TIỂU LUẬN
MÔN HỌC : LỊCH SỬ THẾ GIỚI
ĐỀ TÀI : AI CẬP THỜI KỲ CỔ ĐẠI
MỤC LỤC
Mở đầu.............................................................................................................1
1 . Điều kiện tự nhiên......................................................................................4
2 . Dân cư..........................................................................................................5
3 . Quá trình phát triển của văn minh Ai Cập cổ đại...................................6
4 . Trình độ tổ chức xã hội............................................................................18
5 . Trình độ quản lý xã hội............................................................................19
Chương II : Một số thành tựu chủ yếu của nền văn minh Ai Cập cổ đại 21
1. Chữ viết......................................................................................................21
2 . Nghệ thuật.................................................................................................22
3 . Kiến trúc và điêu khắc.............................................................................24
4 . Khoa học tự nhiên....................................................................................27
5. Tôn giáo......................................................................................................31
6. Thế giới quan - triết học Ai Cập cổ..........................................................35
7. Pháp luật....................................................................................................36
Kết luận..........................................................................................................38
Mở đầu
1 . Lựa chọn vấn đề nghiên cứu
Ai Cập cổ đại là một nền văn minh cổ đại nằm ở Đông Bắc châu Phi,
tập trung dọc theo hạ lưu của sông Nile thuộc khu vực ngày nay là đất
nước Ai Cập. Đây là một trong 4 nền văn minh phát sinh một cách độc lập và
lâu đời nhất trên thế giới này. Nền văn minh Ai Cập mà được hình thành rõ
nét là vào năm 3150 TCN (theo trình tự thời gian của bảng niên đại Ai
Cập) với sự thống nhất chính trị của Thượng và Hạ Ai Cập dưới thời
vị pharaon đầu tiên (Narmer, thường được gọi là Menes). Lịch sử của Ai Cập
cổ đại đã trải qua một loạt các thời kỳ vương quốc ổn định, và các giai đoạn
hỗn loạn giữa chúng được gọi là các giai đoạn chuyển tiếp: Cổ Vương
quốc thời kỳ Sơ kỳ Đồ đồng, Trung Vương quốc tương ứng giai đoạn Trung
kỳ Đồ Đồng và Tân Vương quốc ứng với Hậu kỳ Đồ đồng. Ai Cập đạt đến
đỉnh cao của quyền lực vào giai đoạn Tân Vương quốc, trong thời kỳ
Ramesside, vào thời điểm đó nó sánh ngang với đế quốc Hittite, đế quốc
Assyria và đế chế Mitanni, trước khi bước vào giai đoạn dần suy yếu. Ai Cập
đã bị xâm chiếm hoặc chinh phục bởi một loạt các cường quốc nước ngoài,
chẳng
hạn
như
Nubia, Assyria, Babylon, Ba
Tư dưới
người Canaan/Hyksos, Lybia, người
triều
đại
Achaemenid,
và
người Macedonia trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba và cuối thời kỳ Ai Cập
cổ đại. Sau khi Alexander Đại Đế qua đời, một trong những tướng lĩnh của
ông, Ptolemaios I Soter, đã tuyên bố ông là vị vua mới của Ai Cập. Triều đại
Ptolemaios gốc Hy Lạp này đã cai trị Ai Cập cho đến năm 30 TCN khi nó rơi
vào tay đế quốc La Mã và trở thành một tỉnh La Mã.
Sự thành công của nền văn minh Ai Cập cổ đại một phần đến từ khả
năng thích ứng của nó với các điều kiện của thung lũng sông Nile cho sản
xuất nơng nghiệp. Từ việc có thể dự đốn trước lũ lụt và việc điều tiết thủy
lợi ở khu vực thung lũng màu mỡ đã tạo ra nhiều nông sản dư thừa, giúp nuôi
dưỡng một lượng dân số đông hơn, tạo điều kiện phát triển xã hội và văn hóa.
Với việc có nhiều nguồn lực dư thừa, nhà nước đã tập trung vào việc khai
thác khoáng sản ở các thung lũng và các khu vực sa mạc xung quanh, cũng
như việc sớm phát triển một hệ thống chữ viết độc lập, tổ chức xây dựng tập
thể và các dự án nông nghiệp, thương mại với khu vực xung quanh, và xây
dựng một đội quân nhằm mục đích đánh bại kẻ thù nước ngồi và khẳng định
sự thống trị của Ai Cập. Thúc đẩy và tổ chức những hoạt động này là một bộ
máy quan lại gồm các ký lục ưu tú, những nhà lãnh đạo tôn giáo, và các quan
lại dưới sự kiểm soát của một pharaon, người đảm bảo sự hợp tác và đoàn kết
của toàn thể người dân Ai Cập dưới một hệ thống tín điều tơn giáo tinh vi.
Để mọi người hiểu rõ ràng hơn về nền văn minh Ai Cập cổ đại vì thế
nên em chọn chủ đề : “ Ai Cập cổ đại ”
2 . Những cơng trình nghiên cứu có liên quan
●
BBC History: Egyptians—cung cấp một cái nhìn tổng thể đáng tin
cậy cùng với nhiều liên kết có ích
●
Ancient History Encyclopedia tại Ai Cập
●
Ancient Egyptian Science: A Source Book Door Marshall Clagett,
●
Ancient Egyptian Metallurgy—Một trang web cho biết lịch sử luyện
1989
kim của người Ai Cập cổ đại
●
Napoleon on the Nile: Soldiers, Artists, and the Rediscovery of
Egypt, Art History Lưu trữ 2008-06-02 tại Wayback Machine.
●
Ancient Egypt—duy trì bởi Bảo tàng Anh, trang web này cung cấp
một giới thiệu hữu ích về Ai Cập cổ đại cho trẻ em và thanh thiếu niên trẻ tuổi
●
Digital Egypt for Universities.—Những nghiên cứu sâu sắc đáng chú
ý với tập kiến thức trải rộng kèm theo tài liệu tham khảo (nội bộ và bên
ngồi). Những hình ảnh hiện vật được sử dụng để minh họa nhiều chủ đề
trong đó.
●
Priests of Ancient Egypt—Những thơng tin có chiều sâu về những
linh mục của Ai Cập cổ đại, lễ tế tôn giáo và đền thờ. Cùng với nhiều tư liệu
hình ảnh và tài liệu tham khảo. Bằng tiếng Anh và tiếng Đức.
3 . Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 . Mục đích : giới thiệu và tìm hiểu chi tiết về nền văn minh Ai Cập
cổ đại
3.2 . Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được nhiệm vụ đó đề tài cần giải quyết các vấn đề sau :
Chương 1 : Cơ sở hình thành nền văn minh Ai Cập cổ đại
Chương 2 : Những thành tựu chủ yêu của nền văn minh Ai Cập cổ đại
4 . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 . Đối tượng : Đề tài nghiên cứu về nền văn minh Ai Cập cổ đại
4.2 . Phạm vi nghiên cứu : Ai cập giai đoạn 3100-332 TCN
5 . Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 . Cơ sở lý luận :
5.2 . Phương pháp nghiên cứu : đề tài sử dụng phương pháp logic và
lịch sử , phân tích , tổng hợp , khái quát và hệ thống hóa các tài liệu tham
khảo đã thu thập được
6 . Kết cấu đề tài : Ngoài mở đầu , kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo , đề tài gồm 2 chương và 12 tiết
1 . Điều kiện tự nhiên
1.1 . Vị trí địa lý :
Ai Cập là vùng đồng bằng dài và hẹp, ở vùng đông bắc châu Phi, nằm
dọc theo vùng hạ lưu của lưu vực sơng Nin. Phía Tây Ai Cập giáp sa mạc
Libya, phía đơng là Hồng Hải
(Biển Đỏ), phía Bắc là biển Địa Trung Hải, phía Nam giáp sa mạc
Nubia và Ethiopia.
Hơn 90% đất đai của Ai Cập là sa mạc. Phần lớn cư dân Ai cập
sống ở châu thổ sơng Nin.
Về mặt địa hình, Ai Cập là một đất nước tương đối bị đóng kín, phía
Bắc là Địa Trung Hải, phía Đơng giáp biển Đỏ, phía Tây giáp sa mạc Xahara,
phía Nam giáp Nubi, nơi giáp ấy là một vùng núi hiểm trở khó qua lại, chỉ có
ở Đông Bắc, vùng kênh đào Xuyê sau này, người Ai Cập mới có thể qua lại
với vùng Tây Á. Ai Cập chia làm hai miền rõ rệt theo dòng chảy của sông Nin
từ Nam lên Bắc. Miền Thượng Ai Cập ở miền Nam là một dải lưu vực hẹp,
miền Hạ Ai Cập nằm ở nằm ở miền Bắc là một đồng bằng hình tam giác.
Sơng Nin bắt nguồn từ vùng xích đạo châu Phi, là một trong những
con sơng lớn nhất trên thế giới, dài 6497 km, với bảy nhánh đổ ra Địa Trung
Hải, nhưng phần chảy qua Ai Cập chỉ dài khoảng 7000 km. Miền đất đai do
sông Nin bồi đắp chỉ rộng khoảng 15 – 25 km, ở phía bắc có nơi rộng đến 50
km vì ở đây sông Nin chia làm nhiều nhánh trước khi đổ ra biển. Hàng năm từ
tháng 6 đến tháng 11, nước sông Nin dâng cao đem theo một lượng phù sa rất
phong phú, bồi đắp cho vùng đồng bằng hai bên bờ ngày càng thêm màu mỡ.
Mặt khác, sông Nin cung cấp nguồn thực phẩm thuỷ sản dồi dào cho cư dân.
Bên cạnh đó, con sơng này là một trong những con đường giao thơng quan
trọng nhất của vùng này. Do đó, nền kinh tế ở đây sớm phát triển. Nông
nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp đều phát triển từ rất sớm,
tạo điều kiện cho Ai Cập có thể bước vào xã hội văn minh sớm nhất thế giới.
Chính vì vậy, nhà sử học Hêrơđơt đã nói rằng:” Ai Cập là tặng phẩm của sông
Nin”.
Ai Cập nằm ở một vị trí địa lý đặc biệt nên có vị trí địa – chính trị quan
trọng. Ai Cập là nơi giao nhau của 3 châu lục: Á, Phi, Âu. Tại đây, 3 châu lục
hoà nhập quanh một biển trung gian - Địa Trung Hải – nơi có thể nối liền
hoặc chia cắt 3 đại dương: Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương.
Đó là vị trí thuận lợi cho việc đi lại, giao lưu với các châu lục khác. Nhờ đó,
các hoạt đơng trao đổi thương mại, kinh tế, văn hố... rất phát triển và ln
được cải thiện.
1.2 . Khí hậu
Khí hậu mùa đơng ơn hồ, mùa hạ nóng và khơ. Vùng ven biển
Alêchxanđơria có lượng mưa lớn nhất: 200mm. Vùng cạnh biển Đỏ hầu như
khơng có mưa. Nhiệt độ trung bình tháng giêng ở miền bắc là 12 độ, miền
nam là 15 – 16 độ; tháng bảy từ 25 – 26 độ và 30 – 34 độ.
Tài nguyên thiên nhiên:Nhờ có đất đai màu mỡ, các loại hình thực vật
như đại mạch, tiểu mạch, sen, cây papyrus... sinh sôi nảy nở quanh năm. Do
điều kiện tự nhiên thuận lợi, quần thể động vật đồng bằng và sa mạc rất phong
phú và đa dạng, gồm có trâu bị, hươu cao cổ, tê giác, hà mã, cá sấu, voi, hổ,
báo, chim và cả các lồi thuỷ sản. Bên cạnh đó, Ai Cập cịn có rất nhiều loại
đá q như đá vôi, đá badan, đá hoa cương, đá mã não...; kim loại thì có
đồng, vàng, cịn sắt thì phải đưa từ bên ngoài vào. Những loại đá bền đẹp ở
những rặng núi Đơng và phía Tây dọc theo thung lũng sơng Nile là những
nguyên liệu rất tốt để chế tạo công cụ sản xuất, vũ khí và xây dựng nhà cửa
đền miếu đứng vững với thời gian.
2 . Dân cư
* Cư dân chủ yếu của Ai Cập ngày nay là người Arập, nhưng thời cổ
đại, cư dân ở đây là người Libi, người da đen và có thể có cả người Xêmit di
cư từ châu Á tới. Con người đã xuất hiện và sinh sống ở lưu vực sông Nin từ
thời đồ đá cũ. Những tài liệu khoa học hiện đại đã xác minh rằng người Ai
Cập thời cổ là những thổ dân châu Phi, hình thành trên cơ sở hỗn hợp rất
nhiều bộ lạc. Những thổ dân này đi lại săn bắn trên lục địa, khi đến vùng đồng
bằng sông Nin, họ định cư ở đây và theo nghề trồng trọt và chăn nuôi từ rất
sớm. Về sau chỉ có một chi của bộ tộc Hamit từ Tây Á xâm nhập hạ lưu sông
Nin, chinh phục thổ dân người châu Phi ở đây. Trải qua một quá trình hỗn
hợp lâu dài, người Hamit và thổ dân ở đây đã đồng hố với nhau, hình thành
ra một bộ tộc mới, chính là người Ai Cập.
2.1 .Đặc điểm của người Ai Cập Cổ Đại
Họ thuộc chủng tộc Mơngơlơit và Nêgrơit.
Người Ai Cập chỉ có một ngơn ngữ chính là tiếng Arập.
Cấu trúc làng theo chiều dọc.
Các thành viên trong xã hội khơng được bình đẳng.
Thức ăn của họ là lúa mì, lúa mạch, đậu, trái cây : táo, quả hạnh, quả
đấu là thức ăn phụ; thịt gia súc, thịt thú hoang : hươu, lợn, lừa rừng, các loại
sữa, trứng và thuỷ sản.
Người Ai Cập ưa phục tùng, thích ra lệnh.
Họ cần cù chăm chỉ. Sống bên cạnh sa mạc và sơng Nin nên họ có
tính cách chịu đựng, kiên nhẫn, dũng cảm, liều lĩnh.
Họ là những người tháo vát và lanh lợi.
3 . Quá trình phát triển của văn minh Ai Cập cổ đại.
Vào thời cổ đại, người dân Ai Cập sống thành bộ tộc. Của cải do con
người tạo ra là tài sản chung, khơng có tranh chấp, khơng có sở hữu riêng.
Vào khoảng năm 4000 trước công nguyên, chế độ thị tộc ở Ai Cập bắt đầu tan
rã. Thời đó, các cư dân ở sơng Nin sống theo các công xã nhỏ. Công xã nông
thôn là tổ chức kinh tế cơ sở của Ai Cập cổ đại. Có thể nói rằng nơng nghiệp
có vai trị quan trọng hàng đầu trong kinh tế của công xã nơng thơn. tuy vậy
nơng nghiệp thời kỳ này cịn đang ở trình độ canh tác nguyên thuỷ. Phương
pháp canh tác còn lạc hậu. Người ta xới đất lên rồi gieo hạt giống. Mặt khác
cơng cụ sản xuất cịn thơ sơ, đơn giản, làm bằng đá, gỗ. Tuy nhiên, do đất đai
màu mỡ nên cư dân vẫn thu hoạch được nhiều sản phẩm.
Bên cạnh đó, hàng năm, người Ai Cập phải thường xuyên đối phó với
các loại hình thiên tai khắc nghiệt như hạn hán, lụt lội. Do đó, họ rất chú trọng
cơng tác thuỷ lợi, xem đó như là một cơng tác trọng yếu của công xã nông
thôn.
Công xã nông
thôn
Nôm( Châu)
Nhà nước Ai
Cập
Để hồn thành tốt cơng tác thuỷ lợi, cần phải có sự đồn kết, hợp lực
của nhiều cơng xã. Các cơng xã phân tán không đáp ứng được nhu cầu phát
triển sản xuất. Vì vậy nhiều cơng xã nơng thơn đã hợp lại thành một liên minh
công xã rộng lớn hơn, gọi là nơm để có khả năng huy động nhiều nhân cơng
làm cơng tác thuỷ lợi. Mỗi nơm đều có thành thị và nơng thơn riêng. Có
khoảng 40 nơm ở Ai Cập, nằm dọc hai bên bờ sông. Đầu thiên niên kỷ thứ IV
trước công nguyên, xã hội Ai Cập phân chia thành hai giai cấp đối kháng rõ
rệt : chủ nô và nô lệ. Nguồn nô lệ chủ yếu là chiến tù, thuộc sở hữu chung của
công xã, được sử dụng một cách rộng rãi trong các ngành thủ cơng nghiệp và
nơng nghiệp, chủ yếu là các cơng trình thuỷ lợi. Lao động trên đồng ruộng thì
chủ yếu là do nông dân tự do của công xã thực hiện.
Chủ nơ bóc lột cả nơ lệ và quần chúng nơng dân công xã. Họ là tầng
lớp quý tộc thị tộc, đã tách ra khỏi đám dân tự do, trở thành giai cấp thống trị.
Giai cấp thống trị chủ nô Ai Cập đã tổ chức ra bộ máy nhà nước để cai trị nô
lệ và nông dân công xã.
Châu ở Ai Cập chính là hình thái nhà nước phơi thai. Đứng đầu mỗi
châu là một chúa châu. Chúa châu đồng thời cũng là thủ lĩnh quân sự, thẩm
phán và tăng lữ tối cao của châu. Chúa châu đựoc coi như là một vị thần sống.
Đặc biệt, mỗi châu có một tín ngưỡng tơn giáo riêng, thờ một vị thần riêng.
Giữa các châu thường xuyên có chiến tranh xảy ra nhằm thơn tính đất đai,
cướp bóc của cải và nơ lệ của nhau. Mặt khác, sự xúc phạm tín ngưỡng tơn
giáo của nhau cũng là một nguyên nhân dẫn đến chiến tranh.
Do yêu cầu thống nhất việc quản lý công tác thuỷ lợi trên phạm vi
ngày càng rộng lớn,cùng với nguyện vọng chấm dứt những cuộc tranh chấp
lâu dài và tàn khốc nhằm thơn tính đất đai của nhau, nên dần dần các châu
hợp thành một quốc gia thống nhất tương đối rông lớn. Các châu ở miền Bắc
thống nhất thành vương quốc Hạ Ai Cập, còn các châu miền nam thống nhất
thành vương quốc Thượng Ai Cập. Sau một quá trính đấu tranh lâu dài và tàn
khốc, vào khoảng năm 3200 trước công nguyên, Thượng và Hạ Ai Cập đã
hợp lại thành một quốc gia. Ông vua đầu tiên là Menes. Kinh thành đầu tiên là
Memphis. Tổ chức nhà nước lúc bấy giờ còn sơ khai nhưng đã mang đặc
điểm của một nhà nước chuyên chế. Nhà nước Ai Cập cổ đại ra đời từ cuối
thiên niên kỷ IV trước cơng ngun. Từ đó cho đến năm 525 trước công
nguyên, lịch sử Ai Cập được chia thành.
3.1 Thời kỳ Tiền triều đại.
Khoảng 5500 TCN, các bộ lạc nhỏ sống trong thung lũng sông Nile đã
biết trồng trọt và chăn ni, và có thể nhận biết được thông qua đồ gốm và
các vật dụng cá nhân, chẳng hạn như lược, vòng đeo tay, và chuỗi hạt. Lớn
nhất trong số những nền văn hóa sớm ở miền thượng (phía Nam) Ai Cập
là Badari, có nguồn gốc từ sa mạc phía Tây.
Tiếp theo sau nền văn hóa Badari là các nền văn hóa Amra (Naqada I)
và Gerzeh (Naqada II), với một số cải tiến về công nghệ. Ngay từ thời kỳ
Naqada I, người Ai Cập tiền triều đại đã nhập khẩu đá vỏ chai từ Ethiopia,
được sử dụng để tạo nên các lưỡi dao và các vật dụng khác từ các mảnh
đá.Trong thời kỳ Naqada II, đã xuất hiện các bằng chứng về sự tiếp xúc ban
đầu với vùng Cận Đông, đặc biệt là Canaan và bờ biển Byblos.
Nền văn hóa Naqada đã tạo ra nhiều dạng của cải vật chất khác nhau,
phản ánh sức mạnh ngày càng tăng và sự giàu có của tầng lớp thượng lưu. Họ
cũng phát triển một dạng gốm tráng men được gọi là đồ sứ, được sử dụng tới
tận thời kỳ La Mã để trang trí ly, bùa hộ mệnh, và các bức tượng nhỏ.Trong
giai đoạn cuối cùng của thời kỳ tiền triều đại, văn hóa Naqada bắt đầu sử
dụng các ký hiệu viết mà về sau phát triển thành một hệ thống chữ tượng hình
hồn chỉnh để ghi lại ngơn ngữ Ai Cập cổ đại.
3.2 Giai đoạn Sơ kỳ triều đại (khoảng 3050 TCN - 2.686 TCN).
Giai đoạn sơ kỳ triều đại xấp xỉ tương đương với giai đoạn đầu của
nền văn minh Sumer-Akkad ở Mesopotamia và văn minh Elam cổ. Một người
Ai Cập vào thế kỷ thứ 3 TCN có tên là Manetho đã tập hợp phả hệ các
pharaoh từ Menes đến thời đại của ông và chia thành 30 triều đại, tạo thành
một hệ thống vẫn được sử dụng cho tới ngày nay. [Ơng đã bắt đầu lịch sử
chính thức của mình với vị vua tên là "Meni" (hoặc Menes trong tiếng Hy
Lạp), người được cho là đã thống nhất cả hai vương quốc của Thượng và Hạ
Ai Cập (khoảng năm 3100 trước Công nguyên).
Trong giai đoạn sơ kỳ triều đại khoảng năm 3150 trước Công nguyên,
vị vua đầu tiên đã củng cố quyền kiểm soát đối với Hạ Ai Cập bằng cách thiết
lập kinh đô tại Memphis, từ đó ơng ta có thể kiểm sốt nguồn lao động và
nông nghiệp của vùng đồng bằng màu mỡ, cũng như các tuyến đường thương
mại béo bở trọng yếu tới khu vực Levant.
3.3 Thời kỳ Cổ vương quốc (2.686 TCN - 2.181 TCN).
Những tiến bộ lớn trong kiến trúc, nghệ thuật, và cơng nghệ đã xuất
hiện vào thời kì Cổ vương quốc, nó được thúc đẩy bởi năng suất nơng nghiệp
gia tăng có thể nhờ một chính quyền trung ương phát triển tốt. Một số thành
tựu đỉnh cao của Ai Cập cổ đại, tháp Giza và tượng Nhân sư vĩ đại, đã được
xây dựng trong thời Cổ vương quốc.
Cùng với tầm quan trọng ngày càng tăng của một chính quyền trung
ương, đã phát sinh một tầng lớp mới bao gồm những quan kí lục có học thức
và các quan chức mà được ban phát đất đai bởi của các pharaoh đổi lại cho sự
phục vụ của họ.
Các Pharaong cũng thực hiện ban cấp đất đai cho các giáo phái và các
đền thờ địa phương . Các học giả tin rằng những điều này đã làm hao mòn
một cách từ từ sức mạnh kinh tế của các pharaoh suốt năm thế kỷ, và khiến
cho nền kinh tế khơng cịn có đủ khả năng để hỗ trợ cho một bộ máy trung
ương tập quyền hùng mạnh nữa. Khi sức mạnh của các pharaoh suy giảm, các
thống đốc khu vực được gọi là nomarch bắt đầu thách thức uy quyền của các
pharaoh. Điều này cùng với nạn hạn hán nghiêm trọng từ giữa năm 2200 tới
năm 2150 TCN, được coi là nguyên nhân khiến cho đất nước Ai Cập rơi vào
giai đoạn kéo dài 140 năm của nạn đói và xung đột được gọi là thời kỳ
chuyển tiếp thứ nhất
3.4 Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất (2181-1991 TCN).
Sau khi chính quyền trung ương của Ai Cập sụp đổ vào cuối thời Cổ
Vương quốc. Thống đốc các vùng khơng cịn có thể dựa vào nhà vua để được
giúp đỡ trong thời gian khủng hoảng này, và tình trạng thiếu lương thực cùng
tranh chấp chính trị leo thang gây ra nạn đói và các cuộc nội chiến quy mơ
nhỏ. Các tỉnh đã trở nên giàu có hơn về kinh tế, một thực tế chứng minh bằng
sự chôn cất lớn hơn và tốt hơn trong tất cả các tầng lớp xã hội.
Không bị ràng buộc bởi lòng trung thành của họ với pharaoh, các nhà
cầm quyền địa phương đã bắt đầu cạnh tranh với nhau để kiểm soát lãnh thổ
và quyền lực chính trị. Khoảng năm 2160 trước Cơng ngun, các vị vua
ở Herakleopolis đã kiểm soát Hạ Ai Cập, trong khi một gia tộc đối thủ có căn
cứ tại Thebes, gia tộc Intef, nắm quyền kiểm soát vùng Thượng Ai Cập. Vì
nhà Intef mạnh hơn và bắt đầu mở rộng sự kiểm sốt của họ về phía bắc, một
cuộc đụng độ giữa hai triều đại đối thủ đã không thể tránh khỏi. Khoảng năm
2055 trước Công nguyên, phe Thebes dưới quyền Nebhepetre Mentuhotep
II cuối cùng đã đánh bại các vị vua Herakleopolis, thống nhất hai vùng đất và
mở ra một thời kỳ phục hưng kinh tế và văn hóa được gọi là thời Trung
vương quốc.
3.4.1. Thời kỳ Trung vương quốc (2.134 TCN - 1.690 TCN).
Các vị pharaoh thời Tân Vương quốc đã thiết lập nên một thời kỳ thịnh
vượng chưa từng có bằng cách củng cố chắc chắn biên giới của họ và tăng
cường quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng, bao gồm cả đế quốc
Mitanni, Assyria, và Canaan.
Các chiến dịch quân sự được tiến hành dưới triều đại Tuthmosis I và
cháu trai của ông Tuthmosis III đã tạo nên một đế quốc Ai Cập lớn chưa từng
thấy. Vào giai đoạn giữa triều đại của họ, Hatshepsut đã thúc đẩy hịa bình và
khơi phục lại các tuyến đường thương mại bị gián đoạn trong thời kỳ người
Hyksos cai trị, cũng như mở rộng tới các vùng đất mới. Khi Tuthmosis III qua
đời năm 1425 TCN, Ai Cập đã có một đế chế trải dài từ Niya ở tây bắc Syria
tới tận thác thứ tư của sông Nile ở Nubia.
Các vị pharaoh thời kỳ này đã bắt đầu một chiến dịch xây dựng quy
mô lớn để tôn vinh thần Amun. Họ cũng xây dựng những tượng đài để vinh
danh những thành tựu của mình, cả trong thực tế và tưởng tượng. Ngôi đền
Karnak là ngôi đền Ai Cập lớn nhất từng được xây dựng. Triều đại của
Hatshepsut rất thành cơng, nó được đánh dấu bởi một thời gian dài hịa bình
và các cơng trình xây dựng giàu có, các cuộc thám hiểm thương mai tới Punk.
vua Amenhotep II, vị vua kế vị của Tuthmosis III, đã tìm cách xóa bỏ di sản
của bà vào giai đoạn gần cuối triều đại của cha ông và trong suốt triều đại của
ông.
Khoảng năm 1350 TCN,Amenhotep IV lên ngôi và tiến hành một loạt
các cải cách triệt để và hỗn loạn. Ông đã đổi tên thành Akhenaten, và đưa vị
thần mặt trời Aten trở thành vị thần tối cao, ngăn cấm hầu hết các vị thần
khác, và tấn công vào quyền lực của các giáo sĩ Amun ở Thebes.Akhenaten
đã dành tồn lực cho tơn giáo mới của mình và phong cách nghệ thuật. Sau
khi ông qua đời, sự thờ cúng thần Aten đã nhanh chóng bị từ bỏ và các giáo sĩ
của Amun sớm giành lại được quyền lực và trở lại kinh đơ Thebes.
Khoảng năm 1279 TCN, Ramesses II, cịn được gọi là Ramesses Đại
đế, lên ngôi vua và ông tiếp tục cho xây dựng nhiều ngôi đền cùng với nhiều
bức tượng và tháp bia tưởng niệm khác. Ơng cịn là một nhà lãnh đạo quân sự
táo bạo, Ramesses II đã lãnh đạo quân đội của ông chống lại người Hittite
trong trận Kadesh (tại Syria ngày nay) và sau một cuộc chiến tranh bất phân
thắng bại, cuối cùng hai bên đã đồng ý ký kết hiệp ước hịa bình đầu tiên được
ghi nhận, khoảng năm 1258 TCN.
Tuy nhiên sự giàu có của Ai Cập đã khiến cho nó trở thành một mục
tiêu hấp dẫn cho các cuộc xâm lược, đặc biệt bởi người Berber Libya từ phía
tây, và các dân tộc vùng biển đến từ Aegea. Ban đầu, quân đội đã có thể đẩy
lùi các cuộc xâm lược, nhưng cuối cùng Ai Cập đã đánh mất quyền kiểm soát
các vùng lãnh thổ cịn lại của mình ở miền nam Caanan, phần lớn rơi vào tay
của người Assyria. Những ảnh hưởng từ các mối đe dọa bên ngồi cịn trở nên
trầm trọng hơn bởi các vấn đề nội bộ như tham nhũng, nạn cướp mộ, và tình
trạng xã hội bất ổn. Sau khi giành lại quyền lực của mình, các đại tư
tế Amun ở Thebes đã nắm trong tay những vùng đất rộng lớn và giàu có, và
mở rộng quyền lực của họ ra khắp đất nước trong thời kỳ chuyển tiếp thứ ba
3.4.2. Thời kỳ chuyển tiếp thứ ba (1.069 TCN - 653 TCN).
Sau khi Ramesses XI qua đời trong năm 1078 TCN, Smendes đã trở
thành pharaoh cai trị phần phía bắc của Ai Cập, đóng đơ ở thành phố Tanis.
Miền nam nằm dưới sự kiểm soát của các đại tư tế Amun ở Thebes, họ chỉ
công nhận Smendes trên danh nghĩa.
Vào giữa thế kỷ 9 TCN, Ai Cập đã tiến hành một nỗ lực bất thành
nhằm giành lại địa vị xưa kia ở Tây Á một lần nữa. Pharaoh Osorkon II của
Ai Cập, cùng với một liên minh lớn bao gồm nhiều quốc gia và dân tộc khác
trong đó có người Ba Tư , Israel, Hamath, Phoenicia , Caana , người Ả
Rập, người Aramea và Tân Hittite, chống lại vị vua Assyria diễn ra trong năm
853 TCN. Tuy nhiên, liên minh này đã thất bại và đế quốc Tân Assyria tiếp
tục thống trị Tây Á.
Vua Piye tiến đánh Ai Cập khoảng năm 727 TCN. Piye dễ dàng
chiếm được Thebes và cuối cùng là khu vực đồng bằng sông Ni. Piye thiết lập
nên triều đại thứ 25,để thống nhất lại "Hai vùng đất" của miền Bắc và miền
Nam Ai Cập. Đế chế thung lũng sông Nile một lần nữa lại trở nên rộng lớn
như thơi Tân Vương Quốc.
Triều đại thứ 25 đã mở ra một thời kỳ phục hưng cho Ai Cập cổ
đại. Tôn giáo, nghệ thuật, kiến trúc đã được khôi phục lại vẻ huy hoàng như
thời Cổ, Trung, và Tân Vương Quốc. Các Pharaoh chẳng hạn như Taharqa, đã
cho xây dựng hoặc phục hồi lại các đền thờ và tượng đài khắp toàn bộ khu
vực thung lũng sông Nile.[ Triều đại thứ 25 cũng là triều đại đầu tiên cho xây
dựng nhiều kim tự tháp ở thung lũng Nile kể từ thời Trung Vương Quốc.
Piye đã tiến hành nhiều nỗ lực để mở rộng ảnh hưởng của Ai Cập ở
vùng Cận Đông, vốn đang nằm dưới sự kiểm sốt của Assyria, nhưng đều
khơng thành công. Năm 720 TCN, ông phái một đội quân đến hỗ trợ của một
cuộc khởi nghĩa chống lại Assyria, đang sảy ra tại Philistia và Gaza. Tuy
nhiên, Piye đã bị Sargon II đánh bại và cuộc khởi nghĩa bị đàn áp. Năm 711
TCN, Piye lại ủng hộ một cuộc khởi nghĩa khác của người Do
Thái ở Ashdod chống lại người Assyria và lại một lần nữa bị đánh bại bởi vua
Assyria Sargon II. Sau đó, Piye đã buộc phải từ bỏ vùng Cận Đông.
Từ thế kỷ 10 TCN trở đi, Assyria đã tiến hành các cuộc chiến tranh
nhằm kiểm soát miền Nam Levant. Các thành phố và các vương quốc miền
nam Cận Đông thường xuyên kêu gọi Ai Cập trợ giúp họ trong cuộc chiến
chống lại quân đội Assyria hùng mạnh. Taharqa đã đạt được một số thành
công bước đầu trong nỗ lực nhằm giành lại một chỗ đứng ở Cận Đông.
Taharqa đã trợ giúp cho vua Judea Hezekiah khi Hezekiah và Jerusalem bị
vua Assyria, Sennacherib, vây hãm. Các học giả đã không đi đến thống nhất
với nhau về lý do chính khiến cho người Assyria từ bỏ cuộc vây hãm
Jerusalem của họ. Có thể nguyên nhân khiến cho người Assyria tránh một
cuộc chiến với đội quân can thiệp Ai Cập / Kush có thể là do dịch bệnh hồnh
hành. Henry Aubin lại lập luận rằng quân đội Kush / Ai Cập đã cứu thoát
Jerusalem khỏi tay người Assyria và ngăn cản người Assyria quay trở lại đánh
chiếm Jerusalem suốt phần đời còn lại của Sennacherib (20 năm). Tuy nhiên
biên niên sử của Senacherib khẳng định rằng Judea đã được buộc vào cống
nạp.
Sennacherib sau đó đã bị những người con trai của mình sát hại bởi vì
ơng ta đã phá hủy thành phố Babylon nổi loạn, một thành phố thiêng liêng đối
với toàn bộ người dân Mesopotamia, bao gồm cả Assyria. Năm 674
TCN, Esarhaddon tiến hành một cuộc xâm lược mở đầu vào Ai Cập, tuy
nhiên nỗ lực này đã bị Taharqa đẩy lùi. Tuy nhiên, vào năm 671 TCN,
Esarhaddon đã phát động một cuộc xâm lược toàn diện. Một phần quân đội
của ông ta đã lưu lại để đối phó với các cuộc khởi nghĩa ở Phoenicia, và
Israel. Phần cịn lại tiến về phía nam tới Rapihu, rồi băng qua Sinai, và tiến
vào Ai Cập. Esarhaddon giành một chiến thắng quyết định trước Taharqa, rồi
chiếm lấy Memphis, Thebes và tất cả các thành phố lớn của Ai Cập, còn
Taharqa bị đánh đuổi trở lại quê hương Nubia của ông. Esarhaddon lúc bây
giờ tự gọi bản thân ông ta là "vua của Ai Cập, Patros, và Kush", và trở về với
một lượng lớn chiến lợi phẩm từ các thành phố ở vùng đồng bằng; ông ta đã
cho dựng lên một tấm bia chiến thắng vào thời điểm này và tiến hành một
cuộc diễu hành với vị hoàng tử tù binh Ushankhuru, con trai của Taharqa
ở Nineveh. Esarhaddon cho đóng một đội quân nhỏ ở miền bắc Ai Cập và mô
tả cách "Tất cả người Ethiopia (cách gọi người Nubia / Kushi) đã bị ta trục
xuất khỏi Ai Cập, để không cịn kẻ nào khơng thần phục ta".Ơng ta cịn thiết
lập các chư hầu Ai Cập bản xứ để cai trị thay mặt mình. Cuộc chinh phục của
Esarhaddon đã đánh dấu sự kết thúc hoàn toàn của đế chế Kush ngắn ngủi.
Tuy nhiên, các chư hầu Ai Cập được Esarhaddon dựng lên đã khơng
thể giữ được quyền kiểm sốt tồn bộ đất nước một cách lâu dài. Hai năm
sau, Taharqa quay trở lại từ Nubia và nắm quyền kiểm sốt miền nam Ai Cập
xa về phía bắc tới Memphis. Esarhaddon đã chuẩn bị để quay lại Ai Cập và
một lần nữa để đánh đuổi Taharqa, tuy nhiên ông ta đã lâm bệnh và qua đời
tại Nineveh, trước khi có thể rời Assyria. Vị vua kế vị, Ashurbanipal, đã phái
một vị tướng Assyria có tên là Sha-Nabu-shu cùng với một đạo quân nhỏ,
nhưng được huấn luyện tốt và đã đánh bại Taharqa tại Memphis, một lần nữa
lại đánh đuổi ông ta ra khỏi Ai Cập. Taharqa qua đời ở Nubia hai năm sau đó.
Vị vua kế vị ơng, Tanutamun, cũng đã tiến hành một nỗ lực nhằm
giành lại Ai Cập cho Nubia nhưng không thành công. Bước đầu ông đã đánh
bại thành công Necho, vị vua chư hầu Ai Cập được Ashurbanipal dựng lên,
chiếm lấy Thebes trong quá trình này. Assyria sau đó đã phái một đội quân
lớn tiến về phía nam. Tantamani (Tanutamun) bị đánh tan tác và phải chạy
trốn trở lại Nubia. Quân đội Assyria sau đó cướp phá Thebes đến mức nó
khơng bao giờ thực sự hồi phục lại được nữa. Một vị vua bản
xứ, Psammetichus I đã được đưa lên ngôi, như là một chư hầu của
Ashurbanipal, và Nubia không bao giờ trở thành một mối de dọa cho cả
Assyria và Ai Cập nữa.
3.4.3. Thời hậu ngun (672 TCN - 332 TCN).
Do khơng có kế hoạch lâu dài cho cuộc chinh phục, người Assyria tổ
chức việc cai trị Ai Cập thông qua một loạt các chư hầu được biết đến như là
các vị vua Saite của triều đại thứ 26. Năm 653 TCN, vua Saite Psamtik I (lợi
dụng thời điểm Assyria đang tham gia vào một cuộc chiến tranh khốc liệt
nhằm chinh phục Elam và chỉ có một đội quân Assyria nhỏ đóng ở Ai Cập) đã
có thể giành lại độc lập cho Ai Cập thoát khỏi ách thống trị của người Assyria
với sự giúp đỡ của người Lydia và lính đánh thuê Hy Lạp, những người sau
đó đã được tuyển mộ để tạo thành lực lượng hải quân đầu tiên của Ai Cập.
Tuy nhiên, Psamtik và những vị vua kế vị ông đã cẩn trọng trong việc duy trì
quan hệ hịa bình với Assyria. Ảnh hưởng của người Hy Lạp đã mở rộng một
cách đáng kể và thành phố Naukratis đã trở thành khu định cư của người Hy
Lạp ở vùng đồng bằng.
Năm 609 TCN, Necho II đã tiến hành chiến tranh với Babylon, người
Chaldea, người Medes và Scythia trong một nỗ lực nhằm cứu lấy Assyria,
vốn vừa trải qua một cuộc nội chiến tàn khốc lại đã bị liên minh các cường
quốc này giày xéo. Tuy nhiên, những nỗ lực của Ai Cập đã thất bại. Nhưng
người Ai Cập lại đã trì hoãn sự can thiệp quá lâu và khi Necho II phái qn
đội của ơng tiến về phía bắc thì lúc đó thành Nineveh đã thất thủ và
vua Sinsharishkun cũng đã tử trận. Tuy nhiên, Necho đã dễ dàng đánh bại một
đội quân Israel của vua Josiah nhưng ông và người Assyria sau đó lại bại trận
tại Harran trước người Babylon, Medes và người Scythia. Necho II và Ashuruballit
II
của
Assyria
cuối
cùng
đã
bị
đánh
bại
tại Carchemish ở Aramea (Syria ngày nay) vào năm 605 TCN. Người Ai Cập
sau dó vẫn cịn tiếp tục tranh giành khu vực này trong một vài thập kỷ nữa với
các vị vua Babylon như Nabopolassar và Nebuchadnezzar II để kiểm soát
những vùng đất còn lại của cựu đế quốc Assyria ở Levant. Tuy nhiên, họ đã
dần dần bị đẩy lùi về Ai Cập, và Nebuchadnezzar II thậm chí đã xâm lược Ai
Cập vào năm 567 TCN.Triều đại của các vị vua Saite với căn cứ tại kinh đô
mới ở Sais đã chứng kiến một sự hồi sinh ngắn ngủi trong nền kinh tế và văn
hóa, nhưng trong năm 525 TCN, người Ba Tư hùng mạnh dưới sự chỉ huy
của Cambyses II, đã bắt đầu cuộc chinh phục Ai Cập, và đã bắt sống được
pharaoh Psamtik III ngay tại trận Pelusium. Cambyses II sau đó lấy tước hiệu
của pharaoh, nhưng lại cai trị Ai Cập từ quê nhà tại Susa ở Ba Tư (Iran ngày
nay), và trao quyền cai trị Ai Cập vào tay một phó vương. Một vài cuộc khởi
nghĩa nổ ra chống lại người Ba Tư vào thế kỷ thứ năm đã giành được thành
công ngắn ngủi, tuy vậy Ai Cập đã khơng bao giờ có thể lật đổ vĩnh viễn ách
thống trị của người Ba Tư.
Sau khi bị xáp nhập vào đế quốc Ba Tư, Ai Cập cùng với Síp và
Phoenicia (Lebanon ngày nay) tạo thành satrap thứ sáu của Đế quốc
Achaemenid. Giai đoạn đầu tiên mà người Ba Tư thống trị Ai Cập, còn được
biết đến như là triều đại thứ 27, kết thúc vào năm 402 TCN, và từ năm 380343 TCN đánh dấu triều đại Ai Cập bản địa cuối cùng, được biết đến là triều
đại thứ 30, kết thúc với sự trì vì của vua Nectanebo II. Sự thống trị của người
Ba Tư được phục hồi sau đó, đơi khi được gọi là triều đại thứ 31, bắt đầu từ
năm 343 TCN, nhưng không lâu sau, năm 332 TCN, viên phó vương Ba
Tư Mazaces đã đầu hàng và đem dâng Ai Cập cho vua Alexander Đại
đế của Macedonia.
3.4.4. Thời kỳ thuộc Hy Lạp
Năm 332 trước Công nguyên, Alexander Đại đế chinh phục Ai Cập mà
không gặp phải sự kháng cự đáng kể nào từ Ba Tư và được người Ai Cập
chào đón như là người giải phóng. Chính quyền được những người kế tục
Alexander thành lập, triều đại Ptolemy của Macedonia, dựa trên một mơ hình
của Ai Cập và trung tâm đặt tại kinh đô mới Alexandria. Thành phố đã trở
thành một trung tâm về học thuật và văn hóa, với thư viện Alexandria nổi
tiếng. Ngọn hải đăng Alexandria đã thắp sáng chỉ đường cho những con
thuyền mà mang đến sự phồn vinh về thương mại cho thành phố.
Văn hóa Hy Lạp đã khơng thay thế văn hóa Ai Cập bản địa, bởi vì nhà
Ptolemy đã ủng hộ những truyền thống lâu đời nhằm đảm bảo sự trung thành
của dân chúng. Họ đã xây dựng những ngôi đền mới theo phong cách Ai Cập,
ủng hộ tôn giáo truyền thống, và miêu tả bản thân là pharaoh. Một số truyền
thống đã hợp nhất với nhau, ví dụ như các vị thần Hy Lạp và Ai Cập đã hợp
nhất với nhau thành các vị thần được thờ phụng chung, như Serapis, và các
hình mẫu cổ điển của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp đã chịu ảnh hưởng từ các
họa tiết truyền thống của Ai Cập. Bất chấp những nỗ lực của họ để xoa dịu
người dân Ai Cập, nhà Ptolemy đã bị thách thức bởi cuộc khởi nghĩa của cư
dân bản địa, tranh chấp nội bộ, và bởi cả đông đảo cư dân Alexandria sau
khi Ptolemy IV qua đời. Ngồi ra, bởi vì Rome ngày càng dựa nhiều hơn vào
ngũ cốc nhập khẩu từ Ai Cập, người La Mã đã dành sự quan tâm rất lớn đối
với tình hình chính trị ở Ai Cập. Những cuộc khởi nghĩa của người Ai Cập
tiếp tục nổ ra, các chính trị gia đầy tham vọng, và các đối thủ hùng mạnh tới
từ vùng Cận Đơng càng làm cho tình hình trở nên mất ổn định, dẫn đến việc
Rome phái quân đến bảo vệ Ai Cập như là một tỉnh thuộc đế chế.
3.4.5. Thời kì thuộc La Mã.
Ai Cập trở thành một tỉnh của Đế chế La Mã vào năm 30 trước Công
nguyên, sau thất bại của Marcus Antonius và nữ hoàng Cleopatra VII trước
Octavian (sau này là Hoàng đế Augustus) trong trận Actium. Người La Mã
phụ thuộc chủ yếu vào các chuyến hàng ngũ cốc từ Ai Cập, và quân đội La
Mã, thuộc thẩm quyền của thái thú được bổ nhiệm bởi Hoàng đế, dẹp yên các
cuộc khởi nghĩa, thi hành nghiêm túc việc thu thuế nặng, và ngăn chặn cuộc
tấn công của bọn cướp, mà đã trở thành một vấn đề nổi tiếng trong giai đoạn
này Alexandria đã trở thành một trung tâm ngày càng quan trọng trên tuyến
đường thương mại với phương đơng, vì những của cải xa hoa kỳ lạ có nhu cầu
cao tại Rome.
Mặc dù người La Mã đã có một thái độ thù địch hơn so với người Hy
Lạp đối với người Ai Cập, một số truyền thống như ướp xác và thờ cúng các
vị thần truyền thống vẫn tiếp tục. Nghệ thuật vẽ chân dung xác ướp phát triển
rực rỡ, và một số của các hồng đế La Mã đã tự mơ tả mình như pharaoh, mặc
dù khơng đến mức độ như nhà Ptolemy trước đây.
Từ giữa thế kỷ thứ nhất, Thiên chúa giáo đã bắt đầu bén rễ ở Ai Cập
bởi vi nó đã được xem như một giáo phái mà có thể được chấp nhận. Tuy
nhiên, nó lại là một tơn giáo khơng khoan nhượng ln tìm cách lơi kéo
những người theo tôn giáo Ai Cập cổ đại và tôn giáo Hy Lạp-La Mã để cải
sang đạo Thiên Chúa, và còn đe dọa các truyền thống tôn giáo phổ biến. Điều
này dẫn đến những cuộc đàn áp sảy ra đối với người cải đạo sang Thiên Chúa
giáo, mà đỉnh cao là cuộc đại thanh trừng của Diocletian bắt đầu từ năm 303,
nhưng cuối cùng Thiên Chúa giáo đã giành được chiến thắng. Năm 391,
hoàng đế Theodosiusban pháp lệnh nghiêm cấm các nghi thức thờ cúng đa