Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.07 MB, 60 trang )

5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
LỜI CẢM TẠ
Trước hết con xin khắc ghi công ơn cha mẹ đã nuôi lớn và dạy dỗ con được
như ngày hôm nay.
Chân thành cảm tạ:
- Ban Giám Hiệu, Ban Chủ Nhiệm khoa Môi Trường & Công Nghệ Sinh
Học cùng tất cả quý thầy cô Trường Đại Học Kỹ Thuật Công Nghệ đã tận
=nh giảng dạy, truyền đạt kiến thức và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt thời gian theo học tại trường
- Thầy Nguyễn Tiến Thắng, thầy Hứa Quyết Chiến đã tận =nh hướng dẫn,
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
- Anh Lê Ngọc Thạch cùng quý thầy cô, anh chị ở Viện Sinh Học Nhiệt
Đới, các bạn phòng Các Chất Có Chứa Hoạt Chất Sinh Học đã giúp đỡ,
chỉ dẫn tôi rất nhiều trong suốt quá trình thực tập.
- Chú Lê Bá Xoan, chú Chuyền đã cung cấp cho giống Wêu và vườn Wêu
để xây dựng các mô hình thực nghiệm trong qúa trình thực hiện đề tài.
- Chú Bùi Quang Chánh và anh Trung, anh Hải cùng toàn thể anh chị tại
Trạm Bảo Vệ Thực Vật huyện Phú Giáo tỉnh Bình Dương đã cung cấp
thông Wn cho đề tài.
- Sự động viên, hỗ trợ và thân ái của các bạn sinh viên cùng khóa, bạn bè
thân hữu đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tại trường và hoàn thành
đề tài.

Tp. Hồ CHí Minh, tháng 6 năm 2009
Sinh viên thực hiện
Võ Đình Khải
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
LỜI MỞ ĐẦU
Cây hồ tiêu (Pipe nigrum L.) là cây công nghiệp có giá trò kinh tế cao, là


nguồn thu nhập chính cho nhiều hộ gia đình trong cả nước. Hạt tiêu là một loại
gia vò rất được ưa chuộng ở nhiều nơi trên thế giới. Hạt tiêu có vò cay, mùi thơm
hấp dẫn nên được sử dụng làm gia vò cho nhiều món ăn. Ngoài ra tiêu còn được
dùng trong công nghiệp chế biến hương liệu, nước hoa và y dược. Hiện nay, tiêu
là mặït hàng xuất khẩu có giá trò kinh tế và mang lại nguồn lợi nhuận cao. Những
năm gần đây diện tích tiêu không ngừng gia tăng nhất là vùng miền Đông Nam
Bộ và Tây Nguyên. Cùng với việc gia tăng về sản lượng tiêu xuất khẩu, các vườn
tiêu không ngừng bò áp lực dòch bệnh đe dọa. Trong đó, bệnh chết nhanh dây tiêu
do nấm Phytophthora spp. gây ra là một tai họa cho các vườn tiêu nguyên liệu có
diện tích lớn của cả nước. Bệnh xuất hiện và lây lan rất nhanh, thường làm tiêu
chết hàng loạt, ảnh hưởng rất lớn đến năng suất. Trước tình hình này, cần có biện
pháp phù hợp để hạn chế dịch bệnh, đảm bảo năng suất cho nhà vườn.
Hiện nay tổn thất do nấm Phytophthora spp. gây ra trên tiêu vẫn chưa có biện
pháp phòng trừ thích hợp. Người dân chủ yếu sử dụng thuốc hoá học làm biện
pháp chính để hạn chế dòch bệnh. Tuy đầu tư về thuốc hoá học rất cao nhưng dòch
bệnh vẫn tràn lan, làm tiêu chết nhanh hàng loạt, thậm chí có vườn bò mất trắng
năng suất. Việc sử dụng thuốc hoá học còn dẫn đến một loạt các hậu quả mà con
người và thiên nhiên phải gánh chòu như các vấn đề về ô nhiễm môi trường, sức
khoẻ con người và thiên nhiên, dư lượng thuốc ảnh hưởng đến nông nghiệp làm
cho tác nhân gây bệnh trở nên kháng thuốc, các loài thiên đòch bò tiêu diệt gần
hết.
Vì vậy chiến lược phát triển của công tác bảo vệ thực vật hiện nay là cần quan
tâm đến các vấn đề bảo vệ môi trường, sinh thái học và sức khỏe con người, đồng
thời giảm bớt việc sử dụng bừa bãi thuốc hoá học. Trước tình hình đó, biện pháp
phòng trừ bệnh hại bằng sinh học đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nguyên
cứu.
Nhiều tác nhân ký sinh, đáng chú ý là một số loại nấm, chúng có thể đối
kháng trên một số bệnh hại gây ra tổn thất cho cây trồng. Hơn nữa, chúng không
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu

những ngăn chặn được một số bệnh hại trên đồng ruộng mà còn bảo vệ được
những loài thiên đòch bản xứ trong tự nhiên như động vật ăn thòt, ký sinh và côn
trùng có ích, vừa ngăn chặn được dòch hại lại đảm bảo tốt cho sức khỏe con người
và môi trường Hiện nay đang áp dụng phương pháp phòng trừ tổng hợp IPM và
bằng biện pháp sinh học. Trong hai biện pháp vừa nêu thì biện pháp phòng trừ
bằng các tác nhân sinh học giữ vai trò chỉ đạo trong giai đoạn hiện nay. Phòng trừ
bệnh hại bằng biện pháp sinh học chủ yếu là khai thác và sử dụng khả năng đối
kháng của một số loại nấm đối với các loại nấm gây hại cho cây trồng. Hiện nay
có nhiều công trình nguyên cứu về chế phẩm sinh học trong đó có nấm
Trichoderma, vi khuẩn Bacillus, nấm men Saccharomyces. Sản xuất ra chế phẩm
từ loại nấm này để hạn chế nấm gây hại cho cây trồng như nấm Rhizoctonia,
Sclerotium, Fusarium, Pythium gây bệnh trên lúa, ngô và một số cây trồng khác.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Khảo sát, đánh giá
một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu”
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HỒ TIÊU
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
1.1.1 Nguồn gốc và lòch sử phát triển
Cây tiêu có nguồn gốc ở Tây Nam n Độ, mọc hoang dại ở các cánh rừng
nhiệt đới ẩm ở vùng Ghast Tây và Assam. Từ thế lỷ XIII, tiêu được canh tác trên
diện rộng và sử dụng rộng rãi trong các bữa ăn hàng ngày. Sau đó, cây tiêu được
trồng lan rộng ra nhiều nước khác nhau ở Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Sri
Lanka và Campuchia.
Từ cuối thế kỷ XIX cây tiêu bắt đầu được trồng ở châu Phi như Madagasca,
Nigeria, Congo, Cộng Hòa Trung Phi
Ở châu Mỹ, Brazil là nước canh tác tiêu nhiều nhất với nguồn giống được đưa

vào từ Singapore.
Ở Đông Dương (Việt Nam và Campuchia), cây tiêu mọc hoang dại được tìm
thấy từ trước thế kỷ XVI nhưng tới thế kỷ XVII mới có các giống mới được đưa
vào trồng, và bắt đầu từ thế kỷ XIX mới được canh tác qui mô ở vùng Hà Tiên-
Việt Nam và vùng Kampot-Campuchia.
Theo thống kê của FAO, cây tiêu được sản xuất khắp thế giới bắt đầu từ thế
kỷ XIX, cho đến nay trên đến nay trên thế giới có khoảng 70 quốc gia trồng tiêu,
các nước đứng đầu về diện tích và sản lượng có ảnh hưởng lớn đến thò trường thế
giới gồm: Brazil, n Độ, Việt Nam, Indonesia và Malaysia chiếm 90% sản lượng
của toàn thế giới.
Theo Phan Quốc Sủng (2000): theo Ủy ban Hồ tiêu Quốc tế xác nhận Việt
Nam đứng vào hàng thứ tư của các nước đứng đầu về sản xuất hồ tiêu trên thế
giới theo thứ tự: n Độ, Indonexia, Malaysia, Việt Nam, Brazil và Sri Lanka.
Trong tháng 6 năm 1999, theo Dow Jones xác nhận Việt Nam có số lượng xuất
khẩu hạt tiêu ước đạt 24.890 tấn, đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau n Độ. Trong
tháng 11 năm 1999, Việt Nam xuất khẩu đạt 26.400 tấn đứng vò trí thứ ba sau n
Độ và Indonesia. Theo thông tin của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn,
6 tháng đầu năm 2001 và 2002 Việt Nam vượt lên đứng đầu về xuất khẩu hồ tiêu
trên thế giới. Trong những năm gần đây do giá tiêu tăng đột ngột và ưu điểm của
hạt tiêu là dễ bảo quản, bảo quản được lâu hơn so với các mặt hàng nông sản
khác nên diện tích trồng tiêu của nước ta đã không ngừng gia tăng đặc biệt là ở
miền Nam, các tỉnh miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu

1.1.2. Đặc điểm thực vật học và phân loại
1.1.2.1 Phân loại khoa học
Giới (regnum) : Plantae
Ngành (divisio): Magnoliophyta
Lớp (class) : Magnoliopsida

Bộ (ordo) : Piperales
Họ (familia) : Piperaceae
Chi (genus) : Piper
Loài (species) : P.nigrum
Tên hai phần : Piper nigrum Hình 1.1 Cây hồ tiêu với quả chưa chín
Cây tiêu (có tên khoa học là P.nigrum L, tên tiếng Anh: black pepper,
Madagasca pepper, pepper, white pepper) thuộc họ Piperaceae. Họ tiêu có
khoảng 75 loài, ở Việt Nam gồm toàn các cây thân thảo là cỏ nhỏ hoặc dây bò
leo bằng rễ bám như: rau càng cua (Peperomia pellucida Kunth), dây trầu (Piper
betle L.), tiêu dội hay tiêu long (Piper retrofractum Vahl.), lá lốt (Piper
sarmentosum Roxb.)…
1.1.2.2 Đặc điểm thực vật học
Hồ tiêu là một loại dây leo, thân thảo mềm, thân dài và nhẵn không mang
lông, cấu tạo bởi nhiều mạch gỗ-liber, bám vào vật đỡ bằng rễ. Ở trạng thái tự
nhiên cây cao từ 8-10 m nhưng ở vườn trồng người ta không để nó vượt quá 3-4
m. Thân mọc cuốn, mang lá mọc cách. Lá tiêu trông như lá trầu không nhưng dài
và thuôn hơn, lá có 5 gân hình lông chim, chiều dài lá từ 10-25 cm, rộng từ 5-10
cm. Ngoài rễ chính và rễ phụ dưới đất, cây tiêu còn có rễ bám (hay rễ thằn lằn),
dùng để bám vào cây khác, nọc tiêu, vách đá. Cành có ba loại cành: cành tược,
cành lươn và cành ác (cành cho trái). Cành cho trái ngắn, mọc khúc khuỷu và
lóng rất ngắn, đối với tiêu đang cho trái thì cành tược và cành lươn thường được
cắt bỏ vì nó tiêu hao nhiều dinh dưỡng. Đối chiếu với lá là một cụm hoa hình
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
đuôi sóc, khi chín sẽ rụng cả chùm. Hoa tiêu màu vàng xanh nhạt, không có bao
hoa, hoa được đính trên gié hoa dài từ 7-10 cm, mỗi gié có từ 20-60 hoa tạo ra 20-
30 quả. Trên cây tiêu đang ra hoa, nhi đực tung phấn trong vòng 10 ngày và hạt
phấn sống được khoảng 2-3 ngày. Trái tiêu thuộc loại trái hạch không có cuống,
mang một hạt dạng hình cầu, đường kính từ 4-8 mm. Trái tiêu lúc đầu có màu
xanh lục, sau ngả vàng và khi chín có màu đỏ. Mỗi một quả có một hạt duy nhất.

Thời gian từ khi xuất hiện hoa cho đến khi trái chín kéo dài khoảng 7-8 tháng.
Đốt cây rất giòn, khi vận chuyển nếu không cẩn thận làm đứt đốt thì cây có thể
chết.

Hình 1.2 Cây hồ tiêu trưởng thành Hình 1.3 Gié

5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu

Hình 1.4 Chùm tiêu còn non Hình 1.5 Quả tiêu chín

1.1.3. Một số giống tiêu phổ biến và điều kiện canh tác
1.1.3.1 Giống
Giống tiêu lá cỡ trung bình
Nguồn gốc có thể từ giống Lada Belangtoeng, giống này có nguồn gốc từ
Indonesia và di thực vào Việt Nam từ năm 1947. Từ đó, giống nay mang nhiều
tên đòa phương khác nhau: Nam Vang, Phú Quốc, Lộc Ninh, Vónh Linh và nhiều
tên gọi khác. Giống có cỡ hạt lớn trung bình, chiều dài chùm quả khoảng
11cm.
Giống tiêu lá nhỏ (tiêu sẻ)
Lá nhỏ, chùm quả ngắn, màu xanh của lá không đậm như giống tiêu Lada
Belangtoeng, chiều dài chùm quả trung bình khoảng 8cm, hạt nhỏ hơn giống tiêu
có lá cỡ trung bình. Giống có tên gọi theo đòa phương như: tiêu sẻ Lộc Ninh, tiêu
sẻ Đất Đỏ, tiêu sẻ Mỡ.
Giống tiêu lá lớn (tiêu trâu)
Lá lớn, chùm quả dài, hạt lớn nhưng năng suất không cao bằng hai giống tiêu
kể trên.
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
Giống tiêu n Độ

Hiện nay giống này được ưa chuộng vì chùm quả dài, đóng hạt dày, năng suất
cao, cho thu hoạch sớm. Hai loại chủ lực của giống tiêu này là Panniyur và
Karimunda.
Bảng 1.1. Vò trí một số giống tiêu được trồng phổ biến hiện nay
Giố
ng
Vùng
Giống
đòa
phương
Tiêu
trung
Tiêu
trâu
Vónh
Linh
Phú
Quốc
Lada
Belangtoeng
n
Độ
Đông Nam
Bộ
_Bình Phước
_Bà Ròa
Sẻ LN
++
Sẻ ĐĐ +
++

++
+
_
+
++
++
+
+
++
+
+
++
Miền trung
_ Phú Yên
_ Quảng Trò

_
VL +
++
_
_
+
_
++
+++
_
_
+
+
_

_
Tây Nguyên
_ Daklak
_ Gia Lai
Sẻ Mỡ +
++
Tiên Sơn
+
+
++
+
+
++
++
+
_
+
_
+
_
(Nguồn: TS Nguyễn Tăng Tôn)
LN: Lộc Ninh
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
ĐĐ: Đất Đỏ
VL: Vónh Linh
1.1.3.2 Điều kiện canh tác
Cây tiêu trồng nhiều nhất ở vùng xích đạo và nhiệt đới trong vó độ 15
0
N-15

0
B
nhưng cũng được trồng xa hơn như ở Quảng Trò (Việt Nam) với vó độ trên 17
0
B.
Nhiệt độ thích hợp cho tiêu 20-25
0
C. Nhiệt độ cao hơn 40
0
C và thấp hơn 10
0
C đều
ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng và phát triển của cây tiêu. Hồ tiêu yêu cầu lượng
mưa cao từ 2.000-3.000 mm/năm, phân bổ đều trong 7-8 tháng và cần 3-5 tháng
không mưa ở cuối giai đoạn thu hoạch để phân hóa mầm hoa tốt, ra hoa tập trung.
Cây tiêu cần ẩm độ không khí từ 75-90 %. Tiêu ưa ánh sáng tán xạ do đó trong
giai đoạn cây con cần che rợp cho tiêu, khi cây tiêu đã trưởng thành phát triển
xum xuê thì xem như có thể che rợp cho nhau. Cần trồng cây chắn gió để bớt
thoát hơi nước vào mùa khô và giảm thiệt hại do gió lốc, gió bão vào mùa mưa.
Cây tiêu có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau như: đất sét pha cát (Hà Tiên,
Phú Quốc), đất đỏ basalt (Tây Nguyên, Đông Nam Bộ), đất phù sa bồi (Đồng
Bằng Sông Cửu Long), đất xám (Đông Nam Bộ)… và phát triển tốt nhất trên đất
phì nhiêu, giàu hữu cơ, tơi xốp, thoát nước tốt. Giữ đất không bò ngập úng, mạch
nước ngầm sâu hơn 70cm, tầng đất mặt sâu 80-100 cm, có cơ cấu xốp, thành phần
cơ giới nhẹ đến trung bình; pH đất thấp nhất 4,5, tốt nhất trong khoảng 5,5-7,0; độ
cao so với mặt nước biển có thể lên tới 1.500m. Mật độ trồng thích hợp nhất của
hồ tiêu là 2.000-2.500 nọc/ha. Độ dốc không quá 3%, đất dốc cần bố trí hàng tiêu
theo đường đồng mức để giảm bớt rửa trôi dinh dưỡng và xói mòn đất.

1.1.4. Quy trình kỹ thuật trồng tiêu và chế biến

1.1.4.1 Chọn giống
Nhằm chọn cây giống có năng suất cao, chất lượng tốt, khơng nhiễm sâu bệnh hại
Chọn hom giống:
Cành tược (dây thân): tiêu trồng từ cành tược mau cho quả hơn, thường năm thứ 3
sau khi trồng, năng suất cao và tuổi thọ kéo dài từ 15-20 năm, tỉ lệ hom sống đạt cao
(khoảng 90%).
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
Cành lươn: tiêu trồng từ cành lươn cho quả chậm hơn và phải đôn tiêu, thường từ
năm thứ 4 sau khi trồng. tuy vậy cây tiêu cho năng suất cao, ổn định và lâu già cỗi.
Kỹ thuật hom giống:
Lấy hom bánh tẻ, không quá non hoặc quá già, mỗi hom có 4-6 đốt, thông thường
5 đốt, không sử dụng đoạn hom cách ngọn 20-25 cm.
Cắt hom tiêu vào mùa mưa, trên cây mẹ 1-2 năm tuổi. cắt chừa gốc một đoạn 40-
50 cm và không làm tổn hại đến cây mẹ và hom giống, phần dưới của hom cắt xéo
cách đốt cuối cùng khoảng 2 cm, cắt bỏ những lá ở đốt được vùi vào đất và chỉ để lại
2-3 lá để giảm bớt sự thoát hơi nước của hom. Hom tiêu cắt xong cần ươm ngay, nếu
vận chuyển đi xa cần bó mỗi bó 50 hom, đặt trong thùng xốp, phun nước đều.
Xử lý hom giống:
Để hom tiêu mau ra rễ, trước khi giâm hom tiêu được ngâm trong dung dịch NAA
nồng độ 500-1.000 ppm hoặc IBA nồng độ 50-55 ppm, nhúng ngập phần gốc 2-3 cm
trong 30 phút, hoặc xử lý bằng dung dịch nước tiểu bò 25% cho kết quả tương tự
IBA.
Ươm hom:
Sau khi xử lý hom có thể ươm hom vào luống hoặc bầu
Luống: có chiều dài 5-6 m, rộng 1-1,2 m, đất trên luống cần trộn đều phân theo
liều lượng 25-30 kg phân chuồng hoai + 0,5kg super lân cho 10m
2
luống. ươm hom
cách hom 15-20 cm, luống phải có mái che, hệ thống phun sương để tạo độ ẩm thích

hợp cho tiêu ra rễ. –
Bầu: có thể dùng bầu PE hoặc giỏ tre, bầu có kích thước dài 23-25 cm, rộng 13-
17 cm, bầu PE được đục 8-10 lỗ để dễ thoát nước. Đất vào bầu có thành phần: 2 phần
đất tơi xốp + 1 phân chuồng hoai, trọn đều 0,5kg phân super lân cho 200kg hỗn hợp
đất và phân chuồng, mỗi bầu ươm 2 hom.
1.1.4.2 Chọn trụ làm choái tiêu
Có các loại trụ sau đây:
Trụ sống: ở Đông Nam Bộ có keo dậu, lồng mức, gòn, giả anh đào hoặc còn gọi
là đỗ quyên trồng với khoảng cách 2,5 x 2,5 m hoặc 2,5 x 3,0 m, mật độ1.300-1.600
trụ/ha. Ngoài ra dây tiêu còn tận dụng cho leo lên một số loại trụ khác như: muồng
cườm, xà cừ, xoài, điều, bơ, mít nhưng ít phổ biến. ở duyên hải miền Trung: lồng
mức, keo, dậu, mít trồng với khoảng cách 2,5 x 2,5 m hoặc 2,5 x 3,0 m, mật độ1.300-
1.600 trụ/ha. Ngoài ra các cây như hoa sữa, núc nác, muồng, keo cũng có thể làm
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
“choái” tiêu song ít phổ biến. ở Tây Nguyên: keo dậu, giả anh đào, muồng đen, lồng
mức trồng với khoảng cách 2,5 x 2,5 m hoặc 3,0 x 3,0 m, mật độ1.300-1.600 trụ/ha.
Trụ sống thì sinh trưởng nhanh, khỏe, thân cứng, vỏ tương đối nhám để tiêu dễ bám.
Bộ rễ ăn sâu để không cạnh tranh dinh dưỡng với cây tiêu. Ít lá hoặc tán thưa để
không che ánh sáng của cây tiêu, có khả năng chịu xén nhiều lần mà không chết. Ít
sâu bệnh hoặc không phải là kí chủ của sâu bệnh hại tiêu, thông thường chọn một số
cây có thể trồng bằng cành để kịp cho tiêu leo bám.
Trụ gỗ: hiện nay các vùng có diện tích tiêu trồng mới chỉ sử dụng trụ gỗ từ vườn
tiêu già cỗi, không dùng trụ gỗ mới vì liên quan đến bảo vệ rừng, cần thay dần bằng
trụ sống.
Trụ bằng vật liệu khác: bồn gạch (đường kính gốc: 0,8-1 m, đường kính ngọn:
0,6-0,8 m, chiều cao: 3,2-3,5 m, khoảng cách: 3,0-3,0 m hoặc hơn tùy theo đường
kính ở gốc bồn), trụ bê tông (chiều rộng phần gốc từ 20-22 cm, chiều rộng phần ngọn
từ 17-19 cm, chiều dài 4-4,5 m, khoảng cách 2,0-2,5 m). Vùng duyên hải miền Trung
không nên trồng trụ gạch và trụ bê tông, do khí hậu nắng nóng và mưa nhiều, địa

hình hẹp và dốc, lượng mưa lớn dễ gây xói mòn. Cần làm giàn che cho tiêu trồng
mới, có thể dùng lưới che công nghiệp, lá dừa, phên tre hoặc các vật liệu che chắn
nhẹ.
1.1.4.3 Kỹ thuật trồng tiêu
Thời vụ trồng tiêu
Thời vụ trồng tùy thuộc vào điều kiện khí hậu của từng khu vực, thường trồng
vào đầu mùa mưa, khi đã mưa đều và kết thúc trước mùa khô khoảng 2-2,5 tháng.
Bảng 1.2. Thời vụ trồng tiêu
Vùng Tháng
Đông Nam Bộ
Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
6-8
9-10
5-8
Chọn đất trồng tiêu, làm đất đào hố và thiết kế lô trồng
Đất trồng tiêu cần tơi xốp, dễ thoát nước, không úng vào mùa mưa, độ dày tầng
đất canh tác tối thiểu 70cm, pH của đất khoảng 5,5-7 là thích hợp cho cây tiêu
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
Đất cần được cày bừa kỹ và xử lý mầm bệnh trước khi trồng, trên đất chua cần
bón vôi trước khi bừa lần cuối, lượng vôi bón khoảng 1,5-2,0 tấn /ha đá vôi xay.
Kích thước hố thường 30 x 30 x 40 cm cho hom đơn hoặc 40 x 40 x 40 cm cho
hom đôi, mỗi hố bón khoảng 7-10 kg phân chuồng hoai + 200-300 g phân super lân,
trộn đều với lớp đất mặt cho vào hố khoảng 20cm. Nên tiến hành đào hố và chọn
phân lấp hố trước khi trồng ít nhất nửa tháng. Đất trồng tiêu cạnh những vườn tiêu bị
bệnh nặng nên dùng Bordeaux 1% tưới trong và quanh hố. Vườn tiêu trên nền đất có
độ dốc nên đào hố theo đường đồng mức và bố trí theo hình răng sấu.
Thiết kế hệ thống tiêu nước và trồng trụ tiêu cùng lúc, khoảng 10-15 m đào một
rảnh thoát nước vuông góc với hướng thoát nước chính, rãnh sâu 15-20 cm, rộng

20cm, giữa hai hàng trụ tiêu. Dọc theo hướng dốc chính, khoảng 30-40 m thiết kế
một mương sâu 30-40 cm, rộng 40cm, giữa hai hàng trụ tiêu, mương thẳng góc với
rãnh thoát nước.
Đặt hom và buộc dây
Khi đặt hom tiêu vào hố cần chú ý:
Xé bỏ bầu PE, tránh làm vỡ bầu, sau đó lấp đất và nén chặt gốc.
Hom đặt nghiêng 30-45
0
hướng về phía trụ tiêu, nên đặt hom về hướng Đông.
Số hom trên một trụ: 2 hom/trụ cho gạch sống hoặc trụ bê tông và 5-6 hom/trụ
cho gạch xây.
Sau khi dây tiêu đã phát triển vươn tới trụ nên dùng các loại dây mềm (dây nilon) để
buộc dây tiêu vào cây trụ, buộc vào vị trí ở gần đốt của dây để rễ dễ bám vào trụ, sau
khi rễ đã bám vào trụ cần cắt bỏ dây buộc.
Đôn tiêu
Tiêu trồng bằng dây lươn cây sẽ cho nhiều dây thân, cắt bỏ các dây yếu, chỉ để lại 3-
4 dây khỏe trên một gốc dây lươn. Sau 12-15 tháng, các dây tiêu đạt 1,2-1,5 m, bắt
đầu cho cành mang quả, khi phần lớn các dây trên trụ đều cho cành mang quả cần
tiến hành đôn tiêu:
Xới đất quanh trụ tiêu thành rãnh sâu 7-10 cm, cách trụ 15-20 cm, chọn 3-4 dây
tiêu khỏe, cắt hết lá dưới cành mang quả đầu tiên 30-40 cm, khoanh tròn trong rãnh
sao cho cành mang quả thấp nhất cách mặt đất 30-40 cm, lấp một lớp đất mỏng 5-7
cm, tưới nước, khi thấy rễ nhú ra từ các đốt đôn dưới đất cần lấp thêm 3-5 cm đất
trộn phân hữu cơ.
Tỉa cành, tạo tán cây trụ sống và cây tiêu trong thời kì kinh doanh
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
Khi cây trụ sống đã lớn, cần rong tỉa bớt cành lá để tiêu nhận đủ ánh sáng, mỗi
năm rong tỉa vài lần trong mùa mưa.
Sau khi thu hoạch tiêu, đến mùa mưa cần tỉa bớt những cành tược, cành lươn mọc

ra từ gốc tiêu và cành tược mọc ngoài khung thân chính, việc tỉa cành nên tiến hành
vào đầu mùa mưa để tạo dinh dưỡng cho những vụ tiếp theo.
Ở một số vườn tiêu có hiện tượng hoa nở rải rác không đúng thời vụ nên cắt bỏ
hoa này để tập trung cho hoa ra hàng loạt và quả chín tập trung.
Làm bồn, bón phân và chăm sóc
Làm bồn
Tạo bồn cho cây tiêu nhằm mục đích giữ phân khi bón trong mùa mưa và giữ
nước trong mùa khô. Ở vùng đất dốc kĩ thuật làm bồn rất quan trọng, chỉ cần làm
bồn cạn để dễ tiêu nước trong mùa mưa.
Bón phân
Phân hữu cơ:
Bảng 1.3. Lượng phân hữu cơ bón cho hồ tiêu
Phân
Năm
Phân chuồng, rác mục
(kg/trụ/năm)
Phân hữu cơ chế biến
(kg/trụ/năm)
Trồng mới
Năm thứ 2-3
Từ năm thứ 4 trở đi
7-10
10-15
15
1-2
2-3
3-5
Phân vô cơ
Bảng 1.4. Lượng phân vô cơ bón cho cây hồ tiêu
Phân

Năm
N
(kg/ha/năm)
P
2
0
5
(kg/ha/năm)
K
2
O
(kg/ha/năm)
Trồng mới
Năm thứ 2-3
Từ năm thứ 4 trở đi
90-100
150-200
250-350
50-60
80-100
150-200
70-90
100-150
150-250
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
Thời gian bón
Phân hữu cơ: bón 1 lần/năm, nên bón vào đầu mùa mưa, đào rãnh theo mép tán,
sâu 10-15 cm, cho phân vào và lấp đất lại, bón phân tiến hành vào đầu mùa mưa, nên
chú ý trong quá trình đào rãnh không làm tổn thương bộ rễ.


Phân vô cơ:
Trồng mới: sau khi trồng 1-1,5 tháng bón 1/3 lượng đạm + 1/3 lượng kali, sau
khi trồng 2-3 tháng bón số còn lại.
Năm thứ 2 trở đi : bón 3 lần
Lần 1: bón 1/3 đạm + 1/3 kali và tất cả lượng phân lân, bón vào đầu mùa
mưa.
Lần 2: bón 1/3 đạm + 1/3 kali, bón vào giữa mùa mưa
Lần 3: bón lượng phân còn lại vào giữa mùa mưa.
Tiêu đã cho trái bón 4 lần
Lần 1: bón ¼ đạm + ¼ kali và tất cả lượng phân lân kết hợp với phân hữu
cơ, bón trước khi kết thúc thu hoạch khoảng 10 ngày.
Lần 2: bón ¼ đạm + ¼ kali, bón vào đầu mùa mưa.
Lần 3: bón ¼ đạm + ¼ kali, bón vào giữa mùa mưa.
Lần 4: bón lượng phân còn lại vào cuối mùa mưa.
Cách bón
Đào rãnh quanh mép tán, sâu 7-10 cm, rải phân và lấp đất. Bổ sung phân trung
lượng (Ca, Mg) và vi lượng cũng rất cần cho cây tiêu để hạn chế rụng hoa và quả
non, các nguyên tố vi lượng cần bổ sung cho cây tiêu là kẽm (Zn) và bo (B), thường
có trong các loại phân bón lá và phân hữu cơ chế biến có bán trên thị trường.
Tưới nước
Vườn tiêu mới trồng và trong giai đoạn chưa cho trái, vào mùa khô phải tưới nước
và kết hợp che chắn và không nên tỉa cành cây trụ sống trong mùa khô để tạo ẩm độ
trong vườn và che chắn cho cây tiêu.
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
Trong thời kì kinh doanh, sau vụ thu hoạch chỉ nên tưới nước vừa đủ để cây tiêu
tồn tại, không nên tưới nhiều vì tưới nhiều cây tiêu sẽ tiếp tục sinh trưởng và ra hoa
rải rác làm ảnh hưởng đến mùa thu hoạch kế tiếp.
Làm cỏ, tủ gốc

Làm cỏ bằng tay vài lần vào đầu và giữa mùa mưa, làm sạch cỏ quanh gốc tiêu
trong vòng bán kính khoảng 0,5m, không nên thường xuyên làm sạch cỏ giữa các trụ
tiêu, dùng cỏ hoặc rơm rạ khô tủ quanh gốc tiêu vào đầu mùa khô để giữ ẩm.
1.1.4.4 Thu hoạch, sơ chế và bảo quản
Mùa thu hoạch tùy theo từng vùng sinh thái khác nhau, thường khoảng tháng 5-7
ở Bắc Trung Bộ, tháng 3-5 ở duyên hải miền Trung, tháng 2-4 ở Tây Nguyên và
tháng 1-3 ở Đông Nam Bộ.
Không nên thu hoạch khi quả tiêu còn xanh, thời điểm thu hoạch tốt nhất để làm
tiêu đen khi chùm tiêu có trên 5% quả chín có màu vàng, đỏ, và để làm tiêu sọ khi
trên 20% quả chín.
Khi thu hái xong có thể phơi ngay để làm tiêu đen hoặc ủ 1-2 ngày trong mát cho
tiêu tiếp tục chín để làm tiêu sọ, thường xuyên trộn đều trong quá trình ủ để tiêu chín
đạt độ đồng đều cao, tách hạt ra khỏi chùm quả sau khi phơi 1-2 nắng.
Phơi khô:
Để cho tiêu đen thương phẩm có màu đẹp, trước khi phới nên nhúng tiêu vào
trong nước nóng 80
0
C trong vòng 1-2 phút, trộn đều sau đó lấy ra để trong mát cho
ráo nước rồi đem phơi.
Phơi tiêu trên sân xi măng, tấm bạt hoặc nong tre, sân cần được rửa sạch trước
mỗi đợt phơi, dùng lưới nilon bao quanh khu vực phơi để tránh thú vật vào khu phơi.
Nếu trời nắng tốt phơi 3-4 ngày là đạt, độ ẩm của hạt sau khi phơi khô phải đạt dưới
15%, sản phẩm sau khi phơi gọi là tiêu đen.
Có thể dùng máy sấy lúa, sấy bắp, sấy cà phê để sấy hồ tiêu, giữ nhiệt độ ổn định
trong buồng sấy khoảng 55-60
0
C.
Sau khi phơi khô, tiêu cần được làm sạch tạp chất, lá, cuống, chùm quả bằng cách
sàng, quạt, giê. Muốn làm tiêu sọ (tiêu trắng), tốt nhất ngâm tiêu tươi 24-36 giờ, vớt
tiêu ra, bóc vỏ bằng tay và đãi sạch vỏ, 4kg tiêu tươi có thể làm được 1kg tiêu sọ. có

thể làm tiêu sọ từ tiêu khô bằng cách cho tiêu vào bao đem ngâm trong nước lã từ 8-
10 ngày trong bồn gỗ, thường xuyên thay nước, khi thấy vỏ đen bóc ra thì lấy ra, cho
vào nong, thúng làm tróc vỏ, sau đó làm sạch và đem phơi.
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
Bảo quản: cho tiêu vào bao 2 lớp, lớp trong là bao nilon (PE) để chống ẩm mốc,
lớp ngồi là bao PP hoặc bao bố, đưa vào chất trên kệ hoặc palet trong kho. Kho
chứa phải thơng thống, khơng q nóng, khơng ẩm ướt.
1.1.5. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hồ tiêu
1.1.5.1 Tình hình sản xuất
Cây hồ tiêu có lịch sử khá lâu đời ở Việt Nam (khoảng 150 năm). Tuy nhiên đến
năm 1975 cả nước chỉ mới có 500 ha, giai đoạn 1975-1981 điện tích hồ tiêu chưa
vượt q 1.000 ha. Giai đoạn 1982-1990 diện tích tăng lên 9.200 ha. Trong những
năm gần đây diện tích hồ tiêu của Việt Nam tăng khá nhanh từ 27.900 ha năm 2000
tăng lên 43.500 ha năm 2002, tăng 15.600 ha bằng gần 56%. Năm 2005 là 49.100 ha
và hiện nay khoảng 50.100 ha (năm 2008). So với năm 1975 diện tích hồ tiêu năm
2008 tăng khoảng 100 lần.
Đơng Nam Bộ là vùng trồng tiêu lớn nhất của cả nước với tổng diện tích năm
2006 là 30.500 ha.
Tây Ngun có 14.100 ha
Còn lại các tỉnh dun hải Nam Trung Bộ 1.200 ha, Bắc Trung Bộ 3.800 ha và
Đồng Bằng Sơng Cửu Long ( Kiên Giang ) 600 ha.
Năng suất hồ tiêu của Việt Nam tăng chậm và có sự sai khác lớn giữa các vùng,
các tỉnh trồng tiêu. Năng suất bình qn cả nước năm 1997 đạt 20,8 tạ/ha, năm 1999
cũng chỉ đạt 21,2 tạ/ha, năm 2002 đạt 21,2 tạ/ha, năm 2005 đạt 20,2 tạ/ha và năm
2006 đạt 21,19 tạ/ha. Vùng Đơng Nam Bộ có năng suất bình qn cao nhất 23,1
tạ/ha (năm 2002), trong khi đó các tỉnh Bắc Trung Bộ chỉ 9,4 tạ/ha, bằng 33,4% của
các tỉnh Đơng Nam Bộ.
Các tỉnh có năng suất khá cao như: Kiên Giang đạt 30 tạ/ha, Bà Rịa-Vũng Tàu đạt
28,9 tạ/ha, Bình Phước 30 tạ/ha, các tỉnh khác ở Đơng Nam Bộ đều có năng suất trên

20 tạ/ha.
Có thể nói rằng trong những năm gần đây Hồ tiêu được phát triển khá nhanh ở
Việt Nam nhất là các tỉnh ở Đơng Nam Bộ và Tây Ngun.
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
Bảng 1.5. Sản lượng và diện tích trong những năm gần đây
Năm
Diện tích
(1000 ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
Xuất khẩu
(1000 tấn)
Giá trị
(triệu USD)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
27,9
31,6
47,9
50,5
50,8
49,1
50,1
39,2

44,4
46,8
68,5
73,4
77,0
99,9
36,4
56,5
78,4
73,9
110,5
109,0
118,0
145,9
90,5
109,3
105,9
133,7
120,0
195,0
(Nguồn: Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam)
Trong định hướng phát triển ngành hồ tiêu Việt Nam giai đoạn 2005-2010 và tầm
nhìn đến năm 2020 của Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn, thủ tướng chính
phủ đã ký quyết định phê duyệt dự án về quy hoạch chuyển đổi cơ cấu Nông, lâm
nghiệp, thủy sản: trong đó ra chủ trương giữ ổn định sản xuất Hồ tiêu ở mức 50.000-
51.000 ha, sản lượng giai đoạn 2005-2010 trung bình hằng năm đạt mức 100.000-
120.000 tấn, giá trị xuất khẩu bình quân 130 triệu đô/năm, năm 2010 đạt trên 240
triệu đô, năm 2020 đạt trên 280 triệu đô. Cho đến nay thì chỉ tiêu về diện tích và giá
trị xuất khẩu đã vượt mức, còn chỉ tiêu sản lượng thì chưa đạt được do nhiều yếu tố.
1.1.5.2 Tình hình tiêu thụ

Hồ tiêu là gia vị nên nhu cầu sử dụng bình quân cho đầu người rất thấp, lượng hồ
tiêu buôn bán hàng năm trên thế giới chỉ trong khoảng 220.000-230.000 tấn, vì vậy
biên độ biến động giá hồ tiêu rất lớn mỗi khi sản lượng cung cầu không khớp nhau.
Đã có lúc giá hồ tiêu lên tới 5.000 đô/tấn, giá nội địa lên tới 70.000-80.000 đồng/kg
nhưng chưa thấy ai than phiền là lọ tiêu đắt hay rẻ.
Nguyên nhân tăng giá là do lượng cung không đủ cầu. Từ năm 2005 về trước đã
xảy ra tình trạng ngược lại, tuy mức vượt của cung chỉ năm, bảy chục ngàn tấn
nhưng cũng đủ cho giá hồ tiêu từ trên 3.000 đô xuống dưới 1.000 đô/tấn. giá bán
thấp hơn giá thành khiến cho người trồng tiêu gặp nhiều khốn khó, bỏ mặc vườn tiêu
xơ xác đồng thời với việc nhiều vườn bị đốn hạ để thay thế cây trồng khác. Sản
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
lượng các cường quốc về hồ tiêu như Ấn Độ, Indonesia đều giảm mạnh, lượng xuất
khẩu của các nước này chỉ còn khoảng 30.000-40.000 tấn so với 70.000-80.000 tấn
trước đây. Sản lượng giảm, tồn kho không còn đã đưa giá tiêu vượt qua thời kỳ suy
thoái và bước vào chu ký tăng giá.
Hồ tiêu Việt Nam cũng nằm trong quỹ đạo đó, năm 2004, sản lượng hồ tiêu Việt
Nam đạt mức kỉ lục với 120.000 tấn nhưng đã giảm liền sau đó. Năm 2006, chúng ta
xuất khẩu được 116.000 tấn, nhưng sản lượng chỉ dưới 100.000 tấn vì trong số đó có
lượng tồn kho của những năm trước. Năm 2007 sản lượng chỉ còn 80.000 tấn và hầu
như không còn tiêu tồn kho. Tuy nhiên mức sút giảm của Việt Nam được ghi nhận là
thấp hơn và đi sau các cường quốc hồ tiêu khác.
Ở nước ta chủ yếu sản xuất loại hồ tiêu đen. Tuy là nước có sản lượng lớn nhưng
tiêu thụ nội địa không nhiều, hàng năm chỉ tiêu thụ khoảng 4.000-4.500 tấn, còn
phần lớn sản lượng hạt tiêu dành cho xuất khẩu.
Về giá cả hạt tiêu trong nước nhìn chung không ổn định, dao động theo giá thị
trường thế giới, giá cao nhất trong 10 năm trở lại đây là năm 1998 với giá bình quân
là 4.268 đô/tấn, năm 2000 cũng khá cao 4.003 đô/tấn, trong khi đó năm 1993 có giá
thấp nhất 617 đô/tấn. Chính vì vậy giá thu mua hạt tiêu khô cho nông dân cũng
thường xuyên dao động: năm 1998 là 42.000-46.000 đ/kg, năm 1999 khá cao 60.000-

62.000 đ/kg, đến cuối năm 2000 còn 30.000 đ/kg, năm 2004 và 2005 còn 18.000-
20.000 đ/kg. Đến năm 2006 giá hạt tiêu xuất khẩu và thu mua trong nước tăng mạnh
trở lại làm cho người trồng tiêu phấn khởi và tăng mạnh sản xuất trở lại.
Theo giới kinh doanh cho biết, Việt Nam hiện chiếm khoảng 60% nguồn cung hạt
tiêu toàn cầu và đang chi phối giá hồ tiêu trên thị trường thế giới. Điều này cho thấy
người dân trồng tiêu trong nước sẽ có lợi và là điều kiện tốt để Việt Nam nâng cao
uy thế trên thương thường quốc tế. Đáng mừng hơn là Việt Nam đang “quyết định”
về giá cả hồ tiêu trên thế giới. Những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam luôn
đẩy giá tiêu xuất khẩu lên cao buộc các nhà nhập khẩu nước ngoài phải “đeo” theo.
Khoảng 5 năm gần đây, ngành hồ tiêu Việt Nam phát triển nhanh và chiếm lĩnh
thị trường thế giới, khẳng định vị trí “số 1” trong xuất khẩu hồ tiêu. Tổ chức hạt tiêu
thế giới (IPC) đánh giá cao vai trò của Việt Nam về ổn định sản lượng và chất lượng
hạt tiêu ngày càng nâng lên. Ngược lại, ở các nước khác lại giảm mạnh. Vì vậy, IPC
cho rằng chỉ cần sự dao động ở Việt Nam đã tác động ngay đến giá cả hạt tiêu toàn
cầu, bởi thị trường hạt tiêu đang ngày càng phụ thuộc khá lớn vào Việt Nam. Tuy
nhiên: do cung cầu, giá cả thị trường xuất nhập khẩu hồ tiêu thế giới luôn luôn biến
động, do tác hại của thời tiết, sâu bệnh đến sản xuất, do hạn chế về vốn đầu tư cho
sản xuất, kinh doanh, do thiếu kinh nghiệm về sản xuất, kinh doanh và vai trò điều
tiết trợ giúp của nhà nước… còn nhiều bất cập nên đã ít nhiều làm hạn chế hiệu quả
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
sản xuất, kinh doanh của ngành hàng hồ tiêu. Do đó: để ngành hồ tiêu phát triển ổn
định, bền vững xứng tầm là vị trí số một thế giới phải rất cần những chủ trương,
nhiều giải pháp đồng bộ, hữu hiệu từ nhiều phía tác động đến sản xuất lưu thơng.
Bảng 1.6. Xuất khẩu của các nước sản xuất chính (đơn vị: tấn)

Năm
Việt
Nam
Malaysia Sri

Lanka
Brazil Ấn Độ Indonesi
a
Khác Tổng
2003 74,035 18,672 8,240 37,940 19,423 60,896 8,597 227,8
2004 98,494 18,206 4,853 40,529 14,049 46,260 8,835 231,2
2005 96,179 16,795 8,129 33,997 15,752 36,341 6,770 213,9
2006 116,670 21,000 8,000 29,000 18,300 21,000 7,400 221,3
2007 85,000 19,000 8,000 33,000 16,200 18,300 7,500 187,00
(Nguồn: Hiệp hội hồ tiêu quốc tế)
1.2. TÌNH HÌNH BỆNH HẠI TRÊN TIÊU
1.2.1. Một số bệnh hại chính trên cây tiêu
Căn cứ vào các kết quả điều tra nghiên cứu trong và ngồi nước, người ta đã xác định
trên cây hồ tiêu có trên 40 loại sâu, bệnh gây hại trên cây hồ tiêu và cây trồng, vật
liệu được sử dụng làm “ chối” cho cây tiêu. Tuy nhiên trên những vùng trồng hồ tiêu
chính ở nước ta theo các tác giả: Phạm Văn Biên, Nguyễn Mạnh Hùng, Phan Quốc
Sủng, Nguyễn Ngọc Châu, Vũ Triệu Mân, Lester Burgess có 4 nhóm dịch hại có ý
nghĩa kinh tế và cần được quan tâm nghiên cứu và giải quyết bao gồm:
Bệnh chết nhanh cây tiêu
Bệnh chết chậm
Bệnh virus hại tiêu
Dịch hại trên vật liệu làm “chối” tiêu.
1.2.1.1 Bệnh chết nhanh
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
Bệnh gây hại trên tất cả các vùng trồng hồ tiêu ở nước ta. Bệnh chết nhanh là
nguyên nhân gây suy thoái vườn tiêu ở nhiều địa phương như: Cam Lộ-Quảng Trị, Chư
Sê-Gia Lai, Xuân Lộc-Đồng Nai, Phú Quốc-Kiên Giang Các vùng tiêu từ Đà Nẵng trở
vào thường biểu hiện chết nhanh rõ nhất vào cuối tháng 12 đầu tháng giêng ( lúc kết
thúc mùa mưa chuyển sang mùa khô), các tỉnh từ đèo Hải Vân trở ra biểu hiện của

bệnh lại rõ hơn ở cuối tháng tháng 4 đầu tháng năm-khi gió mùa đông bắc không còn
gây mưa ở vùng này.

1.2.1.2 Bệnh chết chậm
Triệu chứng:
Bệnh chết chậm thường có triệu chứng vàng lá từ từ, nhiều khi cây hồ tiêu bị bệnh
2 - 3 năm sau mới chết. Cây bị bệnh kém phát triển, năng suất thấp. Bộ rễ cây thường
bị hủy hoại. Tùy thuộc vào từng vùng mà trên rễ có biểu hiện thâm đen, khó khăn trong
việc cung cấp nước và dinh dưỡng. Quan sát thấy trên rễ có nhiều mụn u sưng, vết
thâm đen trên rễ do tập đoàn tuyến trùng gây ra. Gốc thân, cổ rễ bị thâm đen, thối
khô. Các bó mạch trong thân bị chuyển màu thâm đen. Trong điều kiện mùa khô rệp
sáp gây hại trên rễ cũng gây triệu chứng héo vàng. Nhiều địa phương còn xuất hiện con
mối cũng tham gia gây hại. Triệu chứng chết chậm biểu hiện rõ ràng cả trong mùa khô
và trong mùa mưa. Rõ ràng bệnh chết chậm hay hiện tượng vàng lá chết dây từ từ là một
hội chứng rất phức tạp. Đây là hội chứng phức hợp do nhiều nguyên nhân gây ra.
Tác nhân gây bệnh:
Dựa trên các kết quả phân tích trong và ngoài nước cho rằng tuyến trùng ký sinh
(Plant parasitic nematodes) gây thương tổn cho bộ rễ, sau đó nấm Fusarium và các
loại nấm khác ký sinh theo là nguyên nhân gây hiện tượng chết chậm. Ở những vùng có
mật độ rệp sáp hại rễ cao và mối gây hại sẽ làm cho triệu chứng của bệnh thêm rõ ràng
và phát triển nhanh hơn.

1.2.1.3 Bệnh virus hại hồ tiêu
Bệnh virus trên hồ tiêu được biết đến với tên gọi “ tiêu điên”. Cây mới bị bệnh trên
lá có triệu chứng khảm hay còn gọi là hoa lá, lá nhỏ lại và cây phát triển còi cọc. Giai
đoạn cuối, các đốt thân sưng lên và các đốt xích gần nhau, nhiều khi gây hiện tượng
“nổ đốt-tháo đốt” . Bệnh gây hại làm cho vườn tiêu phát triển chậm, dần dần tàn lụi và
giảm năng suất rõ rệt.
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu

Bệnh virus trên tiêu ở nước ta còn ít tài liệu nghiên cứu, tuy nhiên điều tra tại xã Đắc
Nia -Đắc Nông trên vườn tiêu 5 năm tuổi có tới 12,6 % cây biểu hiện triệu chứng hoa
lá và lá nhỏ, tại xã Bình Trung, huyện Châu Đức - Bà Rịa - Vũng Tàu trên vườn cây 8
năm tuổi có tới 63,5% số cây bị bệnh virus. Các tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước
đều đã xác định hai loại virus hoa lá dưa chuột
( Cucumber mosaic virus - CMV) và
virus khảm vàng trên hồ tiêu ( Piper yellow mottle virus -
PYMV). Tuy nhiên chưa
có nguyên cứu bệnh lý học và biện pháp cụ thể nào về hai loại virus kể trên gây hại
trên hồ tiêu ở nước ta.
Những điều tra cụ thể tại các vùng trồng hồ tiêu mà đặc biệt tại Đắc Nông cho
thấy việc nhân giống còn tự phát, người trồng tiêu sử dụng phương pháp cắt cành làm
hom giống. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh lây lan và phát triển. Hơn
nữa việc phòng trừ côn trùng môi giới và biện pháp vệ sinh đồng ruộng cũng chưa
được chú ý đúng mức.

1.2.1.4 Dịch bệnh trên “choái” tiêu
Năm 2005 và 2006 vấn đề cây vông làm “choái” tiêu ở Bà Rịa - Vũng Tàu bị ong
gây hại, đã được không ít báo chí đề cập. Ong gây hại trên lá, trên đọt và đục vỏ làm
xập dây tiêu đã gây thiệt hại đáng cho người trồng tiêu. Điều tra cây choái “ sống” ở
nhiều vùng trồng tiêu cho thấy người trồng tiêu sử dụng nhiều loại cây “choái” sống
khác nhau bao gồm: vông (Erythrina inerana), lồng mứt (Wrightia
annamenis), gòn (Eriodendron anyracinosum), cóc rừng (Spondias
mangifera), mít (Atocarpus integrifolia), keo dậu, muồng đen. Trong số các cây
làm “choái” này chỉ có cây vông
bị ong gây hại và không chỉ có ở Bà Rịa - Vũng Tàu mà tại Đắc Nông cây vông cũng
bị ong hại. Trong điều kiện hiện nay cho rằng chủ động thay thế cây vông bị ong gây
hại bằng các loại “choái” sống khác phù hợp với điều kiện địa phương là giải pháp kinh
tế nhất.
Bên cạnh cây “choái” sống nhiều địa phương sử dụng “choái” “ chết” gồm có : trụ

gạch, trụ xi măng và trụ bằng gỗ. Tuy nhiên nguyên cứu “choái” bằng gỗ bằng các
loại “choái” sống và bằng trụ gạch để thay thế trụ tiêu bằng gỗ chết. Bởi lẽ sử dụng
loại “choái” bằng gỗ đồng nghĩa với khai thác cạn kiệt rừng phòng hộ.

1.2.2 Một số nguyên cứu về bệnh hại tiêu trước đây
Cây tiêu thường bị rất nhiều loại bệnh phá hại làm ảnh hưởng đến năng suất và phẩm
chất.
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
Một số trích dẫn Phạm Văn Biên, 1989:
Muller (1936) cho rằng những hiện tượng chết rũ cây tiêu ở Java và Sumatra
(Indonesia) có liên quan đến nấm gây bệnh Phytophthora palmivora var.piperis.
Zimmerman (1901) tìm ra tuyến trùng gây bệnh tiêu ở Đông Java là Meloidogyne
spp.
Holliday và Mowat (1952-1953) ở Malaysia đã xác định nguyên nhân gây bệnh chết
nhanh là do nấm Phytophthora palmivora.
Blacklock (1954) cho rằng bệnh gỉ lá do tảo Cephaleuros parasiticus, tuyến trùng hại
rễ do Heterodera spp.
Ở Ấn Độ, Venkata Rao (1929) tách được nấm Phytophthora spp. từ cây bệnh nhưng
ông không coi đó là nguyên nhân gây bệnh.
Samrai và Jose (1966) đã phân lập được nấm gây bệnh héo rũ cây tiêu Phytophthora
palmivora var. piperis.
Barat (1952) cho rằng tuyến trùng Meloidogyne spp. tấn công rễ trước, sau đó các
nấm ký sinh khác mới xâm nhập theo và tiếp tục phá hoại bộ rễ.
Ở Wynad, từ những năm 1902 xuất hiện bệnh ‘héo chậm’. Krishna và Menon (1949)
đã phân lập được các loại nấm như: Fusarium, Diplodia và Rhizoctonia từ rễ những cây
tiêu mắc bệnh ‘héo chậm’ và cũng phát hiện thấy tuyến trùng bướu rễ Meloidogyne
incognita và tuyến trùng Radopholus similis.
Tuyến trùng Meloidogyne sp. được ghi nhận đầu tiên trên tiêu (Delacroix, 1902) ở
Cochin-China. Butler (1906) đã ghi nhận tuyến trùng gây sưng rễ trên tiêu ở Wynad,

Kerala (Ấn Độ). Meloidogyne javanica và Meloidogyne incognita thì được ghi nhận ở
Ấn Độ, Brazil, Sarawat, Broneo, Cochin-China, Malaysia, Brunei, Campuchia,
Indonesia, Thái Lan và Việt Nam (Lordello và Silva, 1974; Ichinohe, 1975; Reddy, 1977;
Freire và Monteiro, 1978; Winoto, 1972; Kueh và Teo, 1978). (Trích dẫn D.K.Koshy và
John Bridge, 1990).
Nguyễn Đăng Long và Bùi Cách Tuyến (1987) thì cho rằng phân hữu cơ ủ thật hoai mục
sẽ đưa vào đất một số nấm ăn tuyến trùng và làm phát triển một số tuyến trùng ăn tuyến
trùng. Rễ cây vạn thọ có một số chất hạn chế được sự phát triển của tuyến trùng, trồng 3-
5 cây xung quanh gốc tiêu có tác dụng tốt.
Lopes và Lordello (1979) cho rằng tuyến trùng Meloidogyne incognita kết hợp với
nấm Fusarium solani sẽ gây hại cho tiêu nặng hơn khi chúng gây hại đơn lẻ (trích
dẫn D.K.Koshy và John Bridge, 1990).
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
Phan Quốc Sũng cho biết trên tiêu có một số bệnh như:
Bệnh tuyến trùng: gồm có tuyến trùng gây nốt sần Meloidogyne incognita, tuyến
trùng đục hang Radopholus similis và một số tuyến trùng khác như Rotylenchulus
remiformis, Ditylenchus,…
Phòng trừ: bón phân hữu cơ hoai mục để tạo ra những thiên địch để diệt trừ
các tuyến trùng ký sinh hại tiêu từ các loại nấm và tuyến trùng ký sinh ăn thịt (bắt
mồi), dùng Diaphos rải quanh gốc từ 8-10 g thuốc/một gốc, Mocap 10G dùng 10-20
g/gốc hoặc sử dụng Nemaphos, Nemacur để xử lý.
Bệnh chết đột ngột (chết ẻo, héo rũ): do nấm Phytophthora spp. gây nên. Phòng
trừ bằng cách không trồng tiêu ở vùng bị úng nước, không để vườn bị ẩm ướt thường
xuyên, khi chớm bị bệnh dùng thuốc Aliette, Mexyl-72Mz và Funguran với nồng độ
0,2% để phun lên cây và tưới vào gốc (2-3 l/gốc).
Bệnh chết chậm: do các nấm Fusarium spp., Rhizoctonia spp., Diplodia,…phòng
trừ bằng cách trồng tiêu ở nơi đất tơi xốp, không bị úng nước, không để vườn tiêu
quá ẩm ướt, dùng Topsin-M, Benzeb và Funguran với nồng độ 0,2% tưới 2-3 lít/gốc
Bệnh khô vằn và thán thư: do nấm Rhizoctonia solani và Colletotrichum

gloeosporioides gây nên. Phòng trừ bằng các thuốc như Topsin-M Carbenzim,
Bendazol phun nồng độ 0,2%.
Bệnh mạng trắng: do nấm Marasmices scandens massee gây nên. Phòng trừ bằng
cách tiêu hủy cành bệnh, dùng Aliette, Topsin-M và Benzeb phun ướt đẫm cành lá
bệnh.
Bệnh mốc hồng : do nấm Corticium salmonicolor gây nên, nấm gây hại ở trên
thân và cành. Sử dụng các thuốc như ở bệnh mạng trắng để phòng trừ.
Bệnh tiêu điên hay bệnh xoắn lùn: bệnh do virus gây ra. Phòng trừ bằng cách nhổ
bỏ cây bị bệnh đem đốt, không dùng dao cắt cây bị bệnh để sang cắt cây không bị
bệnh, phòng trừ tốt các loại côn trùng như rệp, bọ rầy, bọ xít để diệt trừ các môi giới
truyền bệnh.
Phạm Văn Biên (1989) miêu tả triệu chứng bệnh, biện pháp phòng trừ và các yếu tố
làm cho bệnh phát triển như sau:
Các bệnh hại rễ và gốc thân (do các loại nấm Fusarium solani và Lasiodiplodia
theobromae, Phytophthora spp.). Nấm có thể xâm nhập bất kỳ chỗ nào ở gốc thân và
rễ, tạo thành vết biến màu và ướt. Dần dần vết bệnh ngày càng lan rộng. Khi mới
nhiễm bệnh, cắt ngang gốc thân hoặc rễ cái thấy phần lõi gỗ không còn trắng tươi mà
đã ngã sang màu xỉn hoặc nâu nhạt. Lâu ngày bộ phận bị bệnh nằm trong đất ẩm ướt,
5
Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu
tiếp tục bị rất nhiều vi sinh vật hoại sinh và bán ký sinh gây hại làm cho toàn bộ lõi
thân, rễ dần dần thối mục, thâm đen, xơ xác. Chỉ cần nắm gốc tiêu kéo mạnh là nơi
bị bệnh nặng có thể bị đứt ngang. Ở một số cây tiêu bị bệnh lâu, phần thối mục có
thể lan đến gốc thân, nằm trên cách mặt đất 20-30 cm và dễ dàng đứt ngang ở đó. Cả
bộ rễ chỉ còn trơ rễ cái nhưng cũng đã bị mục.
Nếu nấm bệnh bắt đầu xâm nhập từ rễ phụ hoặc rễ con thì quá trình xâm nhiễm
xảy ra chậm hơn. Nơi nấm xâm nhiễm phần rễ bị thâm đen. Dần dần vết thâm thối sẽ
lan rộng đến rễ cái rồi đi tới gốc thân. Thường chỉ khi những bộ phận này bị hại nặng
thì phần thân lá trên mặt đất mới tàn tạ nhanh chóng và khi đó cũng khó mà chữa cho
cây hồi phục được.

Trong một số trường hợp, nấm đồng thời xâm nhập và gây hại cả ở gốc rễ và thân
lá. Lá bệnh màu đen khô rồi rụng. Thân, cành bị bệnh cũng dần dần thâm đen, thối
và tháo đốt. Trong những trường hợp nấm xâm nhập và gây hại toàn thân như vậy thì
cây tiêu thường chết trong vòng 1-2 tháng.
Một số biện pháp chính phòng trừ bệnh hại rễ và gốc thân như sau:
Làm đất kỹ trước khi trồng, phơi ải đất trong mùa khô, dọn sạch cây, lá, cỏ,
rác.
Bón đầy đủ phân hữu cơ đã bị hoai mục với lượng 10-30 kg/nọc. Sử dụng đủ
và cân đối các loại phân N, P, K trong quá trình chăm sóc cây tiêu sinh trưởng.
Chọn trồng những giống có năng suất khá và tương đối ít bệnh như tiêu trung
lá lớn, tiêu trung lá nhỏ, tiêu sẻ lá lớn, Lada Belangtoeng.
Dây giống trước khi giâm trồng nên ngâm 20-30 phút trong thuốc Benlat
1/1000, Zineb 3/1000. Không lấy dây giống từ vườn có bệnh.
Không để tiêu bị úng hoặc quá hạn.
Kịp thời trừ sâu và tuyến trùng hại tiêu.
Xử lý thuốc phòng bệnh một năm hai lần vào đầu mùa mưa và đầu mùa khô
bằng các loại thuốc: Bordeaux 1%, Ridomil 1/1000, Rovral 1/1000, Validacine
1/1000. Tưới 2-3 lít nước thuốc cho một nọc tiêu.
Trong trường hợp bệnh đang phát triển, cứ 3-4 tuần xử lý thuốc một lần cho

×