38
0
C trở lên và dưới 5
0
C có thể làm
chết cây.
Lượng mưa hàng năm thích hợp trên 1.200 mm, phân bố đều trong năm và không
mưa nhiều ở giai đoạn cây mang trái là tốt nhất.
Khi cây còn nhỏ (dưới 5 năm), măng cụt cần râm mát vì vậy phải che bớt ánh
năng trực tiếp bằng vật liệu che chắn hoặc trồng cây che bóng.
Đất: Cây măng cụt có thể sinh trưởng trên nhiều loại đất khác nhau nhưng tốt
nhất là trồng trên đất màu mỡ, giàu hữu cơ, tơi xốp, tầng canh tác dày, ẩm nhưng thoát
nước tốt, gần nguồn nước tốt để có đủ nước tưới trong mùa khô. Đất hơi chua, độ pH từ
5,5 - 7 là thích hợp, không trồng được trên đất phèn, mặn.
1.1.6. Yêu cầu dinh dƣỡng
Tuy cây măng cụt không đòi hỏi nhiều về dinh dưỡng, nhưng nếu được cung cấp
đầy đủ chất dinh dưỡng cây sẽ sinh trưởng và phát triển tốt, tuổi thọ dài, cho năng suất
và chất lượng cao. Giai đoạn cây còn nhỏ và khi đâm chồi cây cần nhiều đạm và lân,
giai đoạn chuẩn bị ra hoa cần lân, khi cây hình thành quả và nuôi quả lớn cần thêm kali
để tăng chất lượng quả. Những nhu cầu về chất vi lượng chưa được thể hiện rõ.
1.1.7. Kỹ thuật trồng trọt
1.1.7.1 Giống
Hiện nay, hầu hết các cây măng cụt được trồng ở các nước vùng nhiệt đới đều bắt
nguồn từ một dòng ban đầu và được trồng từ hạt. Do hạt măng cụt bất thụ và cây con
phát triển từ phôi giả nên ít có biến động về di truyền để tạo thành nhiều giống khác
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
8
nhau. Tuy vậy, trong quần thể cây trồng vẫn có những cây có biểu hiện một số đặc tính
tốt hơn các cây khác và được sử dụng làm nguồn giống để nhân ra.
1.1.7.2 Nhân giống
Măng cụt có thể nhân giống bằng các phương pháp như ghép và cắt cành nhưng
ít được sử dụng trong sản xuất vì sức chịu đựng kém, cây mau già cỗi, mặc dù cây sớm
cho trái.
Phương pháp nhân giống chủ yếu là bằng hạt vì phương pháp này dễ làm, cho số
lượng cây nhiều và đặc biệt là vẫn giữ được đặc tính tốt của cây mẹ chứ không bị biến
dị nhiều như phần lớn những giống cây ăn trái khác. Phương pháp này tuy thời gian cho
trái lâu (thường từ 8 - 10 năm, có khi lâu hơn), nhưng hiện nay có thể khắc phục nhược
điểm này bằng cách kéo dài thời gian trong vườn ươm, để khi trồng cây nhanh cho trái
hơn, đồng thời trồng xen một số cây khác trong những năm đầu để có thêm thu hoạch.
Chọn trái to, tròn đều và chín đầy đủ từ những cây tốt đã được chỉ định làm
giống. Từ những trái này chọn những hạt to, mẩy và nặng. Hạt măng cụt nhanh mất sức
nảy mẩm vì vậy sau khi lấy hạt đã được chọn ngâm vào nước để rửa sạch phần xơ và
thịt bám quanh vỏ hạt, trải hạt lên giá cho ráo nước rồi đem ngâm vào các loại thuốc
ngừa nấm bệnh trong vài phút thì phải đem gieo ngay.
Hạt có thể được gieo trên liếp ươm hoặc trong bầu. Đất gieo hạt cần phải tơi xốp,
thoát nước tốt, trộn them đất cát, tro trấu hoặc xơ dừa và chất hữu cơ. Nơi gieo hạt cần
được che mát và tưới nước giữ ẩm thường xuyên, hạt gieo sâu khoảng 1 cm. Sau khi
gieo 20 - 30 ngày thì hạt nảy mầm. Khi cây được 2 lá thật, đánh ra ươm tiếp trên liếp
hoặc bầu mới, cần loại bỏ bớt cây xấu. Đất trên liếp ươm phải làm kỹ, bón phân đầy đủ
để cây con phát triển tốt. Khoảng cách cây trên liếp 30 - 40 cm. Nếu ươm trong bầu thì
bầu phải lớn hơn, khoảng 20 x 35 cm để rễ có thể phát triển thuận lợi. Sau khoảng 1
năm, nếu chăm sóc tốt cây cao 30 - 35 cm có thể để nguyên trên liếp ươm hoặc chuyển
sang bầu mới có kích thước lớn hơn. Tiếp tục ươm 1 năm nữa, cây cao 40 - 60 cm thì có
thể mang ra trồng cố định trong vườn hoặc làm gốc ghép.
Trong quá trình ươm cần bón thêm phân hữu cơ hoai mục, tưới nước đầy đủ và
che nắng cho cây, 2 tháng 1 lần tưới nhẹ phân NPK (15 : 15 : 15) hoặc urê và lân pha
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
9
loãng. Cần giữ bóng râm cho cây trong suốt thời gian ươm vì cây con chịu nắng rất yếu.
Ngoài ra cũng cần phải thường xuyên theo dõi, phát hiện và phòng trừ sâu bệnh kịp thời.
Nếu mua cây giống ở ngoài thì cần chọn mua ở những nơi đáng tin cậy, rõ nguồn
gốc và chọn những cây giống tốt, đạt tiêu chuẩn.
1.1.7.3 Thời vụ và khoảng cách trồng
Cây măng cụt có thể trồng được quanh năm nhưng tốt nhất nên trồng vào đầu
mùa mưa để đất có đủ độ ẩm và giảm chi phí tưới cho cây trong thời gian đầu. Có thể
giữ cây con trong vườn ươm để trồng vào thời vụ thích hợp vẫn tốt hơn là trồng vào
mùa khô.
Cây măng cụt là cây than gỗ cao lớn, tán lá rộng, thời gian sinh sống lâu năm nên
cần trồng thưa với khoảng cách xa nhau để vườn cây được thông thoáng, cây khỏe
mạnh, khoảng cách cây 8 - 10 m. Trong những năm đầu cây còn nhỏ, chậm phát triển
cần có cây trồng xen để tận dụng đất và che bóng râm.
1.1.7.4 Cách trồng
Chuẩn bị đất trồng: Ở những vùng cao và Đông Nam Bộ cần đào giếng hoặc
lập hồ chứa nước để tưới trong mùa khô và xẻ rãnh cho nước tiêu thoát tốt trong mùa
mưa nhằm tránh hiện tượng cây bị ngập úng cục bộ. Tùy theo địa hình từng nơi mà
khoảng cách và độ sâu của rãnh thay đổi khác nhau, rộng 0,5 - 1 m, sâu ít nhất 1 m.
Ở ĐBSCL và những nơi đất thấp thì cần đào mương lên liếp để trồng nhằm tăng
độ dày tầng canh tác, thoát nước trong mùa mưa và cung cấp nước tưới trong mùa khô.
Nếu trồng hang đơn thì mặt liếp rộng 5 - 6 m, trồng hàng đôi thì mặt liếp rộng 9 - 10 m.
Bề rộng mương khoảng ½ bề mặt liếp.
Ở những địa phương thường bị ảnh hưởng bởi nước lũ, cần có hệ thống đê bao
quanh, nhưng cũng cần có hệ thống đê bao quanh, nhưng cũng cần có hệ thống tiêu
thoát nước khi cần thiết.
Cách trồng: Những nơi đất cao đào hố trước khi trồng, hố đào với kích thước
mỗi chiều 60 - 80 cm, sâu khoảng 60 cm. Bón lót cho mỗi hố 10 Kg phân chuồng hoai
mục, 0,5 kg NPK (16 : 16 : 8), 0,5 Kg vôi bột.
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
10
Sau khi lên liếp, thấy mặt liếp còn thấp cần đắp mô để trồng. Mô cao hơn mặt
liếp khoảng 0,3 - 0,5 m, đường kính khoảng 1 m, đào hố trên mô, bón lót phân để trồng.
Khi cây ươm được 2 năm trở lên, đạt tiêu chuẩn mới đưa ra vườn trồng. Khi
bứng cây con ở liếp ươm cần cẩn thận nhằm bảo vê bộ rễ, lúc đặt cây con vào hố tránh
làm vỡ bầu đất. Không để rễ tiếp xúc trực tiềp với phân bón, lấp đất quanh gốc cây. Sau
khi trồng xong cần cắm cọc để giữ cây khỏi đổ ngã, tưới nước ngay sau khi trồng. Dùng
rơm rạ, cỏ khô ủ quanh gốc để giữ ẩm.
1.1.7.5 Che bóng râm và trồng xen
Măng cụt là loại cây ưa bóng, nhất là khi còn nhỏ. Cần che bóng cho cây trong 4
- 5 năm đầu, bị nắng quá là sẽ héo, cây chậm phát triển và có thể chết. Thường dùng các
vật liệu như lá dừa, lá chuối, lưới nilong che sang, rơm rạ làm mái che cho cây hoặc
trồng xen cây che bóng tạm thời như chuối, so đũa có thể hạn chế được 40 - 50 % ánh
sáng mặt trời ảnh hưởng trực tiếp đến cây nhất là trong hai năm đầu sau khi trồng ra
vườn. Cây trồng xen cách gốc măng cụt khoảng 2 m ở 4 hướng hoặc chỉ cần trồng 2
hướng Đông và Tây là được.
Có thể trồng xen măng cụt vào trong vườn đã trồng dừa hoặc nhãn. Nếu vị trí nào
chưa che bóng đúng yêu cầu thì vẫn phải dùng mái che hoặc trồng cây che bóng tạm
thời cho cây con. Không cần trồng xen khi cây đã trưởng thành lúc 8 - 10 năm tuổi.
Trồng xen cũng cần phải đảm bảo mật độ và đúng cách trồng. Ở những nơi đất cao, gió
nhiều nên trồng thêm cây chắn gió để tránh làm hư quả và thêm bóng râm.
1.1.7.6 Chăm sóc
Tủ gốc giữ ẩm: Sau khi trồng dùng rơm rạ hoặc cỏ khô phủ kín phần đất trên mô
trồng một lớp dày khoảng 10 - 20 cm và cách xa gốc cây khoảng 10 - 20 cm. Biện pháp
này rất hữu hiệu nhất là trong mùa khô để giảm bớt sự bốc thoát hơi nước.
Phòng trừ cỏ dại: Những năm đầu khi cây còn nhỏ chưa khép tán thì cỏ dại phát
triển mạnh, cần làm sạch cỏ, nhất là xung quanh gốc trong phạm vi tán cây. Chú ý
không làm tổn thương rễ cây. Khi cây lớn có thể để 1 lượng cỏ nhất định trên mặt liếp
để giữ ẩm và hạn chế xói mòn. Nên diệt cỏ bằng những phương pháp thủ công hoặc
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
11
dùng máy cắt cỏ. Khi cỏ quá nhiều cũng có thể dùng các loại thuốc trừ cỏ như:
Glyphosate, Gramoxone,
Bồi liếp: Khoảng cách giữa mặt liếp và mực nước mương trong vườn măng cụt ít
nhất là khoảng 50 - 60 cm. Vào mùa nắng hàng năm cần vét bùn ở mương bồi lên mặt
liếp nhằm nâng cao mặt liếp và cung cấp thêm chất dinh dưỡng cho cây. Không nên bồi
bùn quá dày sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của rễ cây, chỉ cần một lớp bùn mỏng
khoảng 3 - 5 cm để sau vài ngày thì lớp bùn này sẽ khô và nứt ra tạo được sự thông
thoáng cho vùng rễ cây.
Tỉa cành tạo tán: Phải làm sớm và thường xuyên để có được tán cây cân đối và
thông thoáng nhằm cho năng suất cao. Khi cây còn nhỏ cần tỉa bỏ những cành mọc dày
đặc, cành vượt, cành yếu, cành bị sâu bệnh, chỉ giữ lại những cành mọc ngàng khỏe
mạnh. Khi cây đã lớn cho trái, sau mỗi vụ phải tỉa bỏ những cành bị sâu bệnh, cành già
không còn khả năng cho trái, những cành vô hiệu nằm trong tán cây. Những ngọn quá
cao hoặc quá dài cũng cần cắt bỏ để thu hẹp tán cây, tránh cho cây giao nhau quá, nhằm
giúp cây ra đọt nhanh, nhiều và đồng loạt hơn, tạo thuận lợi cho sự phát triển của trái.
Khi cây cao 8 - 10 m có thể cắt ngọn để giảm chiều cao cây và tán ngang dễ phát triển.
Việc tỉa cành và tạo tán cho cây măng cụt cần tiến hành nay sau đợt bón phân lần
thứ nhất và phải được thực hiện trong vòng 1 tuần lễ để giúp cây có đủ dinh dưỡng ra
chồi khỏe và đồng loạt.
1.1.7.7 Tưới nước
Nhu cầu nước của cây măng cụt rất lớn nhưng vì bộ rễ lai kém phát triển và
không có lông hút nên khi tiếp xúc với đất khó hút nước, vì vậy cần tưới nước và chăm
sóc thường xuyên.
Khi cây còn nhỏ, nhất là trong những tháng mùa khô phải tưới đủ nước để giảm
tỷ lệ cây chết, giúp cây khỏe mạnh, nhanh phát triển. Nhưng nếu cây con bị ngập úng sẽ
chết nên cần chú ý thoát nước tốt cho vườn cây.
Khi cây ra hoa kết trái thường vào mùa khô, cần tưới nước thường xuyên, nếu
được có thể tưới cách ngày sẽ giúp hoa phát triển tốt, đậu trái nhiều và trái nhanh phát
triển. Nếu thiếu nước ở giai đoạn này thì hoa sẽ rụng nhiều, trái nhỏ, giảm chất lượng.
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
12
1.1.7.8 Bón phân
a. Giai đoạn cây chưa cho trái
* Bón lót: Mỗi năm bón 5 - 10 Kg phân chuồng hoai mục và 1 - 2 Kg phân hữu
cơ khoáng Compomix Đầu trâu cho mỗi cây. Trộn đều phân với lớp đất rồi cho vào hố
trước khi đặt cây (đối với cây chuẩn bị trồng) hoặc xới đất theo hình chiếu tán cây, bón
phân xuống rồi vùi lấp phân.
* Bón thúc: Măng cụt thời kỳ kiến thiết cơ bản có thể dùng phân NPK (tỷ lệ 20 :
20 : 15) + TE hay N:P:K:S (16:16:8:13) Đầu trâu. Liều lượng bón tùy theo tuổi cây như
sau:
Năm thứ 1 : 0,5 Kg/cây/năm
Năm thứ 2 : 0,75 - 1 Kg/cây/năm
Năm thứ 3 : 1 - 1.25 Kg/cây/năm
Năm thứ 4 : 1,25 - 1,5 Kg/cây/năm
Năm thứ 5 : 1,5 - 2 Kg/cây/năm
Lượng phân trên có thể chia ra làm 3 - 4 lần bón/năm. Có thể hòa phân vào nước
để tưới hoặc bón vào đất. Nếu bón vào đất cần xới đất vòng theo tán cây, bón đều quanh
gốc rồi lấp đất lại và tưới nước.
b. Giai đoạn cây cho trái
Thời điểm bón và loại phân bón: Thường chia làm 3 - 4 lần bón trong năm: Sau
khi thu hoạch, trước khi ra hoa, sau khi đậu trái và lúc lứa trái đầu tiên lớn bằng ngón
tay cái. Cũng có thể ghép 2 lần bón sau làm một tùy theo điều kiện cụ thể từng nơi.
Lần 1: Ngay sau khi thu hoạch xong phải tỉa bớt các cành già cỗi, cành bị
sâu bệnh, cành ốm yếu trong tán, lúc này cần sử dụng phân vô cơ có hàm
lượng đạm cao nhằm giúp cây nhanh ra lá mới. Bón cho mỗi cây 20 - 30
Kg phân chuồng hoai mục và 1 - 3 Kg phân Đầu trâu AT hoặc N: P: K
(13:13:13) + TE Đầu trâu kết hợp với phun phân bón lá Đầu trâu 005 hoặc
502.
Cũng có thể bón phân hữu cơ kết hợp phân vô cơ N: P: K 20:20:10 hoặc N: P: K:
S 16:16:8:13.
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
13
Lần 2: Trước khi cây ra hoa 30 - 40 ngày, giai đoạn này nên sử dụng phân
vô cơ có hàm lượng lân và kali cao. Trong giai đoạn này tránh bón nhiều
phân đạm vì nhiều đạm sẽ làm cho cây ra lá nhiều hơn ra hoa. Lượng phân
bón khoảng 2 - 4 Kg DAP + 2 - 4 Kg KCl. Kết hợp với phun phân bón lá
Đầu trâu 007 hoặc 702.
Lần 3: Sau khi đậu quả (đường kính quả khoảng 2 cm), tăng lượng kali để
tăng phẩm chất trái. Lượng phân bón là 2 - 4 Kg NPK 15-15-20, kết hợp
với phun phân bón lá Đầu trâu 009 hoặc 902.
Lượng phân bón nhiều hay ít căn cứ vào tuổi cây, độ lớn của tán cây, đất xấu
hoặc tốt, sau năm trúng mùa bón nhiều hơn năm tất mùa. Nếu cây phát triển chậm bón
thêm phân Ure. Phương pháp bón là xới đất quanh gốc theo tán cây rồi rải phân lấp đất.
Việc phun thêm phân lá có NPK và các chất vi lượng để giúp cây sinh trưởng
đièu hòa, tăng năng suất và chất lượng quả. Mỗi giai đoạn chủ yếu như trên phun 2 - 3
lần cách nhau 7 - 10 ngày.
1.1.7.9 Xử lý ra hoa
Xử lý cho măng cụt ra hoa sớm, đúng thời điểm, được giá và tránh khi trái chín
gặp mưa, hạn chế hiện tượng chảy nhựa thối trái (bệnh sinh lý : bệnh xì mủ quả).
Sau khi thu hoạch xong cần tiến hành tỉa cành, bón phân ngay để cây ra đọt vào
khoảng tháng 8 - 9. Nếu như cây vẫn chậm ra đọt có thể phun thêm phân Ure lên lá với
liều lượng 100 - 200 g/ 20 lít nước hoặc Thiourea 95 % nồng độ 30 g cho 10 lít nước.
Phun Thiourea cây sẽ ra hoa đồng loạt hơn Ure nhưng nếu dùng với nồng độ cao sẽ gây
hiện tượng rụng lá, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây. Khi đọt ra được khoảng 9 -
10 tuần thì tiến hành rút nước tạo khô trong thời gian 3 - 4 tuần. Đến khi lá non có biểu
hiện héo. Đọt non hơi móp lại thì cho nước vao mương và tưới thật đẫm nước 1 - 2 lần,
mỗi lần cách nhau 7 ngày, sau đó cây sẽ ra hoa. Nếu cây chưa ra hoa thì phải tạo khô
hạn và tưới nuóc trở lại như lần trước.
1.1.7.10 Bệnh xì mủ quả ở măng cụt
Là một căn bệnh sinh lý phổ biến và gây tác hại rõ rêt ở các vùng trồng măng cụt.
Quả bị bệnh bên ngoài trông bình thường nhưng phía trong vỏ bị bị xì mủ vàng làm thịt
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
14
quả chỗ đó bị thối, có vị chua, không ăn được. Bệnh nhẹ thì một phần múi bị thối, bệnh
nặng có thể làm thối cả quả. Khi quả sắp chín gặp trời mưa nhiều thì tỷ lệ quả bị bệnh
càng cao.
Biện pháp phòng trừ: vườn cây cần có chế độ thoát nước tốt , không để ẩm ướt
quá nhiều. Chăm sóc hoặc xử lý cho cây ra hoa sớm và quả chín trước mùa mưa.
1.1.8. Hiện trạng xuất nhập khẩu măng cụt ở nƣớc ta
Măng cụt là loại trái cây nhiệt đới rất ngon và bổ được trồng phổ biến ở 2 vùng
ĐBBSCL và ĐNB, trong đó trồng chủ yếu ở ĐBSCL với diện tích khoảng 4,9 ngàn ha,
cho sản lượng khoảng 4,5 ngàn tấn. Tỉnh Bến Tre là nơi có diện tích tập trung lớn nhất,
đạt 4,2 ngàn ha (chiếm 76,8% diện tích cả nước).
Việc mở rộng diện tích loại cây này hiện nay đang gặp nhiều trở ngại do thời
gian kiến thiết cơ bản dài, là cây thân gỗ lớn, chiếm nhiều diện tích đất và chỉ thích hợp
với đất mầu ở các cù lao. Kể từ khi trồng đến lúc thu hoạch được cũng mất tới 10 năm.
Sau đó cây ra trái mỗi mùa, suốt hơn trăm năm. Mùa vụ măng cụt từ tháng 4- 6 âm lịch
hàng năm. Tuy gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng diện tích trồng nhưng măng cụt
thuộc loại quả quý hiếm trên thị trường. Có lúc giá măng cụt lên tới 40.000-45.000
đồng/kg tùy loại.
Mặc dù điều kiện tự nhiên nước ta tương đối thuận lợi để phát triển sản xuất và
xuất khẩu măng cụt nhưng một thực tế hiện nay là mặc dù nhiều nhà vườn đã áp dụng
những biện pháp canh tác tiến bộ nhưng trái măng cụt Việt Nam chưa thực sự hấp dẫn;
trái to, trái nhỏ không đồng đều; sắc vỏ màu nâu mét, thường bị lấm tấm xì mủ vàng,
cuống trái héo hon. Bên trong, nhiều trái có múi ngọt thanh nhưng cũng có những trái bị
sượng, phần thịt cứng chát hoặc úng nước chua Các chủ kinh doanh lớn ở chợ đầu mối
Chu Văn An - TP.HCM cho biết, măng cụt Việt Nam xấu mã nên kém ăn khách do nhà
vườn thiếu chăm sóc trái cẩn thận từ khi mới kết quả. Đến khi thu hoạch thì đổ đống
tràn lan. Thương lái thu mua măng cụt còn thói quen đựng hàng bằng cần xé, giỏ bội,
đậy đệm qua loa. Vận chuyển thì chồng chất bừa bãi. Đến chợ, đổ đống ra bán trái còn
nguyên vẹn, trái bị móp méo, trái bầm dập, kém hấp dẫn nên mất giá.
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
15
Một thực tế của ngành sản xuất măng cụt của nước ta hiên nay là: không những
chưa phát huy được tối đa tiềm năng xuất khẩu loại trái cây đặc sản này mà chúng ta vẫn
phải nhập khẩu lượng lớn măng cụt từ Thái Lan. Theo số liệu thống kê của Tổng cục
Hải quan, kim ngạch nhập khẩu măng cụt từ Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc (trong
đó chủ yếu nhập khẩu từ Thái Lan) trong những tháng đầu năm 2007 đạt khá cao. Cụ
thể, trong tháng 01/07 các doanh nghiệp đã nhập khẩu 135,5 tấn măng vụt, đạt kim
ngạch gần 130 nghìn USD; nhập khẩu mặt hàng này trong tháng 02 và tháng 03 tương
ứng đạt 138 tấn và 108 tấn (kim ngạch 122 nghìn USD và 51 nghìn USD). Hầu hết các
lô hàng măng cụt nhập khẩu vào nước ta qua cửa khẩu Tịnh Biên, Sa Mát, Hoa Lư thời
gian này với giá dao động từ 700 đến 1000USD/tấn (DAF). Chỉ tính riêng trong 2 tuần
đầu tháng 04/2007, mặc dù đã bắt đầu vào vụ thu hoạch chính nhưng đã có 508 tấn
măng cụt nhập khẩu vào nước ta qua đường chính ngạch, đạt kim ngạch trên 480 nghìn
USD.
Hầu như măng cụt Thái Lan "lấn sân" quanh năm. Từ đầu tháng 4 âm lịch đã rộ
lên hàng Thái. Măng cụt Thái bao gói cẩn thận, đóng thùng định lượng chu đáo. Trái to
vừa, đều đặn. Vỏ màu nâu sậm, tươi thắm, ít bị xì mủ, cuống lại tươi xanh. Bên trong,
múi to đều, thịt trái không bị sượng hoặc úng nước, vị ngọt thanh, hạt nhỏ mềm.
Các nhà vườn trồng măng cụt của ta nên nghiên cứu “cách làm ăn” của người
Thái. Rõ ràng, họ canh tác bài bản chuyên nghiệp hơn, giá thành thấp hơn. Còn ta, măng
cụt mẫu mã chưa đẹp, giá thành cao.
Đứng trước tình hình này, một số địa phương đã bắt đầu tập trung đầu tư cho
công tác sản xuất, bảo quản và tiêu thụ măng cụt ở Việt Nam cũng đã có những bước
khởi sắc. Điển hình như ở huyện Cầu Kè- tỉnh Trà Vinh, hiện Cầu Kè có hơn 250 ha
trồng măng cụt với trên 50.000 gốc, trong đó có khoảng 30% diện tích đang cho trái.
Với số diện tích đang cho trái, hàng năm nhà vườn thu về trên 12 tỉ đồng. Trước đây,
cũng có một vài đơn vị đến tận nhà vườn đặt vấn đề hợp đồng thu mua sản phẩm, nhưng
nhà vườn không thể nhận lời, vì chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, mùa vụ.
Từ cuối năm 2005, huyện Cầu Kè đã thành lập được Hợp tác xã trồng măng cụt,
với 31 thành viên, có diện tích 30 ha để tiến tới đứng ra ký kết hợp đồng cung ứng sản
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tổng Quan Tài Liệu
16
phẩm với số lượng lớn cho thị trường. Hợp tác xã măng cụt Tân Thành đã được thành
lập 2 năm, tạo điều kiện liên kết những nhà vườn ở Tân Qui- Huyện Cầu Kè - Tỉnh Trà
Vinh, hình thành những khu vườn cây ăn trái có quy trình kỹ thuật chăm sóc đạt tiêu
chuẩn trái cây sạch, an toàn và chất lượng. Hiện nay mỗi năm hợp tác xã cung ứng cho
thị trường trên 250 tấn trái. Điều đáng mừng là từ khi thực hiện kiên kết trong hợp tác
xã, giá trị của sản phẩm trái măng cụt đã tăng lên. Mỗi năm thương lái hợp đồng mua
100 tấn, chiếm 45% sản lượng măng cụt của hợp tác xã. Vườn măng cụt của xã viên đạt
mức thu nhập bình quân là 70 triệu đồng/ha.
Mặt ưu điểm thứ 2 là hợp tác xã măng cụt Tân Thành đã chính thức là thành viên
GAP- Sông Tiền (Sản xuất trái cây an toàn theo tiêu chuẩn Quốc tế) gồm 7 tỉnh, thành
phố tham gia. Đây cũng là điều kiện để đưa thương hiệu măng cụt Tân Thành vươn xa
hơn. Do đặc điểm cây măng cụt có thời gian trồng đến thu hoạch khá dài, từ 7 năm đến
8 năm mới cho trái, sau 15 năm thì năng suất thu hoạch mới ổn định ở mức từ 6 tấn đến
7 tấn trái/ha. Vì vậy, xây dựng thương hiệu cho cây măng cụt Tân Thành ngay từ bây
giờ là bước chuẩn bị thích hợp trong quá trình hội nhập của trái cây nơi đây.
Trong “Đề án Phát triển Sản xuất và Xuất khẩu rau hoa quả tươi của Việt Nam”
Bộ Thương mại cũng khẳng định măng cụt được xếp vào 1 trong 11 loại trái cây có lợi
thế cạnh tranh của nước ta và đang được tập trung đầu tư phát triển. Vì vậy, tìm giải
pháp pháp huy năng suất cây trồng trong nước, bảo đảm cung cấp ra thị trường những
trái măng cụt chất lượng cao phục vụ tiêu dùng và tăng xuất khẩu là bài toán cho ngành
trái cây Việt Nam hiện nay.
1.1.9. Tiêu chuẩn xuất khẩu
Trái có trọng lượng > 80 g
Ngoại hình đẹp, vỏ không bị trầy xước.
Không có vết chích của côn trùng. không có vết bệnh.
Cuống trái còn nguyên.
Không có bất cứ tồn dư thuốc hóa học nào trên ngưỡng cho phép để đảm bảo sức
khỏe người tiêu dùng.