Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Nêu khái niệm chính sách xã hội.Phân tích quan điểm của Đảng về giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.Kết quả thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.29 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP. HCM
KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM

TIỂU LUẬN

Nêu khái niệm chính sách xã hội.Phân tích quan điểm
của Đảng về giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo của
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.Kết quả thực hiện cơng
tác xóa đói giảm nghèo từ năm 1986 đến nay

TP HỒ CHÍ MINH, 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP. HCM
KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM

TIỂU LUẬN

Nêu khái niệm chính sách xã hội.Phân tích quan điểm của
Đảng về giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo của Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới.Kết quả thực hiện cơng tác xóa
đói giảm nghèo từ năm 1986 đến nay


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan rằng tồn bộ nội dung trong bài tiểu luận này là do nhóm tự
nghiên cứu, biên soạn và viết ra. Tất cả các thông tin, dữ liệu, tài liệu tham khảo,
trích dẫn từ các nguồn khác đều được ghi rõ và chính xác theo quy định của
pháp luật.
Tôi hi vọng rằng bài tiểu luận này sẽ đóng góp vào việc tăng cường kiến thức
của tôi cũng như của những người đọc và sử dụng nó. Tơi xin chân thành cảm


ơn sự hỗ trợ và giúp đỡ của gia đình, bạn bè và giảng viên trong quá trình làm
bài tiểu luận này.
Xin chân thành cảm ơn.

i


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
i
MỤC LỤC
ii
MỞ ĐẦU
1
Đặt vấn đề...............................................................................................................1
Mục tiêu của đề tài..................................................................................................1
Phạm vi nghiên cứu đề tài:......................................................................................2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
3
1.1. Khái niệm chính sách xã hội.............................................................................3
1.1.1. Khái niệm..................................................................................................3
1.1.2. Vai trị của chính sách xã hội....................................................................4
1.1.3. Tính chất đặc trưng....................................................................................5
1.1.4. Phân loại các chính sách xã hội.................................................................5
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VẤN ĐỀ XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
7
2.1. Thực tiễn vấn đề phân hóa giai cấp giàu nghèo của Việt Nam hiện nay...........7
2.1.1. Thực trạng phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam............................................7
2.1.2. Hệ lụy của sự phân hóa giàu nghèo.........................................................10

2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc xóa đói giảm nghèo.................14
2.2.1. Lý do.......................................................................................................14
2.2.2. Quan điểm của Đảng...............................................................................15
2.3. Mục tiêu và nhiệm vụ của Đảng về giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo....16
2.4. Kế hoạch thực hiện, phương hướng hiện tại và lâu dài của Đảng...................18
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ
20
3.1. Giai đoạn 1986-1990......................................................................................20
3.2. Giai đoạn 1991-2000......................................................................................21
3.2.1. Bối cảnh và phương hướng phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 1991-2000 21
3.2.2. Những thành tựu chủ yếu:.......................................................................23
3.2.3. Những hạn chế và yếu kém.....................................................................24
3.3. Giai đoạn 2001-2010:.....................................................................................25
3.4. Giai đoạn 2011-2020......................................................................................26
3.5. Giai đoạn 2021-2023......................................................................................27

ii


MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề
Đề tài liên quan đến chính sách xã hội và phát triển kinh tế luôn là các chủ đề quan
trọng và thu hút sự quan tâm của đơng đảo người dân. Việc nghiên cứu và phân tích
về các chính sách xã hội, cũng như đánh giá kết quả thực hiện các chương trình giảm
nghèo, xóa đói sẽ giúp ta hiểu rõ hơn về quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước trong quá khứ và hiện tại, từ đó có thể đưa ra các giải pháp cải thiện cuộc sống
của người dân
Mục tiêu của đề tài
Mục đích của đề tài này là tìm hiểu khái niệm chính sách xã hội và phân tích quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo trong thời

kỳ đổi mới. Nghiên cứu này nhằm cung cấp thông tin và kiến thức cho những người
quan tâm đến chính sách xã hội và tình hình giảm nghèo đói ở Việt Nam, đặc biệt là
sinh viên, học viên các trường đại học, cao đẳng và những người làm việc trong lĩnh
vực này.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này bao gồm các chính sách xã hội của Việt Nam, đặc
biệt là chính sách xóa đói giảm nghèo, cũng như các quan điểm và các biện pháp của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề này. Ngồi ra, đối tượng nghiên
cứu cịn bao gồm tình hình giảm nghèo đói ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, các
chính sách, các biện pháp, các chương trình được triển khai trong cơng tác xóa đói
giảm nghèo của Việt Nam.
Phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải quyết vấn đề xóa đói giảm
nghèo là rất quan trọng để hiểu rõ các mục tiêu, các chính sách, các biện pháp của đất
nước trong cơng tác này. Chính sách xóa đói giảm nghèo được xem là một trong
những mũi nhọn của chính sách xã hội, mục tiêu của chính sách này là đem lại cuộc
sống tốt đẹp hơn cho người dân và tạo ra sự phát triển bền vững cho đất nước. Từ khi
Đại hội XIII của Đảng diễn ra vào năm 2006, chính sách xóa đói giảm nghèo đã được
đặt lên hàng đầu trong các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Kết quả
thực hiện cơng tác xóa đói giảm nghèo từ năm 1986 đến nay là rất tích cực, tỷ lệ hộ
1


nghèo giảm mạnh và đạt được nhiều kết quả quan trọng, tuy nhiên, vấn đề xóa đói
giảm nghèo vẫn cịn đòi hỏi sự nổ lực liên tục của cả xã hội, đặc biệt trong bối cảnh
đất nước đang phát triển và hội nhập với thế giới
Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các trang nghiên cứu - trao đổi của Trang thông tin
điện tử Hội đồng lý luận Trung ương, một số trang báo điện tử trong nước.
Ngồi ra, cịn hệ thống các số liệu và văn bản quản lý nhà nước về công tác xóa đói
giảm nghèo tại Việt Nam. Đây cũng là nguồn tư liệu quan trọng trong việc nghiên cứu
và phân tích khi nghiên cứu các thơng tin báo chí về cơng tác xóa đói giảm nghèo hiện

nay.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp chủ yếu: Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch
sử
Phương pháp khác: khảo sát, phỏng vấn, giám sát và thu thập dữ liệu để phân tích tình
hình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới mới và hiểu rõ hơn về
quan điểm của Đảng trong việc giải quyết vấn đề này. Đồng thời, các nhà nghiên cứu
có thể kiểm tra và đánh giá hiệu quả của các chính sách và biện pháp mà Đảng đã đưa
ra để giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo.

2


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm chính sách xã hội
1.1.1. Khái niệm

Chính sách xã hội nhằm xác định và tìm cách giảm thiểu bất bình đẳng trong
tiếp cận dịch vụ và hỗ trợ giữa các nhóm xã hội được xác định theo tình trạng
kinh tế – xã hội, chủng tộc, dân tộc, tình trạng di cư, giới, khuynh hướng tình
dục, khuyết tật và tuổi tác và giữa các quốc gia là bước phát triển mới của lịch
sử lập hiến nước ta trong việc thể chế hóa những tư tưởng, quan điểm và nội
dung cơ bản của chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Các quy định về
chính sách xã hội được thể hiện chủ yếu trong Chương III - Kinh tế, xã hội, văn
hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường và một số quy định trong
Chương II - Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Một trong những yêu cầu cơ bản, quan trọng của chính sách xã hội là sự thống
nhất biện chứng của chúng với chính sách kinh tế. Trình độ phát triển kinh tế là
tiền đề để phát triển chính sách xã hội và ngược lại, sự hợp lý, sự công bằng và
tiến bộ được thực hiện qua chính sách xã hội lại tạo ra những động lực mạnh mẽ

cho việc thực hiện những mục tiêu kinh tế nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh.
Chính sách xã hội phải đạt được những mục tiêu đem lại đời sống tốt đẹp cho
con người, mang lại sự công bằng, dân chủ cho mỗi con người, khơng theo chủ
nghĩa bình quân. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, chính sách xã
hội phải hướng tới sự công bằng xã hội, phải đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi
và nghĩa vụ giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật. Chính sách xã hội hợp
lý là tạo điều kiện phát triển kinh tế bền vững, quan tâm đến lợi ích và phát huy
được tiềm năng lao động sáng tạo của tất cả các giai cấp và tầng lớp dân cư
trong xã hội. về chính sách xã hội tiến bộ và nhân đạo, đảm bảo sự phát triển
toàn diện của con người Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Mục tiêu của chính sách xã hội
thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của
nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài hịa giữa phát triển kinh tế vón
phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời
sổng vật chất và đời sống tỉnh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở
và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế”.

3


1.1.2. Vai trị của chính sách xã hội

Một trong những vai trị của chính sách xã hội đó chính sách này được nhận
định là một trong các công cụ, biện pháp để Nhà nước tiến hành phát triển toàn
diện con người. Hay là chính sách xã hội được nhận định là chính sách đối với
con người, nó phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực con người trong việc ổn định
và phát triển xã hội, nó ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của xã hội.
 Chính sách xã hội phân tích các vai trị khác nhau của: chính phủ quốc gia, gia đình,

xã hội dân sự, thị trường và các tổ chức quốc tế trong việc cung cấp các dịch vụ và
hỗ trợ trong suốt cuộc đời từ thời thơ ấu đến tuổi già. Các dịch vụ và hỗ trợ này bao
gồm hỗ trợ trẻ em và gia đình, đi học và giáo dục, đổi mới nhà ở và khu vực lân
cận, duy trì thu nhập và giảm nghèo, hỗ trợ thất nghiệp và đào tạo, lương hưu, chăm
sóc sức khỏe và xã hội. Chính sách xã hội nhằm xác định và tìm cách giảm thiểu bất
bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ và hỗ trợ giữa các nhóm xã hội được xác định theo
tình trạng kinh tế – xã hội, chủng tộc, dân tộc, tình trạng di cư, giới, khuynh hướng
tình dục, khuyết tật và tuổi tác và giữa các quốc gia.
 Những phân hóa, mâu thuẫn và khác biệt xã hội được khắc phục dựa trên một cơng
cụ cụ thể đó chính là chính sách xã hội. Đồng thời chính sách này cịn được dùng để
để điều tiết các quan hệ xã hội nhằm phát huy khả năng của tồn xã hội vào những
mục tiêu chung. Nói một cách đơn giản hơn là khi cơ cấu xã hội của xã hội đó
khơng cịn phù hợp để thúc đẩy xã hội phát triển hay là khi xã hội có “vấn đề xã
hội” nảy sinh, thì lúc này, cần phải điều chỉnh vào các phân hệ của cơ cấu xã hội
bằng cách dùng các chính sách xã hội tác động vào để cho xã hội được công bằng,
tạo môi trường tích cực cho xã hội phát triển và từ đó hướng tới hình thành cơ cấu
xã hội mới phù hợp, tối ưu, đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển trong sự ổn
định.

Suy đến cùng thì chính sách xã hội hợp lý và giải quyết thỏa đáng các mối quan
hệ xã hội trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực khác nhau cần dựa trên việc đảm bảo
xã hội phát triển trong sự ổn định, đây được xem là một trong những nội dung
tiên quyết.
Sự công bằng xã hội được hướng tới dựa trên vai trò quan trọng của chính sách
xã hội. Cũng chính vì vậy mà nó đã tạo ra tính tích cực, năng động xã hội, làm
cho xã hội phát triển bền vững. Bởi vậy mà sự cân đối mặt bằng giữa các chính
sách, là giải quyết chính sách xã hội sao cho vấn đề lợi ích giữa các đối tượng có
thể có chênh lệch nhưng xã hội chấp nhận được và được xác định chung đó
chính là cơng bằng. Các động lực xã hội sẽ bị làm triệt tiêu và dẫn tới sự trì trệ
4



và khủng hoảng xã hội nếu khơng có chính sách xã hội phù hợp, giải quyết đúng
đắn vấn đề mấu chốt này. Bài học kinh nghiệm qua việc áp dụng một chính sách
cào bằng chung chung trong thời bao cấp trước đây ở nước ta dẫn đến tình trạng
khủng hoảng kinh tế trầm trọng cho thấy rõ điều đó.
1.1.3. Tính chất đặc trưng
Hiện nay, nghèo đói vẫn là một vấn đề khó giải quyết trong xã hội. Để giảm bớt và
tiến tới xóa bỏ tình trạng này, trong xây dựng, ban hành chính sách xóa đói, giảm
nghèo đa chiều bền vững, cần xác định một số phương hướng, nhiệm vụ sau:
 Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong phát triển kinh tế,
văn hóa, giáo dục, xóa đói, giảm nghèo và an sinh xã hội; chú trọng các giải pháp,
tạo điều kiện và khuyến khích hộ nghèo, cận nghèo phấn đấu tự vươn lên thoát
nghèo bền vững
 Xây dựng chính sách, chiến lược phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo khoa học,
sáng tạo, mang tính đột phá, phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội, lợi thế so sánh
trong từng vùng, miền, lĩnh vực của Việt Nam.
 Đánh giá kết quả thực hiện những chương trình, chính sách xóa đói, giảm nghèo;
đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành chính sách xóa đói, giảm nghèo;
tổ chức bộ máy hiệu quả, hợp lý, xây dựng đội ngũ cơng chức có trình độ cao về
lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo.
1.1.4. Phân loại các chính sách xã hội
Để phát huy hiệu quả của chính sách, đáp ứng u cầu của cơng cuộc xóa đói giảm
nghèo đa chiều bền vững, cần xây dựng, ban hành những chính sách xóa đói, giảm
nghèo với những mục tiêu, nội dung cụ thể như sau:
Về chính sách phát triển kinh tế: Việc xây dựng, ban hành chính sách phát triển kinh tế
cần dựa trên cơ sở lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực có lợi thế kinh tế và kết hợp với việc
thực hiện nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo; có định hướng phù hợp nhằm phát huy, khai
thác hết tiềm năng, thế mạnh của địa phương để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất; tạo
nguồn lực kinh tế cần thiết để thực hiện những chương trình, mục tiêu xóa đói, giảm

nghèo.
Về chính sách hỗ trợ tín dụng: Phát huy tối đa hiệu quả của vốn tín dụng trong phát
triển kinh tế đối với các cá nhân, hộ gia đình thuộc diện đối tượng xóa đói, giảm
nghèo; nâng mức tín dụng nhằm hỗ trợ nguồn vốn phát triển kinh tế cho từng đối
tượng, theo từng lĩnh vực, ngành nghề; hỗ trợ đào tạo kỹ năng, phương pháp sử dụng
nguồn vốn có hiệu quả cho từng nhóm đối tượng, theo khả năng và trình độ văn hóa.
Về chính sách phát triển du lịch: Ban hành chính sách phát triển du lịch quốc gia nhằm
tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo ở vùng sâu, vùng xa, dân tộc ít người có
5


điều kiện phát triển du lịch văn hóa và du lịch sinh thái; gắn kết giữa chính sách phát
triển về du lịch với những chính sách phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, chính sách
phát triển văn hóa, chính sách đầu tư hạ tầng, đường giao thông nông thôn, miền núi.
Về chính sách hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo: Tập trung phát triển hạ tầng nông thôn,
đường giao thông miền núi, phát triển hệ thống thủy lợi, hỗ trợ cây, con giống, giải
quyết việc làm, xuất khẩu lao động, hỗ trợ kỹ thuật nhằm tạo điều kiện giúp người
nghèo giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống, thu nhập; hỗ trợ người nghèo trong việc
tiếp cận các loại dịch vụ cơng về văn hóa, giáo dục, y tế, pháp lý; hồn thiện chính
sách an sinh, phúc lợi xã hội, ổn định đời sống của người nghèo ở nông thôn, miền núi
và thành thị.
Về chính sách văn hóa, giáo dục: Phát triển và nâng cao nhận thức về khoa học, kỹ
thuật cho người dân ở những vùng, miền khó khăn; đẩy mạnh chính sách đào tạo, dạy
nghề và hỗ trợ học sinh, sinh viên người dân tộc ít người về học phí, học bổng; bảo
tồn, gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của từng dân tộc, vùng, miền.
Về chính sách tài ngun, mơi trường: Bảo vệ tài nguyên, môi trường theo hướng bền
vững, bảo đảm việc khai thác và sử dụng lâu dài, hiệu quả cho các thế hệ sau; tập trung
tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong cộng đồng về tác hại của việc phá rừng, ô
nhiễm nguồn nước, hủy hoại môi trường tự nhiên và săn bắt những nguồn gen quý
hiếm.

Về chính sách hỗ trợ y tế, ổn định dân số: Hỗ trợ, giúp đỡ những người nghèo, đối
tượng chính sách về thuốc men, dịch vụ khám chữa bệnh, dịch vụ y tế dự phòng và
bảo hiểm y tế; điều chỉnh tăng dân số hợp lý phù hợp với khả năng tăng trưởng của
ngành nông nghiệp, phù hợp trình độ phát triển về y tế, giáo dục và nhu cầu về nguồn
lao động của xã hội.

6


CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VẤN ĐỀ XÓA
ĐÓI GIẢM NGHÈO TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Thực tiễn vấn đề phân hóa giai cấp giàu nghèo của Việt Nam hiện nay
2.1.1. Thực trạng phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam
Ở Việt Nam, sự phân hóa giàu nghèo chưa biểu hiện rõ trong thời kỳ quản lý kinh tế xã hội theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Lúc đó sự phân hóa giàu nghèo bị che
khuất bởi chủ nghĩa bình qn và chế độ cơng hữu với cơ cấu giai cấp “hai giai một
tầng”(giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức). Chỉ từ
sau khi đất nước bước vào cơng cuộc đổi mới tồn diện (1986), xóa bỏ cơ chế quản lý
cũ, thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, thì sự phân
hóa giàu nghèo mới bộc lộ và ngày càng trở nên sâu sắc. Theo kết quả điều tra, rà soát
hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2012 so với năm 2011 của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội (LĐTBXH) thì miền núi Tây Bắc có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất với 33,02%;
tiếp đến là miền núi Đông Bắc 21,01%; Tây Nguyên 18,62%; Khu 4 cũ 18,28%;
Duyên hải miền Trung 14,49%; Đồng bằng sông Cửu Long 11,39%; Đồng bằng sông
Hồng 6,5% và Đông Nam Bộ 1,7%. Tám tỉnh, thành phố có tỷ lệ hộ nghèo dưới 5% là
Thành phố Hồ Chí Minh (0,006%), Bình Dương (0,01%), Đồng Nai (1,24%),(*)Bà
Rịa - Vũng Tàu (2,95%), Đà Nẵng (2,98%), Hà Nội (3,14%), Tây Ninh (4,27%),
Quảng Ninh (4,89%). Một số tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo còn cao như: Điện Biên 45,28%,
Lai Châu 38,88%, Hà Giang 35,38%, Lào Cai 35,29%...
Số liệu trên cho thấy, sự chênh lệch phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam hiện nay... 21 về
tỷ lệ hộ nghèo năm 2012 giữa 2 vùng Đông Bắc và Tây Bắc là rất lớn. Tây Bắc có tỷ

lệ hộ nghèo cao nhất; tiếp đến là miền núi Đông Bắc. Chênh lệch hộ nghèo giữa vùng
(miền núi Tây Bắc) và tỉnh (Điện Biên) có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất với vùng (Đông
Nam Bộ) và Thành phố Hồ Chí Minh có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất là 28 và 39 lần. Tỷ lệ
hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm 47% tổng số hộ nghèo trong cả nước, thu nhập bình
quân đầu người của hộ dân tộc thiểu số chỉ bằng 1/6 mức thu nhập bình quân đầu
người của cả nước. Người dân tộc thiểu số ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số
người nghèo, đồng thời khoảng cách giữa người dân tộc thiểu số và các nhóm cịn lại
đang ngày càng tăng lên. Các chỉ số thống kê của Việt Nam cho thấy, hệ số Gini năm
1994 là 0,350, năm 1995 là 0,357, năm 1996 là 0,362, năm 1999 là 0,390, năm 2002 là
7


0,420, năm 2004 là 0,420, năm 2006 là 0,424, năm 2008 là 0,434, năm 2010 là 0,433
và năm 2012 là 0,424. Theo chuẩn quốc tế, hệ số Gini ở mức 0,4 trở lên thể hiện sự bất
bình đẳng ở mức nguy hiểm. Điều đó cho thấy, ở Việt Nam khoảng cách giàu nghèo
rất lớn. Những người giàu ngày càng có xu hướng giàu thêm bởi họ có nhiều điều kiện
thuận lợi, cịn những người nghèo tuy có thể khơng nghèo hơn, nhưng rất khó có sự cải
thiện lớn về thu nhập do hạn chế về vốn, trình độ học vấn, tay nghề... Chênh lệch về
thu nhập giữa 20% nhóm thu nhập cao nhất (nhóm thu nhập 5) với 20% nhóm thu
nhập thấp nhất (nhóm thu nhập 1) cũng ngày càng doãng rộng: năm 1995 là 7,0 lần;
1996 là 7,3 lần; 1999 là 7,6 lần; 2002 là 8,1 lần; 2004 là 8,34 lần; 2006 là 8,37 lần;
2008 là 8,93 lần; 2010 là 9,23 lần; năm 2012 tăng lên 9,35 lần(3). Tổng trị giá tài sản
của 500 người giàu nhất sàn chứng khoán năm 2013 là trên 82.700 tỷ đồng, chiếm hơn
8,5% quy mơ vốn hóa tồn thị trường, song chỉ bằng 1/19 tài sản của Bill Gates. Trong
đó, riêng Top 100 đã sở hữu khối tài sản hơn 70.900 tỷ đồng. Chênh lệch thu nhập
bình quân nhân khẩu 1 tháng chia theo thành thị và nông thôn năm 2002 là 2,26 lần;
năm 2004 là 2,16 lần; năm 2006 là 2,09 lần; năm 2008 là 2,11 lần; năm 2010 là 1,99
lần; năm 2012 là 1,89 lần. Chênh lệch vùng có thu nhập bình qn đầu người cao nhất
là Đơng Nam Bộ với vùng có thu nhập bình qn đầu người thấp nhất là vùng Tây Bắc
năm 2002 là 2,3 lần; năm 2004 là 3,14 lần; năm 2006 là 2,86 lần; năm 2008 là 3,0 lần;

năm 2010 là 2,92 lần; năm 2012 là 3,02 lần.
Ngay cả lương, thưởng Tết cũng có sự chênh lệch giàu nghèo rất lớn. Tại Hà Nội, một
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) có mức thưởng Tết cao nhất
năm 2013 là 65 triệu đồng/người, thấp nhất là 250 nghìn đồng/người, chênh lệch gần
300 lần . Tại Thành phố Hồ Chí Minh, mức thưởng Tết cao nhất của một doanh nghiệp
FDI lên đến gần 710 triệu đồng và thấp nhất là một thùng tương ớt. Tại Thừa Thiên Huế doanh nghiệp có mức thưởng Tết cao nhất là 283 triệu đồng/người cho các chức
danh chủ chốt, cịn doanh nghiệp có mức thưởng thấp nhất là 150.000 đồng/người. Tại
Đà Nẵng, theo báo cáo của 378 doanh nghiệp trên địa bàn, mức thưởng Tết cao nhất là
172 triệu đồng/người và thấp nhất là 100.000 đồng/người. Tại Bình Dương, doanh
nghiệp FDI mức thưởng thấp nhất 2 triệu đồng/người, cao nhất 208 triệu đồng/người,
chênh lệch hơn 100 lần. Tại Quảng Ngãi, 82 doanh nghiệp báo cáo kế hoạch thưởng
Tết cho nhân viên, người lao động cho thấy mức thưởng cao nhất là 120 triệu
8


đồng/người và thấp nhất là 100.000 đồng/người. Dĩ nhiên, đây chỉ là những con số
được cơng bố, cịn những con số thực thì chẳng có thước đo nào có thể đong đếm. Đạt
được sự đồng đều trong thu nhập của người lao động là rất khó bởi đặc thù cơng việc,
trình độ cơng nghệ, quản lý cũng như năng lực người lao động mỗi người, mỗi nơi
khác nhau. Vì thế, chênh lệch lương thưởng giữa các ngành nghề, các vị trí cơng tác
trong xã hội là chuyện khó tránh khi cả nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Bình đẳng xã hội hồn tồn chỉ đạt được dưới chủ nghĩa cộng sản - xã hội có đủ điều
kiện để thực hiện nguyên tắc phân phối: “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Nhưng sự khác nhau quá lớn dường như đang tiếp tục khoét sâu cái hố cách biệt giàu
nghèo mà đôi lúc trở nên hết sức phi lý trong khi chúng ta đang phấn đấu xây dựng
một xã hội công bằng, văn minh.
Sự khác biệt về thu nhập dẫn đến sự khác biệt rõ ràng về chất lượng sống giữa nhóm
giàu với nhóm nghèo. Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2012, mức chi tiêu
cho đời sống ở khu vực thành thị gấp 1,74 lần ở khu vực nơng thơn và có xu hướng thu
hẹp dần khoảng cách (hệ số này năm 2010 là 1,92 lần; năm 2008 là 2,03 lần; năm 2006

là 2,06 lần; năm 2004 là 2,1 lần; năm 2002 là 2,18 lần). Năm 2012, mức chi tiêu cho
đời sống của vùng có thu nhập bình qn đầu người cao nhất là Đơng Nam Bộ, cao
gấp 2,13 lần vùng có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất là vùng Tây Bắc. Chi
tiêu cho đời sống của nhóm hộ giàu nhất cao gấp 5,6 lần của nhóm hộ nghèo nhất (hệ
số này năm 2010 là 4,6 lần; 2008 là 4,2 lần, năm 2006, 2004 và 2002 là 4,5 lần).
Các phương tiện truyền thông đại chúng đưa nhiều thông tin về những đám cưới
“khủng” với dàn siêu xe “triệu đô” tiêu tốn vài chục tỷ đồng... Trong khi đó, biết bao
người nghèo khổ đang chạy ăn từng bữa, thậm chí khơng ít người nghèo đến mức phải
tìm đến cái chết để tự giải thốt cho mình và để đỡ gánh nặng cho người khác. Nhiều
em nhỏ ở các vùng quê nghèo chân đất, đầu trần lội trong giá rét để mưu sinh, chân tay
tím tái, mơi run cầm cập vì lạnh, vì đói, thì cũng có khơng ít quan chức lại bỏ tiền tỷ
trong những buổi đánh bạc. Ở các thành phố lớn, bên cạnh những ngôi nhà, biệt thự bỏ
hoang vẫn ngày ngày ngang nhiên tồn tại, thì cũng khơng ít người dân khơng có nhà
hoặc phải sinh sống trong những khu ổ chuột rách nát, được xây tạm bợ trên những
vùng đất chiếm ngụ bất hợp pháp, bên cạnh các bãi rác cơng nghiệp.
Biểu hiện của sự phân hóa giàu nghèo cũng có thể thấy ở cả lĩnh vực y tế. Trong khi
9


đại đa số người giàu có thu nhập cao đều lựa chọn những bệnh viện tư, bệnh viện có
vốn nước ngồi, kỹ thuật điều trị cao để chăm sóc sức khoẻ, thì chăm sóc y tế lại là thứ
xa xỉ đối với người nghèo. Ngay cả tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh giữa các tỉnh miền núi và
các thành phố cũng có sự cách biệt lớn, cao nhất (Điện Biên) và thấp nhấp (Thành phố
Hồ Chí Minh) vẫn là 5 lần; và sự khác biệt về tỷ lệ đó giữa nhóm dân tộc thiểu số và
nhóm đa số là 3 lần. Trẻ em dân tộc thiểu số có khả năng tử vong lớn gấp 3-4 lần khả
năng tử vong ở trẻ người Kinh/Hoa là hàng xóm của họ. Đáng lo ngại hơn, tỷ lệ tử
vong của trẻ em dân tộc thiểu số đã cao hơn trong vòng 5 năm qua (theo số liệu Giám
sát dinh dưỡng quốc gia năm 2012). Đây là một thực tế xót xa, minh chứng cho
khoảng cách giàu nghèo ở Việt Nam ngày càng nới rộng.
Trong thời kỳ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều quan hệ sản xuất, điều kiện

cơ may xã hội đối với mỗi người, mỗi gia đình, mỗi vùng lãnh thổ khác nhau, vì thế sự
phân hóa giàu nghèo là khó tránh khỏi, là điều bình thường của xã hội. Chúng ta
khơng thể tùy tiện can thiệp hay xóa bỏ được sự phân hóa giàu nghèo theo ý chủ quan
của mình. Giải quyết tốt vấn đề phân hóa giàu nghèo, sẽ tác động tích cực tới mục tiêu
phát triển nền kinh tế một cách bền vững, tránh được những hệ lụy do quá trình đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế gây ra; đồng thời, kích thích ý chí, lịng tự trọng, sự
ganh đua, tính sáng tạo của cá nhân; thúc đẩy con người năng động hơn, nhạy bén hơn.
Những người giàu lên do làm ăn chân chính, có lối sống lành mạnh còn là tấm gương,
là mục tiêu để những người nghèo sống lương thiện phải nỗ lực vươn lên. Những hộ
giàu lên một cách hợp pháp cũng hỗ trợ những hộ nghèo trong khả năng của họ về
kinh nghiệm làm giàu. Sự giàu có hợp pháp cũng làm cho nền kinh tế phát triển với
năng suất lao động cao, tăng phúc lợi xã hội cho người dân, góp phần tạo nên sự phồn
vinh, hưng thịnh của đất nước. Vì vậy, khoảng cách giàu nghèo trong một giới hạn
nhất định có thể là hợp lý. “Sự phân hóa giàu nghèo ở đây không phải là biểu hiện của
sự vi phạm cơng bằng xã hội, mà lại chính là biểu hiện của việc công bằng xã hội đang
được lập lại” .
2.1.2. Hệ lụy của sự phân hóa giàu nghèo
Ở Việt Nam hiện nay sự phân hóa giàu nghèo đã ở mức bất hợp lý. Sự phân hóa giàu
nghèo bất hợp lý đang gây ra nhiều hệ lụy, đòi hỏi tồn thể xã hội phải quan tâm giải
quyết, vì nó không chỉ đe dọa đến an ninh kinh tế, an ninh xã hội, mà còn làm xuống
10


cấp các giá trị nhân cách của con người. Điều đó đi ngược lại với bản chất, mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang từng bước xây dựng. Xét dưới góc độ chính trị,
phân hóa giàu nghèo có thể sẽ dẫn đến phân cực xã hội. Bên cạnh những người giàu
lên bằng tài năng, công sức thực sự thì cũng có khơng ít “quan tham”, “đại gia” hay
“trọc phú”, giàu lên nhanh chóng một cách bất minh, bất hợp pháp, do lợi dụng những
khe hở luật pháp để khai thác tài nguyên, bóc lột lao động và vơ vét, tài sản xã hội.
Những khoản thu nhập bất chính này làm gia tăng khoảng cách chênh lệch giữa nhóm

giàu và nhóm nghèo, làm cho những người nghèo càng trở nên nghèo hơn. Vì nguồn
tiền kiếm được do phi lao động là chủ yếu, không phải “đổ mồ hôi, sơi nước mắt”, nên
nhóm người giàu có này sống rất xa hoa, lãng phí, thậm chí hết sức hợm hĩnh (như
“quan tham” đánh bạc ngàn tỷ, đại gia xây mộ triệu đơla, xây nhà cho chó). Trong xã
hội, người nào cũng được làm những điều mình thích, miễn sao khơng vi phạm pháp
luật. Song, điều đáng nói ở đây là, nguồn gốc khơng chính đáng của những đồng tiền
đó và văn hóa tiêu dùng thấp kém một cách trầm trọng. Vì văn hóa thấp, nên nhiều
người giàu này dùng đồng tiền một cách hợm hĩnh. Một bức tranh tương phản gay gắt
giữa kẻ "vung" tiền như rác và người lao động nghèo khổ thì quả là cực kỳ phản cảm.
Ngược lại, về phía người nghèo, bên cạnh một bộ phận người nghèo là do đông con,
lười lao động, nghiện hút, tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự trợ cấp của Nhà nước, cịn có
một bộ phận khơng nhỏ người nghèo do chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà
chưa có các thiết chế phịng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như thiên tai, dịch
bệnh, sâu hại, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, thất nghiệp, rủi ro về giá sản phẩm
đầu vào và đầu ra của thị trường thế giới và khu vực, rủi ro về chính sách thay đổi
khơng lường trước được, rủi ro về hệ thống hành chính kém minh bạch, quan liêu,
tham nhũng... Sự phân hóa giàu nghèo về lâu dài sẽ làm cho người dân bức xúc, làm
giảm tính gắn kết xã hội, làm gia tăng các vụ khiếu kiện gây mất ổn định xã hội. Phân
hóa giàu nghèo cịn dẫn đến những hệ quả tiêu cực là: nội bộ cán bộ, đảng viên tự diễn
biến theo chiều hướng xấu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh chính trị nội bộ;
bộ máy nhà nước hoạt động kém hiệu lực; các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước bị vơ hiệu hóa và bị làm sai lệch; sự lãnh đạo của Đảng suy yếu. Điều đó tạo
điều kiện cho các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hịa bình", làm
giảm sút lịng tin của nhân dân đối với Đảng và đe dọa sự tồn vong của chế độ xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta đang từng bước xây dựng.
11


Sự phân hóa giàu nghèo khơng chỉ tiềm ẩn những mâu thuẫn, xung đột, mà cịn có
nguy cơ phá hỏng sự nghiệp đổi mới và các mục tiêu phát triển của nước ta. Bài học

kinh nghiệm từ Inđônêxia đã cho thấy, nếu chính phủ giải quyết tốt những vấn đề xã
hội thì sẽ khơng có tư tưởng dân tộc hẹp hịi, khơng có xung đột sắc tộc, tơn giáo ở
Đơng Timo và hàng loạt các địa phương khác trong cả nước. Phong trào “Chiếm Phố
Wall” nổ ra ở Mỹ sau đó lan khắp Châu Âu, hay phong trào biểu tình lật đổ chính
quyền ở nhiều nước Trung Đơng cũng có nguyên nhân từ chênh lệch giàu nghèo.
Dưới góc độ kinh tế, sự phân hóa giàu nghèo có thể trở thành yếu tố kìm hãm sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế (nếu đó là sự làm giàu khơng chính đáng). Vì, tình trạng
bất bình đẳng trong thu nhập ngày càng trở nên trầm trọng sẽ khiến tăng trưởng kinh tế
không thể ổn định. Điều này gây ra tình trạng di dân cơ học từ nông thôn ra thành thị,
từ vùng khó khăn sang vùng thuận lợi hơn, từ đó gây áp lực quá tải lên cơ sở hạ tầng
đô thị và gây xáo trộn xã hội. Do đó, việc giải quyết tốt vấn đề phân hóa giàu nghèo sẽ
tác động tích cực tới mục tiêu phát triển nền kinh tế một cách bền vững.
Dưới góc độ xã hội, phân hóa giàu nghèo ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh xã hội; làm
gia tăng tệ nạn xã hội, các loại tội phạm. Vì ln phải đối đầu với những khó khăn về
kinh tế, nên khơng ít người nghèo lúc nào cũng cảm thấy cuộc sống của mình bị đe
dọa. Cái nghèo, cái đói cũng thường đi liền với sự thất học, đó cũng là những nguyên
nhân đẩy một bộ phận người nghèo vào ngõ cụt của cuộc đời. Với quan niệm “khơng
có gì để mất”, nên một số người nghèo có thể liều lĩnh làm những việc trái với pháp
luật và đạo đức (như trộm cướp, lừa đảo, buôn lậu, bán dâm, thậm chí giết người).
Trong nhiều vụ án, đối tượng phạm tội là người nghèo; nếu có cuộc sống tương đối ổn
định thì có lẽ họ khơng phạm tội. Nghèo đói cũng khiến nhiều thanh, thiếu niên khơng
được học hành đến nơi đến chốn đã tìm đến các đơ thị kiếm việc làm, tìm cơ hội đổi
đời. Cuộc mưu sinh khó khăn khiến khơng ít người trong số họ rơi vào cảnh túng bấn,
quẫn bách khơng lối thốt và họ trở thành tội phạm. Xét về khía cạnh đạo đức, sự phân
hóa giàu nghèo làm cho một số người định hướng lệch lạc các giá trị chuẩn mực đạo
đức, lối sống của xã hội. Cùng với việc đẩy mạnh kinh tế thị trường có sự gia tăng triết
lý sống “mạnh được yếu thua, khôn sống mống chết” và dục vọng chạy theo đồng tiền,
bất chấp tình nghĩa. Sự xuống cấp về đạo đức là nhân tố làm phá vỡ nền nếp gia phong
của nhiều gia đình. Tình trạng bạo hành trong gia đình, tình trạng bn bán phụ nữ và
12



trẻ em, trẻ em bị xâm hại, trẻ em phải lang thang kiếm sống, trẻ em vi phạm pháp luật
có chiều hướng gia tăng. Tình trạng người già bị ngược đãi xảy ra ngày càng nhiều.
Khơng ít đứa con bất hiếu đã thẳng tay đuổi bố mẹ già ra khỏi nhà, thậm chí đánh đập
dã man người đã mang nặng đẻ đau. Một số người già khơng có nơi nương tựa, hoặc
sống lang thang dù họ có gia đình và con cái. Hiện tượng xuống cấp về đạo đức gia
đình như vậy có một phần nguyên nhân ở sự nghèo đói.
Xã hội muốn phát triển thì phải chấp nhận có một số người giàu trước nhờ trí tuệ, nhờ
năng lực và có khi do may mắn nữa. Song, khoảng cách giàu nghèo quá lớn có thể
khiến cho mốt số người nghèo cảm thấy tuyệt vọng. Khơng ít người nghèo do bế tắc
trước cảnh nghèo, đã tự tử để muốn giải thốt cho mình và để khơng trở thành gánh
nặng cho gia đình. Những gia đình nghèo đó đã nghèo khổ về vật chất, lại còn nghèo
khổ thêm cả tinh thần.
Phân hóa giàu nghèo cịn gây ra sự phân tầng đẳng cấp trong xã hội. Điều này có thể
dẫn đến tình trạng bất mãn của một nhóm người nào đó. Hố phân cách giàu nghèo nếu
để quá lớn sẽ dẫn đến thái độ được coi là "thù địch" của người nghèo đối với người
giàu. Điều này thể hiện qua việc xuất hiện và tồn tại tâm lý hằn học với sự giàu có, đố
kỵ với những nhà kinh doanh, ác cảm với những người thành đạt không theo quan
niệm truyền thống cũ.
Như vậy, càng nghèo đói, chậm phát triển thì sự bất bình đẳng xã hội càng lớn hơn. Và
càng khơng phải cứ đẩy mạnh kinh tế thị trường thì khoảng cách giữa nhóm hộ giàu và
nhóm hộ nghèo sẽ được xóa bỏ; mà trái lại, kinh tế thị trường càng tự do thì càng đẩy
nhanh sự cách biệt giàu nghèo. Vấn đề đặt ra là phải ngăn ngừa, hạn chế sự phân hóa
giàu nghèo do giàu lên một cách bất thường và bất chính, do tham nhũng, do những
hành vi buôn gian bán lậu, làm ăn theo kiểu chụp giật trong giai đoạn “tranh tối, tranh
sáng” của cơ chế thị trường, do những chính sách khơng hợp lý mà con người tạo ra.
Đồng thời, phải tuyên dương, nhân rộng các điển hình làm giàu hợp pháp, bởi những
người giàu, trong chừng mực nào đó, cịn là tấm gương, sự giàu có cịn là mục tiêu để
những người nghèo phải nỗ lực vươn lên. Cần khuyến khích các hộ đã giàu lên một

cách hợp pháp hỗ trợ người nghèo. Mặt khác, phải nâng cao mức sống của người
nghèo thông qua việc nâng cao năng lực và sự tự ý thức vươn lên thoát nghèo của
13


chính họ. Do đó, việc “xóa đói” kiến thức, “giảm nghèo” nhận thức sẽ là sự xóa đói
giảm nghèo một cách căn cơ nhất cho sự phát triển bền vững và ổn định của xã hội.
Việc giúp cho người nghèo chiếc “cần câu” và dạy cho họ làm cách nào để “câu cá”
mới là phương cách hiệu quả hơn nhiều.
2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc xóa đói giảm nghèo
2.2.1. Lý do

Cho đến hơm nay, đói nghèo vẫn là nỗi ám ảnh thường trực đối với cả loài
người. Thế giới đã chứng kiến những thảm họa của chiến tranh, thảm họa của
thiên tai, dịch bệnh với bao nỗi kinh hoàng. Thế nhưng hậu quả do những nạn
đói gây ra cũng vơ cùng khủng khiếp. Điều đáng sợ hơn nữa là: Nếu như các
cuộc chiến tranh dù khốc liệt vô cùng nhưng rồi trước sau cũng được giải quyết,
nếu như những thảm họa do thiên tai, dịch bệnh gây ra từng bước cũng sẽ được
khắc phục thì vấn đề nghèo đói của nhân loại lại là một vấn đề vừa cấp bách,
vừa phức tạp lại như một căn bệnh kinh niên khó bề chạy chữa.
Đói nghèo là nỗi bất hạnh và là một phi lý lớn. Trong khi nền văn minh thế giới
đã đạt được những thành tựu hiển nhiên về tiến bộ khoa học - công nghệ, làm
tăng đáng kể của cải vật chất xã hội, tăng thêm vượt bậc sự giàu có cho con
người, thì thảm cảnh đeo đẳng mãi trên lưng con người lại vẫn là sự nghèo đói.
Hàng tỷ người, thực tế là một phần ba số dân thế giới vẫn khốn cùng và đói
khát. Thiệt thịi lớn nhất là trẻ em. Hằng ngày có gần 100 triệu trẻ em khơng có
cái ăn, trên 100 triệu trẻ em vô gia cư chỉ sống nhờ của bố thí hoặc sống dựa vào
sự lao động quá sức, kể cả bằng các nghề đặc biệt là móc túi, mại dâm; trên 50
triệu trẻ em làm việc trong những ngành có hại; hàng trăm triệu trẻ em tuổi từ 6
- 11 khơng được cắp sách đến trường.

Đói nghèo diễn ra trên tất cả các châu lục với những mức độ khác nhau. Đặc biệt
ở các nước đang phát triển, sự đói nghèo của dân cư đang là một vấn đề nhức
nhối rất cấp bách phải tháo gỡ nhưng cũng vơ cùng khó khăn trong việc thực
hiện xóa đói giảm nghèo.
Sự nghèo đói thì ai cũng thấy và khơng nước nào thiếu những chương trình hoặc
những chính sách để thực hiện việc xóa đói giảm nghèo. Có rất nhiều các tổ
chức của Liên Hợp Quốc và của cộng đồng quốc tế thực hiện sứ mệnh vẻ vang
này trên phạm vi hành tinh. Người ta đã tổ chức những chiến dịch lớn với hàng
vạn tấn lương thực, hàng triệu USD để cứu giúp những người hoạn nạn ở các
nước châu Phi, châu Á hoặc như ở Haiti vừa qua. Sự giúp đỡ về vật chất và tinh
thần là rất đáng kể. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dù đây là cơng việc mà tồn cầu
quan tâm nhưng rồi các nước đói vẫn hồn đói, sự trợ giúp của cộng đồng đối
với một bộ phận dân cư khốn khó cũng chỉ như muối bỏ biển, chưa đủ độ, chưa
triệt để.

14


Vấn đề xóa đói giảm nghèo ln gắn bó và chịu ảnh hưởng của quan hệ giai cấp
và các chế độ xã hội khác nhau. Hiện tượng bị tha hóa và tự tha hóa con người
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa luôn là một lực cản đối với công việc xóa đói giảm
nghèo. Chính xã hội, mà mục tiêu duy nhất và cuối cùng là lợi nhuận, là tiền bạc
đã làm phân hóa xã hội, đẩy nhiều người vào cảnh nghèo nàn khốn khó. Khoảng
cách chênh lệch mức sống giữa sự xa xỉ với sự bần hàn càng bị nặng nề hơn bởi
chính sự vơ trách nhiệm của các nước phát triển phương Tây, của giai cấp những
người giàu có. Thái độ “sống chết mặc bay” vẫn phổ biến trong hành vi cư xử ở
xã hội của những kẻ say lợi nhuận. Vì vậy, quan điểm cũng như hành động của
giới chức phương Tây trong việc giải quyết nghèo đói trên thế giới hiện nay chỉ
giới hạn trong phạm vi hẹp, chỉ là để làm giảm cơn đau khốn khó, hoặc cùng
lắm đó là việc làm mang tính nhân đạo mà thôi.

2.2.2. Quan điểm của Đảng

Đảng ta coi cơ sở phương pháp luận quan trọng và cơ bản nhất để phân tích vấn
đề đói nghèo và xóa đói giảm nghèo là giải phóng con người khỏi mọi áp bức,
bất công, thực hiện công bằng xã hội. Chủ nghĩa xã hội là quá trình kiến tạo
hạnh phúc và cũng là q trình đấu tranh vì sự cơng bằng, đấu tranh để thủ tiêu
nguồn gốc bất công xã hội.
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một
trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Bác Hồ đã chỉ đạo là chống giặc đói. Vấn đề
cơng bằng xã hội - vấn đề có quan hệ trực tiếp và quyết định đối với việc xóa
đói giảm nghèo đã được Đảng ta luôn quan tâm chú ý. Những đại hội Đảng gần
đây, từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, nhiều văn bản
đề cập tới vấn đề công bằng xã hội.
Chúng ta hiểu công bằng xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển.
Công bằng xã hội khơng bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà liên quan tới tất cả
các lĩnh vực kinh tế - chính trị - pháp luật - văn hóa - xã hội. Cơng bằng xã hội
phải được giải quyết và chỉ có thể được giải quyết gắn liền với sự phát triển sản
xuất, xây dựng xã hội thực sự dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Cơng bằng xã hội địi hỏi phải huy động mọi nguồn lực trong nhân dân, xã hội
hóa nhiệm vụ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội trên cơ sở vừa tăng nhanh tốc độ phát triển, vừa giảm dần sự mất
cân đối giữa các vùng; giảm dần khoảng cách về thu nhập, mức sống, hưởng thụ
giáo dục, văn hóa, bảo vệ sức khỏe của các tầng lớp dân cư ở các vùng khác
nhau. Đặc biệt, công bằng xã hội địi hỏi phải thực hiện tốt chương trình xóa đói
giảm nghèo, an sinh xã hội.
Trong các văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề xóa đói
giảm nghèo được nhiều lần đề cập tới. Để bảo đảm và hướng tới công bằng xã
hội, Đảng ta khẳng định “khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi
pháp đi đơi với chăm lo xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình

15


độ phát triển, về mức sống giữa các vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ,
các gia đình thuộc diện chính sách, làm cho mọi người, mọi nhà đều tiến tới
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành và chữa bệnh, từng bước thực hiện điều Chủ tịch Hồ Chí Minh
hằng mong ước”.
Trong q trình thiết kế, chỉ đạo thi công việc xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nắm bắt những mặt mạnh và mặt
yếu của cơ chế thị trường, Đảng ta đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo: “Để phát
triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận
trên thực tế cịn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội,
nhưng phải ln quan tâm, bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích
làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói, giảm nghèo,
từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều
khá giả”.
Chú trọng đúng mức đến vấn đề đói nghèo trong xã hội, với nhãn quan chính trị
nhạy bén và với trách nhiệm cao cả trước nhân dân, Đảng ta đã đưa ra những
chương trình rộng lớn để tập trung giải quyết là “Chương trình về xóa đói, giảm
nghèo”. Trên cơ sở đó, Nhà nước cũng đã có hàng chục chương trình cấp quốc
gia và dự án đang được thực thi có nội dung gắn với xóa đói, giảm nghèo.
2.3. Mục tiêu và nhiệm vụ của Đảng về giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo
Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân
dân. Nếu dân đói, Đảng và chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Chính phủ có lỗi.
Xóa đói, giảm nghèo là mục tiêu trọng yếu, mang bản chất cách mạng vì dân của Đảng
Cộng sản. Sau khi giải phóng Miền Nam, thống nhất tự do đất nước, mang lại độc lập
cho nhân dân. Đất nước lại phải đối mặt với những thách thức vô cùng to lớn: Hậu quả
của các cuộc chiến tranh xâm lược đã làm cho kinh tế - xã hội bị tàn phá nặng nề, suy
giảm nguồn lực nghiêm trọng; bị bao vây cấm vận suốt ròng rã 10 năm trời, Đất nước

rơi vào tình trạng khủng hoảng vào cuối những năm 70 – 80 của thế kỷ trước;….
Khoảng 60% hộ gia đình thuộc diện nghèo đói, cùng cực. Trong bối cảnh này, Đại hội
VI (1986), Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện Đất nước, với mục tiêu bao trùm
là thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, đấy mạnh cơng cuộc xóa đói giảm nghèo,
nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân, đưa Đất nước sớm thoát ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội.
Trong cơng cuộc đổi mới, xóa đói giảm nghèo đã trở thành một chủ trương lớn, xuyên
suốt của Đảng qua nhiều thế kỷ. Cương lĩnh 1991 của Đảng đã chỉ rõ: “Phương hướng
lớn của chính sách xã hội là phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng,
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ cơng dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ xã hội, giữa đời sống vật chất với đời sống tinh thần, giữa đáp ứng nhu cầu trước
mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội.
Các đại Hội VII, VIII, IX, X của Đảng tiếp tục đổi mới nhận thức về vấn đề xã hội và
16



×