Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận môn lịch sử thế giới quá trình hình thành và phát triển của liên minh châu âu eu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.01 KB, 33 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ THẾ GIỚI
ĐỀ TÀI:
Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LIÊN MINH
CHÂU ÂU EU


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

2

NỘI DUNG

3

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁ TCHUNG

3

1.1 Hoàn cảnh lịch sử

3

1.2. Tình hình Châu Âu

4

1.3. Mục Tiêu

4



1.4. Vai Trị

5

CHƯƠNG II: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LIÊN MINH
CHÂU ÂU EU
6
2.1. Quá Trình Thành Lập

6

2.2. Thành Viên

8

2.3. Cơ Cấu Tổ Chức

9

2.4. Hệ Thống Pháp Luật

11

2.5. Tư Pháp Và Nội Vụ

12

2.6. Ngoại Giao


13

2.7. Kinh Tế

14

2.8. Xã Hội

17

CHƯƠNG III: THÀNH TỰU CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU

20

CHƯƠNG IV: QUAN HỆ VIỆT NAM – EU

24

KẾT LUẬN

29

TÀI LIỆU THAM KHẢO

30


MỞ ĐẦU
“Tồn cầu hóa”, “hội nhập quốc tế”, “đổi mới”, “hợp tác và phát triển”
là những từ khóa rất phổ biến kể từ khi kết thúc chiến tranh cho đến tận ngày

nay. Các nước ở Châu Âu vì muốn thốt khỏi sự can thiệp của Mĩ mà luôn nỗ
lực phát triển kinh tế đồng thời cũng thành lập một liên minh kinh tế để cạnh
tranh với Mĩ và các nước ngoài khu vực. Cùng với xu thế trên thế giới các
khu vực các nước cùng liên kết với nhau để cùng tạo ra một liên minh kinh tế
chính trị khơng chỉ nhằm phát triển kinh tế mà cịn duy trì hịa bình trong khu
vực và trên thế giới như: ASEAN, OPEC, UNICEF, WTO, WHO, APEC,...
Với mục đích tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của liên minh
Châu Âu qua đó tập hợp các tài tiệu, sách tham khảo để hiểu biết thêm về liên
minh Châu Âu ( EU) từ khi thành lập đến khi phát triển cao như ngày nay.
Nhằm làm rõ các phương thức, quá trình phát triển của liên minh Châu Âu để
từ đó ứng dụng và cải tiến cho công cuộc xây dựng đất nước ta.
Bài nghiên cứu được sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, lịch
sử, phân tích, logic. Ngồi mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì đề tài
gồm có 4 chương.

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁ TCHUNG
1.1 Hoàn cảnh lịch sử
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cục diện hai cực hai phe được xác lập.
Phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô và phe tư bản chủ nghĩa đứng đầu
là Mĩ. Tuy nhiên, Mĩ và Liên Xơ có mục tiêu và chiến lược đối lập nhau, Liên
Xơ thì muốn duy trì hịa ninh và an ninh thế giới đồng thời ủng hộ các phong
trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc, còn Mĩ thì muốn
chống phá chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi các phong trào cách mạng thế giới với âm
mưu làm bá chủ thế giới.
Mĩ triển khai học thuyết Truman, thực hiện kế hoạc Macsan viện trợ
cho các nước Tây Âu khôi phục kinh tế sau chiến tranh với mục đích tập hợp

các nước vào khối liên minh quân sự NATO chống lại xã hội chủ nghĩa do Mĩ
đứng đầu. Về phía Liên Xô, Liên Xô và các nước Đông Âu thiết lập hội đồng
tương trợ kinh tế SEV và tổ chức hiệp ước phòng thủ Vacsava. Sự ra đời của
hai khối NATO và Vacsava đã xác lập trật tự hai cực hai phe – chiến tranh
lạnh bao trùm trên toàn thế giới.
Trong những năm chiến tranh lạnh, tình hình thế giới có nhiều diễn
biến rất phức tạp, nhưng hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn. Q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục
được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa
các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng tăng... Tình hình chính trị - an
ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường.... Cục
diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước
lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh,
kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực.
Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp

2


đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế. Các thể chế
đa phương đứng trước những thách thức lớn. Các nước đang phát triển, nhất
là những nước vừa và nhỏ đang đứng trước những cơ hội và khó khăn, thách
thức lớn trên con đường phát triển. Trong bối cảnh đó, tập hợp lực lượng, liên
kết, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nước trên thế giới và khu vực vì lợi ích của
từng quốc gia tiếp tục diễn ra rất phức tạp.
1.2. Tình hình Châu Âu
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cả Châu Âu đều bị thiệt hại nặng nề cả
về của và người. Tuy nhiên, nhờ có sự viện trợ của Mĩ qua kế hoạch Macsan
và sự cố gắng của các nước mà các nước cơ bản đã được phục hồi.
Chiến tranh lạnh đem lại sự đe dọa lớn cho viêc xung đột lớn giữ các

bộ phận Đông và Tây của lục địa bởi sau chiến tranh những kẻ thù cũ khơng
thể hịa giải được và vấn đề trung tâm nằm ở mối quan hệ giữa Pháp và Đức.
Vậy nên, cần thiết phải tạo mối quan hệ bền chặt giữa hai quốc gia này và tập
hợp tất cả các quốc gia châu Âu có định hướng tự do ở châu Âu để cùng xây
dựng một cộng đồng có số phận chung.
Từ năm 1950, sau quá trình phục hồi, nền kinh tế bắt đầu phát triển
nhanh, các nước Tây Âu muốn dần thoát khỏi sự lệ thuộc Mĩ. Tuy nhiên nếu
đứng riêng lẻ, các nước Tây Âu không thể đọ sức với Mĩ, vậy nên họ cần liên
kết để cạnh tranh với các nước ngoài khu vực.
1.3. Mục Tiêu
Các mục tiêu của EU gồm thúc đẩy hịa bình và phúc lợi của cơng dân,
cũng như tự do, an ninh và nhà nước pháp quyền không có biên giới nội bộ.
Hịa nhập, khoan dung, nhà nước pháp quyền, đồn kết và khơng phân biệt
đối xử là những giá trị kết nối các quốc gia thành viên EU. Kể từ khi thành
lập, khơng cịn có chiến tranh ở các nước thành viên của EU.
Bình đẳng là một giá trị nữa của EU. Mọi cơng dân đều có quyền như nhau
3


trước pháp luật. Sự bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới là một phần của tất cả
các biện pháp chính trị của EU và là cơ sở của hội nhập châu Âu. Nó áp dụng
cho tất cả các lĩnh vực. Nguyên tắc cơ bản về việc trả một mức lương như
nhau cho cùng một công việc được quy định bằng văn bản từ năm 1957, tuy
nhiên chưa được thực hiện một cách đầy đủ.
1.4. Vai Trị
Đặt ra những chính sách nhân quyền nhằm ngăn chặn sự tàn bạo của
chiến tranh thế giới thứ hai không được lặp lại sau này, các luật cấm phân biệt
đối xử, thể hiện quyền bình đẳng và tự do đi lại các ước trong khối EU. Ngồi
ra cịn có các chính sách nhân quyền như: tự do ngơn luận, tra tấn, án tử hình.
Ở các quốc gia, nơi mà con người có được nhưng quyền lợi cao nhất thì cơng

cụ của dân chủ và nhân quyền của EU luôn đáp ứng việc tăng cường sự tự do
cơ bản và tôn trọng quyền con người.
Nhà viện trợ lớn nhất thế giới. Liên minh châu âu là tổ chức cung cấp
viện nước ngoài nhiều hơn bất kì tổ chức hiệp hội kinh tế nào khác trên thế
giới. Với gói ODA trên tồn cầu, thì EU và các nước thành viên đã cung cấp
hơn một nửa. Nhờ sự đóng góp này mà hàng triệu người dân trên thế giới có
được việc làm ổn định. EU cịn cung cấp viện trợ thiên tai, lũ lụt, hỏa hoạn,
người tị nạn ở nhiều quốc gia. Có các chương trình trợ giúp nhân đạo và là
một đợn vị phản ứng cực nhanh đối với các trường hợp SOS.
Bảo vệ an ninh tồn cầu. Theo chính sách quốc phịng an ninh chung
thì EU luôn quan tâm đến các nhiệm vụ quân sự và dân sự trên thế giới theo
hướng tích cực gồm các nhiệm vụ: đào tạo cảnh sát địa phương, quản lý biên
giới,...
Đóng gớp vào hiệ tượng biến đổi khí hậu tồn cầu. Tại hội nghị khí hậu
Pari (COP21) năm 2015, hầu hết các quốc gia trong khối EU đã tham gia kí
kết bảo đảm thỏa thuận khí hậu tồn cầu có tính pháp lý. Đơng thời, các quốc
4


gia thành viên EU cũng đóng góp tài chính rất lớn để thực hiện biện pháp thay
đổi khí hậu cho các nước đang pháp triển.

CHƯƠNG II: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LIÊN MINH
CHÂU ÂU EU
2.1. Quá Trình Thành Lập
Ngày 18 tháng 4 năm 1951, Hiệp Ước Pari được kí kết giữa sáu nước
gồm Pháp, Đức,Ý Bỉ, Hà Lan, Lucxambua để thành lập “Cộng Đồng Than
Thép Châu Âu” (ECSC), nhằm thống nhất việc sản xuất và phối hợp than,
thép của các nước thành viên. Hiệp ước này chứa đựng ý đồ của nhà sáng lập
ECSC là gây dựng nền tảng cho việc nhất thể hóa kinh tế Châu Âu.

Ngày 25 tháng 3 năm 1957, sáu nước này kí Hiệp Ước Rôma thành lập
“ Cộng Đồng Năng Lượng Nguyên Tử Châu Âu” ( EURATOM) và “ Cộng
Đồng Kinh Tế Châu Âu” ( EEC). Ngày 1 tháng 7 năm 1967, ba tổ chức trên
hợp nhất thành “Cộng Đồng Châu Âu” ( EEC).
Đến tháng 12 năm 1991, các nước thành viên EC đã kí tại Hà Lan bản
Hiệp Ước Maxtrich ( Hà Lan). Bản hiệp ước có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1
năm 1993 và đổi tên thành Liên Minh Châu Âu ( EU) với 15 nước thành viên
( 1995).
Hiệp Ước Maxtrich được kí kết với mục đích: Thành lập liên minh kinh
tế và tiền tệ vào cuối thập niên 1990, với một đơn vị tiền tệ chung và một
ngân hàng trung ương độc lập; Thành lập một liên minh chính trị bao gồm
5


việc thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung để tiến tới có chính
sách phịng thủ chung, tăng cường hợp tác về cảnh sát và luật pháp.
Hiệp ước Maxtrich đánh dấu một bước ngoặt trong tiến trình nhất thể
hóa châu Âu. Liên minh chính trị được thành lập: Tất cả các công dân của các
nước thành viên được quyền tự do đi lại và cư trú trong lãnh thổ của các nước
thành viên. Được quyền bầu cử và ứng cử chính quyền địa phương và Nghị
viện châu Âu tại bất kỳ nước thành viên nào mà họ đang cư trú. Thực hiện
một chính sách đối ngoại và an ninh chung trên cơ sở hợp tác liên chính phủ
với nguyên tắc nhất trí để vẫn bảo đảm chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực này.
Tăng cường quyền hạn của Nghị viện châu Âu. Mở rộng quyền của Cộng
đồng trong một số lĩnh vực như môi trường, xã hội, nghiên cứu... Phối hợp
các hoạt động tư pháp, thực hiện chính sách chung về nhập cư, quyền cư trú
và thị thực.
Liên minh kinh tế và tiền tệ được chia làm ba giai đoạn, từ ngày 1
tháng 7năm 1990 tới 1 tháng 1 năm 1999, và kết thúc bằng việc giải tán Viện
tiền tệ châu Âu, lập Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB). Điều kiện để

tham gia vào liên minh kinh tế và tiền tệ (còn gọi là những tiêu chí hội nhập)
là: Lạm phát thấp, khơng vượt q 1,5% so với mức trung bình của 3 nước có
mức lạm phát thấp nhất; Thâm hụt ngân sách không vượt quá 3% GDP; Nợ
nhà nước dưới 60% GDP và biên độ giao động tỷ giá giữa các đồng tiền ổn
định trong hai năm theo cơ chế chuyển đổi (ERM); Lãi suất (tính theo lãi suất
cơng trái thời hạn từ 10 năm trở lên) khơng q 2% so với mức trung bình của
3 nước có lãi suất thấp nhất.
Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2002 đồng Euro đã chính thức được lưu hành
trong 12 quốc gia thành viên (còn gọi là khu vực đồng Euro) gồm Pháp, Đức,
Áo, Bỉ, Phần Lan, Ireland, Ý, Luxambua, Hà Lan, Tây Ban Nha và Bồ Đào

6


Nha; các nước đứng ngoài là Anh, Đan Mạch và Thuỵ Điển. Hiện nay, đồng
Euro đang có tỉ giá hối đối cao hơn đồng đơ la Mỹ.
Ngày 2 tháng 10 năm 1997, Hiệp Ước Amterdam (hay còn gọi là hiệp
ước Maxtrich sửa đổi) đã có một số sửa đổi và bổ sung trong một số lĩnh vực
chính như: Những quyền cơ bản, không phân biệt đối xử; Tư pháp và đối nội;
Chính sách xã hội và việc làm; Chính sách đối ngoại và an ninh chung.
Ngày 19 tháng 6 năm 1990, Hiệp ước Schengen được thoả thuận xong.
Đến ngày 27 tháng 11 năm 1990, 6 nước Pháp, Đức, Luxambua, Bỉ, Hà Lan
và Ý chính thức ký Hiệp ước Schengen. Hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào
Nha ký ngày 25 tháng 6 năm 1991. Ngày 26 tháng 3 năm 1995, hiệp ước này
mới có hiệu lực tại 7 nước thành viên. Hiệp ước quy định quyền tự do đi lại
của công dân các nước thành viên. Đối với công dân nước ngồi chỉ cần có
visa của 1 trong 9 nước trên là được phép đi lại trong toàn bộ khu vực
Schengen. Hiện nay, 14 trong 25 nước thành viên EU đã tham gia khu vực
Schengen (ngoại trừ cả Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland).
Hiệp ước Nice (11 tháng 12 năm 2000) tập trung vào vấn đề cải cách

thể chế để đón nhận các thành viên mới đồng thời tăng cường vai trò của
Nghị viện châu Âu, thành lập Lực lượng phản ứng nhanh (RRF). Theo luật
của EU, Hiệp ước Nice cần được nghị viện của tất cả các nước thành viên
thơng qua mới có hiệu lực. Hiện nay, quá trình này đang được tiến hành trong
các quốc gia thành viên.
2.2. Thành Viên
Lịch sử của Liên minh châu Âu bắt đầu từ chiến tranh thế giới thứ II. Ý
tưởng về hội nhập châu Âu đã được nhận thức sẽ giúp ngăn chặn việc giết
chóc và phá hủy khơng xảy ra nữa. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert
Schuman là người đã nêu ra ý tưởng và đề xuất lần đầu tiên trong một bài
phát biểu nổi tiếng ngày 9 tháng 5 năm 1950. Cũng chính ngày này hiện nay
7


được coi là ngày thành lập của EU và được kỉ niệm hàng năm là Ngày châu
Âu. Ban đầu, EU bao gồm 6 quốc gia thành viên là: Bỉ, Đức, Italia,
Luxembourg, Pháp, Hà Lan. Năm 1973, tăng lên thành gồm 9 quốc gia
thành viên. Năm 1981, tăng lên thành 10. Năm 1986, tăng lên thành 12. Năm
1995, tăng lên thành 15. Năm 2004, tăng lên thành 25. Năm 2007 tăng lên thành
27.
Danh sách 27 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu xếp theo
năm gia nhập: 1957 (Bỉ, Đức, Italy, Luxambua, Pháp, Hà Lan); 1973 (Đan
Mạch, Ireland, Anh); 1981 (Hy Lạp); 1986 (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha);
1995 (Áo, Phần Lan, Thụy Điển); Ngày 1/5/2004 (Séc, Hungary, Ba Lan,
Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia, Estonia, Malta, Cộng hịa Síp); Ngày
1/1/2007 (Romania, Bulgaria).
Hiện nay, EU có diện tích là 4.422.773 km² với dân số là 492,9 triệu
người (2006); với tổng GDP là 11.6 nghìn tỉ euro (~15.7 nghìn tỉ USD) trong
năm 2007. Hầu hết các quốc gia châu Âu đều đang là thành viên của Liên
minh châu Âu.

Vẫn còn 22 quốc gia gồm Albania, Andorra, Armenia, Azerbaijan,
Belarus, Bosnia & Herzegovina, Croatia, Grugia, Iceland, Liechtenstein,
Macedonia, Moldova, Monaco, Montenegro, Na Uy, Nga, San Marino,
Serbia, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Sĩ, Ukraina, và Vatican chưa gia nhập Liên minh
châu Âu.
2.3. Cơ Cấu Tổ Chức
Liên minh châu Âu có 7 thể chế chính trị chính đó là: Nghị viện châu
Âu, Hội đồng bộ trưởng, Ủy ban châu Âu, Hội đồng châu Âu, Ngân hàng
Trung ương châu Âu, Tịa án Cơng lý Liên minh châu Âu và Tịa án Kiểm
toán châu Âu. Thẩm quyền xem xét và sửa đổi hệ thống luật pháp của Liên

8


minh châu Âu - quyền lập pháp - thuộc về Nghị viện châu Âu và Hội đồng Bộ
trưởng. Quyền hành pháp được giao cho Ủy ban châu Âu và một bộ phận nhỏ
thuộc về Hội đồng châu Âu. Chính sách tiền tệ của khu vực đồng tiền chung
châu Âu được quyết định bởi Ngân hàng Trung ương châu Âu. Việc giải thích
và áp dụng luật của Liên minh châu Âu và các điều ước quốc tế có liên quan quyền tư pháp - được thực thi bởi Tịa án Cơng lý Liên minh châu Âu. Ngồi
ra cịn có một số cơ quan nhỏ khác phụ trách tư vấn cho Liên minh châu Âu
hoặc hoạt động riêng biệt trong các lĩnh vực đặc thù.
Hội đồng châu Âu phụ trách điều hành Liên minh châu Âu và có nhiệm
vụ nhóm họp ít nhất 4 lần trong năm. Hội đồng châu Âu bao gồm Chủ tịch
Hội đồng châu Âu, Chủ tịch Ủy ban châu Âu và một đại diện của mỗi quốc
gia thành viên Liên minh châu Âu, có thể là người đứng đầu nhà nước hoặc
chính phủ của quốc gia thành viên đó. Hội đồng châu Âu được xem là cơ
quan lãnh đạo tối cao của Liên minh châu Âu. Hội đồng châu Âu chủ động
xem xét những thay đổi trong các hiệp ước điều chỉnh hoạt động Liên minh
châu Âu cũng như xác định chương trình nghị sự và chiến lược cho Liên minh
châu Âu.

Hội đồng châu Âu sử dụng vai trị lãnh đạo của mình để dàn xếp các
tranh chấp giữa các quốc gia thành viên và các thể chế chính trị của Liên
minh châu Âu cũng như giải quyết các cuộc khủng hoảng chính trị và bất
đồng trong những vấn đề và chính sách gây nhiều tranh cãi. Về đối ngoại,
hoạt động của Hội đồng châu Âu có thể ví với một nguyên thủ của tập thể các
nguyên thủ quốc gia để ký kết, phê chuẩn các thỏa thuận và điều ước quốc tế
quan trọng giữa Liên minh châu Âu và các quốc gia khác trên thế giới.
Ngày 19 tháng 1 năm 2009, ngài Herman Van Rompuy đã được chỉ
định làm Chủ tịch thường trực của Hội đồng châu Âu. Ngày 1 tháng
12 năm 2009 khi Hiệp ước Lisbon bắt đầu có hiệu lực, ngài Herman Van

9


Rompuy chính thức nhận cơng tác tại nhiệm sở. Chủ tịch Hội đồng châu Âu
chịu trách nhiệm đại diện đối ngoại cho Liên minh châu Âu, giải quyết mâu
thuẫn nảy sinh giữa các quốc gia thành viên để hướng tới sự đồng thuận trong
các hội nghị của Hội đồng châu Âu cũng như trong các giai đoạn chuyển tiếp
giữa các hội nghị đó. Cần tránh nhầm lẫn Hội đồng châu Âu của Liên minh
châu Âu với một tổ chức quốc tế độc lập khác của có tên gọi là Hội đồng châu
Âu.
Hội đồng Liên minh châu Âu thường được gọi tắt trong tiếng
Anh là Council hay còn gọi là Hội đồng Bộ trưởng là một trong hai bộ phận
lập pháp của Liên minh châu Âu (bộ phận còn lại là sự kết hợp của Ủy ban
châu Âu và Nghị viện châu Âu) chịu trách nhiệm quyết định các chính sách
lớn của EU, bao gồm các Bộ trưởng đại diện cho các thành viên.
Các nước thành viên luân phiên làm Chủ tịch với nhiệm kỳ 6 tháng.
Giúp việc cho Hội đồng có Ủy ban Thường vụ và Ban Thư ký. Tuy nhiên, dù
cơ cấu tổ chức phức tạp nhưng Hội đồng Bộ trưởng vẫn được xem là một
trong các thể chế chính trị chính thức của Liên minh châu Âu.

Từ năm 1975, người đứng đầu nhà nước, hoặc đứng đầu chính phủ, các
ngoại trưởng, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban châu Âu có các cuộc họp
thường kỳ để bàn quyết định những vấn đề lớn của EU. Cơ chế này gọi là Hội
đồng châu Âu hay Hội nghị Thượng đỉnh Liên minh châu Âu.
Nghị Viện Châu Âu gồm 751 nghị sĩ, nhiệm kỳ 5 năm, được bầu theo
nguyên tắc phổ thông đầu phiếu từ tất cả các quốc gia thành viên Liên minh
châu Âu. Trong Nghị viện châu Âu các nghị sĩ ngồi theo nhóm chính trị khác
nhau, khơng theo quốc tịch.
Nhiệm vụ của Nghị viện châu Âu là phối hợp với Hội đồng Bộ
trưởng (hay Hội đồng Liên minh châu Âu) thông qua đề xuất lập pháp của Ủy

10


ban châu Âu trong hầu hết các lĩnh vực. Nghị viện châu Âu cịn có thẩm
quyền thơng qua ngân sách, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách
của Liên minh châu Âu. Ủy ban châu Âu chịu trách nhiệm trước Nghị viện
châu Âu, đối với mọi hoạt động phải có sự chấp thuận của Nghị viện châu
Âu, báo cáo kết quả công tác trước Nghị viện châu Âu để đánh giá, phê bình
và rút kinh nghiệm. Chủ tịch Nghị viện châu Âu, được bầu bởi các nghị sĩ với
nhiệm kỳ 2 năm rưỡi, đồng thời phải phụ trách vai trị người phát ngơn trong
và ngồi nghị viện.
Chủ tịch Nghị viện Châu Âu đương nhiệm là ông Antonio Tajani,
thuộc Đảng Nhân dân Châu Âu từ ngày 17 tháng 1 năm 2017.
Ủy Ban Châu Âu Là cơ quan điều hành của Liên minh châu Âu chịu
trách nhiệm đề xuất lập pháp và những hoạt động thường nhật của Liên minh
châu Âu. Ủy ban châu Âu bao gồm 27 uỷ viên đại diện cho 27 quốc gia thành
viên Liên minh châu Âu, nhiệm kỳ 5 năm do các chính phủ nhất trí cử và chỉ
bị bãi miễn với sự nhất trí của Nghị viện châu Âu.
Chủ tịch Ủy ban châu Âu đương nhiệm là ông Jean-Claude Juncker,

cựu Thủ tướng Luxembourg nhiệm kỳ 1995–2013, được Nghị viện châu
Âu phê chuẩn ngày 15 tháng 7 năm 2014.
Tịa Án Cơng Lý Liên Minh Châu Âu có thẩm quyền tư pháp đối với
các vấn đề có liên quan đến luật pháp của Liên Minh Châu Âu. Bao gồm hai
tồn án chính: Tịa Sơ Thẩm Châu Âu và Tịa Án Cơng Lý Châu Âu.
2.4. Hệ Thống Pháp Luật
Cơ sở pháp lý hình thành Liên minh châu Âu là các hiệp ước được ký
kết và phê chuẩn bởi các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu. Các hiệp
ước đầu tiên đánh dấu sự thành lập Cộng đồng châu Âu và Liên minh châu
Âu. Các hiệp ước kế tiếp chỉnh sửa và bổ sung các hiệp ước đầu tiền ngày

11


một đầy đủ và hồn thiện hơn. Đó chính là những hiệp ước tạo ra các thể chế
chính trị của Liên minh châu Âu cũng như cung cấp cho các thể chế chính trị
đó thẩm quyền thực hiện các mục tiêu và chính sách đã đặt ra ngay trong
chính các hiệp ước. Những thẩm quyền này bao gồm thẩm quyền lập
pháp ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các quốc gia thành viên Liên minh châu
Âu và công dân của các quốc gia thành viên đó. Liên minh châu Âu có đầy đủ
tư cách pháp nhân để ký kết các thỏa thuận và điều ước quốc tế.
Căn cứ theo nguyên tắc "uy quyền tối cao", tòa án của các quốc gia
thành viên có trách nhiệm thực hiện đầy đủ và đúng đắn tất cả quy định và
nghĩa vụ đặt ra tuân theo các hiệp ước mà quốc gia thành viên đó đã phê
chuẩn, kể cả khi điều đó gây ra các xung đột pháp luật trong hệ thống pháp
luật nội địa, thậm chí trong vài trường hợp đặc biệt là hiến pháp của một số
quốc gia thành viên.
2.5. Tư Pháp Và Nội Vụ
Kể từ khi thành lập vào năm 1993, Liên minh châu Âu bước đầu đã có
những phát triển trong lĩnh vực tư pháp và nội vụ từ cấp độ liên chính phủ đến

chủ nghĩa siêu quốc gia. Hàng loạt các cơ quan được thành lập để phối hợp
hành động: Europol giữa lực lượng cảnh sát các quốc gia thành viên Liên
minh châu Âu, Eurojust đối với các công tố viên, và Frontex đối với các cơ
quan phụ trách biên giới và cửa khẩu. Liên minh châu Âu cũng triển khai Hệ
thống thơng tin có khả năng cung cấp cơ sở dữ liệu chung cho lực lượng cảnh
sát và cơ quan nhập cảnh của các quốc gia thành viên. Công tác phối hợp hoạt
động được quan tâm đặc biệt kể từ khi Hiệp ước Schengen được ký kết tạo
điều kiện cho việc mở cửa biên giới cũng như sự gia tăng đáng kể của vấn đề
tội phạm xuyên quốc gia.
Bên cạnh đó, Liên minh châu Âu cũng đã có những đạo luật giải quyết
vấn đề gây nhiều tranh cãi như dẫn độ, hơn nhân gia đình, tị nạn, và xét xử tội

12


phạm. Ngoài ra, các hiệp ước được ký kết giữa các quốc gia thành viên "Liên
minh châu Âu" cũng đề cao việc ngăn cấm sự phân biệt đối xử liên quan đến
giới tính và quốc tịch. Trong những năm gần đây, hệ thống pháp luật của Liên
minh châu Âu còn được bổ sung thêm vấn đề chống phân biệt sắc tộc, tơn
giáo, khuyết tật, tuổi tác và khuynh hướng tình dục ở nơi làm việc.
2.6. Ngoại Giao
Việc hợp tác trong các vấn đề đối ngoại giữa các quốc gia thành viên
Liên minh châu Âu được bắt đầu vào năm 1957 với sự hình thành Cộng đồng
châu Âu. Vào thời điểm đó, các quốc gia thành viên tập hợp lại như một khối
thống nhất trong việc thương lượng các vấn đề thương mại quốc tế theo Chính
sách thương mại chung. Quan hệ đối ngoại của Liên minh châu Âu chuyển
sang một giai đoạn mới vào năm 1970 với nhiều phát triển đáng lưu ý, trong
đó có thể kể tới sự ra đời của Tổ chức hợp tác chính trị châu Âu có vai trị như
nơi để các quốc gia thành viên tham vấn một cách khơng chính thức để hướng
tới một chính sách đối ngoại chung. Nhưng phải đến tận năm 1987 khi Luật

châu Âu duy nhất được ban hành, Tổ chức hợp tác chính trị châu Âu mới có
được một cơ sở pháp lý hồn chỉnh. Sau đó, tổ chức này được đổi thành
Chính sách an ninh và đối ngoại chung khi Hiệp ước Maastricht bắt đầu có
hiệu lực.
Mục tiêu của Chính sách an ninh và đối ngoại chung (CFSP) là thúc
đẩy lợi ích của chính Liên minh châu Âu cũng như của cộng đồng thế giới
trong việc xúc tiến hợp tác quốc tế, tôn trọng nhân quyền, dân chủ và pháp
trị. CFSP đòi hỏi sự thống nhất giữa các quốc gia thành viên của Liên minh
châu Âu để quyết định chính sách phù hợp cho bất kì một vấn đề quan trọng
nào. Mặc dù không hay xảy ra, nhưng CFSP đôi lúc cũng gây ra những bất
đồng giữa các quốc gia thành viên như trong trường hợp của Chiến tranh Iraq.

13


Về qn sự. Liên minh châu Âu khơng có một quân đội chung. Các tổ
chức tiền thân của Liên minh châu Âu khơng hướng đến mục đích hình thành
một liên minh quân sự hùng mạnh bởi vì NATO đã được thiết lập với vai trò
này. 21 trong tổng số 27 quốc gia thành viên Liên minh châu Âu đang là
thành viên của NATO. Trong khi các nước thành viên còn lại theo đuổi chính
sách của trung lập. Tuy nhiên, đối với quy chế thành viên Liên minh châu Âu
thì tình trạng trung lập của các quốc gia thành viên này đang bị đặt một dấu
hỏi lớn bởi Thủ tướng Phần Lan cũng như vấn đề tương hỗ trong trường hợp
thiên tai, tấn công khủng bố hay xâm lược vũ trang. Mặt khác, Liên minh Tây
Âu, liên minh quân sự với các điều khoản quốc phòng chung, đã giải thể vào
năm 2010 vì vai trị của liên minh này hiện tại đã được chuyển giao cho Liên
minh châu Âu.
Năm 2009, theo thống kê của Viện nghiên cứu hịa bình quốc tế
Stockholm, Vương quốc Anh đã dành hơn 48 tỷ EUR (tương đương 69 tỷ
USD) cho quốc phòng, đứng thứ 3 trên thế giới sau Mỹ và Trung Quốc, trong

khi Pháp đứng ở vị trí thứ 4 với 47 tỷ EUR (khoảng 67,31 tỷ USD) cho quân
đội. Anh và Pháp đóng góp 45% ngân sách quốc phòng, 50% khả năng quân
sự và 70% tất cả chi phí nghiên cứu và phát triển quân sự của cả Liên minh
châu Âu. Trong năm 2000, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, và Đức chiếm đến 97%
tổng ngân sách nghiên cứu quân sự của Liên minh châu Âu so với tất cả 15
quốc gia thành viên còn lại.
2.7. Kinh Tế
Ngày từ lúc mới thành lập, Liên minh châu Âu đã đặt ra mục tiêu trọng
tâm là thiết lập một thị trường kinh tế duy nhất ở châu Âu bao gồm lãnh thổ
của tất cả các quốc gia thành viên. Hiện tại, hệ thống tiền tệ chung đang được
sử dụng ở 16 nước thuộc Liên minh châu Âu, thường biết đến với tên gọi khu
vực đồng euro. Vào năm 2009, sản lượng kinh tế của Liên minh châu Âu
chiếm khoảng 21% tổng sản lượng kinh tế toàn cầu, ước tính vào khoảng 14,8
14


nghìn tỉ USD, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Liên minh châu Âu
cũng đạt được sản lượng xuất khẩu và nhập khẩu lớn nhất thế giới, về hàng
hóa và dịch vụ, đồng thời cũng là đối tác thương mại lớn nhất đối với các thị
trường lớn trên thế giới như Ấn Độ và Trung Quốc.
2.7.1. Thị Trường Nội Địa Châu Âu
Hai trong số những mục tiêu cơ bản của Cộng đồng Kinh tế châu Âu là
việc phát triển của một thị trường chung, hay sau này thường được biết với
tên gọi thị trường duy nhất, và một liên minh hải quan giữa các quốc gia
thành viên. Thị trường duy nhất của Liên minh châu Âu liên quan mật thiết
đến bốn vấn đề tự do bao gồm tự do lưu thơng hàng hóa, vốn, con người và
dịch vụ trong phạm vi của Liên minh châu Âu. Còn liên minh hải quan là việc
áp dụng một hệ thống thuế khóa chung cho tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu
vào thị trường duy nhất này. Một khi hàng hóa đã được nhập vào thị trường
duy nhất, hàng hóa đó sẽ không phải chịu thuế hải quan, các loại thuế về hạn

chế nhập khẩu (quota) mang tính chất phân biệt đối xử khi lưu thông trong
phạm vi Liên minh châu Âu. Một nửa các hoạt động thương mại của Liên
minh châu Âu chịu sự điều chỉnh của hệ thống cân đối pháp luật của Liên
minh châu Âu.
Quyền tự do di chuyển vốn nhằm mục đích cho phép các hoạt động đầu
tư như mua bán tài sản cũng như cổ phần doanh nghiệp giữa các quốc gia
thành viên được dễ dàng hơn. Quyền tự do di chuyển về con người được hiểu
rằng những người mang quốc tịch của một quốc gia thành viên Liên minh
châu Âu có thể tự do đi lại trong phạm vị Liên minh châu Âu để sinh sống,
làm việc hoặc nghỉ ngơi. Quyền tự do di chuyển về con người đòi hỏi một
quốc gia thành viên Liên minh châu Âu phải giảm bớt các thủ tục hành chính
cũng như cơng nhận đánh giá về chun mơn của một quốc gia thành viên
khác.

15


2.7.2. Liên Minh Tiền Tệ
Việc tạo ra một đơn vị tiền tệ duy nhất đã trở thành mục tiêu chính thức
của Cộng đồng Kinh tế châu Âu từ năm 1969. Tuy nhiên, chỉ cho đến
khi Hiệp ước Maxtrich có những cải tiến vào năm 1993 thì các quốc gia thành
viên Liên minh châu Âu mới thực sự bị ràng buộc về mặt pháp lý bởi liên
minh tiền tệ kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1999. Kể từ thời điểm phát hành đồng
tiền chung euro, từ 11 nước ban đầu hiện nay đã có 17 quốc gia sử dụng đồng
tiền này. Mới đây nhất là Estonia vào năm 2011.
Tất cả các nước thành viên của Liên minh châu Âu, trừ Đan Mạch, đều
bị ràng buộc trên cơ sở pháp lý về việc sử dụng đồng euro như đơn vị tiền tệ
chính thức, khi đã đáp ứng đủ các tiêu chuẩn kinh tế đặt ra. Tuy nhiên, chỉ có
một vài quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu lên thời gian biểu cụ thể
cho việc gia nhập hệ thống tiền tệ này. Ví dụ như Thụy Điển đã cố tình không

đáp ứng đủ các tiêu chuẩn thành viên của Liên minh châu Âu để lẩn tránh
việc sử dụng đồng euro.
Đồng tiền chung euro được tạo ra nhằm mục đích xây dựng một thị
trường duy nhất. Ý nghĩa của hành động này bao gồm việc thúc đẩy các
quyền tự do di chuyển, xóa bỏ vấn đề trao đổi ngoại tệ, cải thiện sự minh bạch
về giá cả hàng hóa và dịch vụ, thiết lập một thị trường tài chính thống nhất, ổn
định giá cả và lãi suất thấp và nhất là hạn chế những tác động tiêu cực do khối
lượng giao dịch thương mại nội đại khổng lồ trong phạm vi Liên minh châu
Âu. Đồng tiền chung euro cũng chính là biểu tượng chính trị cho sự hịa hợp
và phát triển kinh tế liên tục. Từ khi ra mắt đồng euro đến nay, đồng euro đã
trở thành đồng tiền dự trữ lớn thứ hai trên thế giới với một phần tư ngoại hối
dự trữ là bằng đồng euro. Ngân hàng Trung ương châu Âu, căn cứ trên các
hiệp ước của Liên minh châu Âu, chịu trách quản lý chính sách tiền tệ của
đồng euro nói chung và Liên minh châu Âu nói riêng.

16


2.7.3. Luật Cạnh Tranh
Liên minh châu Âu thực hiện chính sách cạnh tranh nhằm mục đích
đảm bảo tính lành mạnh của việc cạnh tranh kinh tế trong thị trường nội địa
Liên minh châu Âu. Hội đồng châu Âu với vai trò là người quản lý luật cạnh
tranh chịu trách nhiệm xử lý những vấn đề liên quan đến luật này cũng như
cho phép việc sáp nhập và hợp nhất các cơng ty,tập đồn lớn của Liên minh
châu Âu hay giải thế các cartel để phát triển tự do thương mại và giảm bớt trợ
giá từ chính phủ của các quốc gia thành viên cho các cơng ty tập đồn lớn của
nước mình.

Thanh tra Liên minh châu Âu về cạnh tranh, hiện tại là ngài Joaquín
Almunia, là một trong những vị trí quyền uy nhất trong Hội đồng châu Âu vì

khả năng chi phối đến các lợi ích thương mại của các tập đồn xun quốc gia
có liên quan đến Liên minh châu Âu. Điển hình, vào năm 2001, lần đầu tiên
Hội đồng châu Âu đã ngăn cản một vụ sáp nhập giữa hai cơng ty có trụ sở
tại Hoa Kỳ, vốn đã được chính quyền quốc gia đồng ý cho tiến hành sáp nhập.
Một vụ việc đáng quan tâm khác liên quan đến luật cạnh tranh của Liên minh
châu Âu đó là việc Hội đồng châu Âu tuyên án phạt Microsoft 777 triệu euro
sau 9 năm tranh tụng.
2.8. Xã Hội
Ngày 1 tháng 1 năm 2011, tổng dân số của 27 quốc gia thành viên
thuộc Liên minh châu Âu dự tính đạt 501.259.840 người. Năm 2013, Croatia
gia nhập, dân số Liên minh châu Âu tăng thêm khoảng 4 triệu người. Đến 1
tháng 2 năm 2020, sau khi Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland rời
khỏi, dân số Liên minh giảm xuống, còn khoảng 438 triệu người. Tuy Liên
minh châu Âu chỉ chiếm 3% diện tích đất liền, dân số liên minh này chiếm
đến 5,6% dân số thế giới (2020). Mật độ dân số lên đến 105 người/km² đã
17


khiến cho Liên minh châu Âu trở thành một trong những khu vực đông dân
cư nhất trên thế giới.
2.8.1. Đô Thị Hóa
Liên minh châu Âu là nơi có nhiều thành phố toàn cầu hơn bất cứ khu
vực nào khác trên thế giới, có tất cả 16 thành phố trên một triệu dân, trong đó
lớn nhất là Berlin.
Ngồi các thành phố lớn, Liên minh châu Âu cịn có những vùng với
mật độ dân cư dày đặc với không chỉ một trung tâm đơn lẻ mà mở rộng kết
nối với những thành phố khác, hiện nay đều được những vùng đô thị vây
quanh.
2.8.2. Ngôn Ngữ
Trong số rất nhiều ngôn ngữ và tiếng địa phương được sử dụng ở Liên

minh

châu

Âu,



thơng: Bungary, Séc, Đan

24

ngơn

ngữ

Mạch, Hà

chính

thức



tiếng

phổ

Lan, Anh, Estonia, Phần


Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ý, Ailen, Latvia, Litva, Malta, Ba Lan, Bồ Đào
Nha, Rumani, Slovak, Slovenia, Tây Ban Nha và tiếng Thụy Điển. Các tài
liệu quan trọng, chẳng hạn như luật pháp, được dịch sang mọi ngơn ngữ chính
thức. Nghị viện châu Âu cung cấp các bản dịch tài liệu văn bản và phiên toàn
thể ở tất cả các ngôn ngữ. Một số tổ chức sử dụng chỉ một số ít các ngơn ngữ
phổ thơng nội bộ. Chính sách ngơn ngữ do các thành viên trong liên minh
quản lý, nhưng các tổ chức Liên minh châu Âu luôn thúc đẩy việc học các
ngôn ngữ khác. Tiếng Anh là ngoại ngữ được nói nhiều nhất và được 51%
dân số Liên minh châu Âu sử dụng (bao gồm cả người bản ngữ tiếng
Anh), sau đó là tiếng Đức và tiếng Pháp. Bên cạnh 23 ngơn ngữ chính thức,
có khoảng 150 ngôn ngữ địa phương và dân tộc thiểu số, với số lượng người
nói lên đến 50 triệu người.

18



×