Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiểu luận phóng sự truyền hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.38 KB, 38 trang )

Văn Minh 0984623023

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
Koa Phát thanh & truyền hình
**********

Tiểu Luận

Phóng sự Truyền hình


LỜI MỞ ĐẦU
Trong một tờ báo, một chương trình phát thanh hay truyền hình
chúng ta bắt gặp nhiều bài báo hay chương trình khác nhau. Sự khác nhau
khơng chỉ ở nội dung phản ánh mà còn ở phương pháp phản ánh. Điều đó
thể hiện khả năng cũng như nhu cầu của báo chí trong việc phản ánh cuộc
sống đa dạng và phong phú. Mỗi phương thức phản ánh lại có hiệu quả
riêng phù hợp với từng đối tượng phản ánh và mỗi phương thức phản ánh
trên báo chí được định hình, xác định thơng qua những bài báo, chương
trình gần giống nhau về các thủ pháp thực hiện. Mỗi thể tài, một nhóm thể
tài đều có những sức mạnh cũng như những điểm yếu riêng và để thông tin,
phản ánh có hiệu quả cho từng đối tượng phản ánh thì lại có một thể tài
thích hợp. Do đó, việc sử dụng đúng thể tài phản ánh trên báo chí giúp
chúng ta định hướng, chọn lọc các phương tiện, phương pháp và hình thức
thích hợp tuỳ thuộc vào đối tượng phản ánh.
Mỗi loại hình báo chí ngồi những đặc trưng chung cịn có những nét
riêng biệt do tính đặc thù của của loại hình quy định và do đó khi nghiên
cứu một thể tài theo một loại hình báo chí nhất định chúng ta cũng phải căn
cứ vào chính loại hình đó, tất nhiên trên cơ sở đối chiếu với những ngun
lí báo chí chung. Thể tài Phóng sự Truyền hình (PSTH)có một mối liên hệ,


chịu ảnh hưởng nhất định về phương thức, thủ pháp thực hiện của loại hình
phóng sự điện ảnh trước khi truyền hình ra đời cũng như với thể loại phóng
sự trên báo viết.

1


NỘI DUNG
I. Khái niệm phóng sự truyền hình và các dạng phóng sự truyền hình
Theo Karel Storkan: “ Phóng sự khơng cịn bó hẹp ở chỗ mơ tả thực
tế ngồi mà trở thành một bộ phận hữu cơ trong cố gắng chung của con
người nhằm đạt tới những hình thức chân xác của thực tế qua những thay
đổi mà các hình thức trải qua cả về mặt sự việc lẫn cảm xúc. Bìa phóng sự
thời nay khơng chỉ là một sự ghi chép đơn thuần mà còn là một lời giải đáp
cho một loạt các vấn đề phức tạp liên quan đến đời sống chúng ta”.
Theo Nhà báo Đặng Thái Văn - Trung tâm nghe nhìn cho rằng:
“Phóng sự truyền hình là một thể loại phản ánh về một sự việc có diễn biến
sự kiện, có sự chứng kiến của người thực hiện, phải làm cho người xem
tiếp nhận nhận thức được vấn đề nêu ra.”
Trên cơ sở đó có thể đưa ra một định nghĩa về PSTH như sau:
“Phóng sự truyền hình là một thể tài báo chí phản ánh kịp thời một sự
kiện, một vấn đề bức xúc của thời cuộc trong quá trình phát sinh, phát
triển, với một quan điểm, thái độ nhất định, thông qua phương tiện biểu
đạt hình ảnh và âm thanh sống động của truyền hình”.
Có thể phân ra các dạng phóng sự truyền hình chính:
1, Phóng sự sự kiện hay phóng sự thời sự xuất hiện trong các chương trình
thời sự. Tính thời sự của sự kiện được đặt lên hàng đầu và thời lượng chỉ
giới hạn trong khoảng 2-3 phút do chừng mực có hạn của chương trình thời
sự.
2, Phóng sự về một vấn đề hay phóng sự chuyên đề, chuyên mục:

CKX,VKT, Vì an ninh tổ quốc…Phóng sự chun đề có thể phản ánh về
một vấn đề, một thực trạng đang nảy sinh cần phải giải quyết hoặc có thể

2


điều tra về một vụ việc thường là tiêu cực trong đó địi hỏi con số, số liệu
thống kê phải tỉ mỉ, chính xác.
II. Khu biệt đề tài PSTH với các thể tài giáp ranh
1. Với tin Truyền hình
Xen kẽ các tin trong chương trình thời sự của các đài TH là những
phóng sự về các sự kiện xảy ra hàng ngày, hàng giờ trên thế giới. Xét về
mặt thời lượng, một phóng sự khơng dài hơn một tin bao nhiêu. Tin là sự
thông báo ngắn gọn về kết quả của một sự kiện, ở “điểm nút ” của sự kiện,
cịn phóng sự phản ánh chi tiết một sự kiện hấp dẫn, một biến cố nóng hổi
mà người xem quan tâm, cần biết. PSTH sẽ cho biết sự kiện đó diễn ra như
thế nào, cùng với những thông tin bối cảnh của sự kiện đó: Nguyên nhân
của sự kiện, tác động của sự kiên…Một sự kiện được nhiều người quan tâm
có thể là đối tượng của một tin truyền hình thơng báo nhanh gọn hoặc là
đối tượng của một phóng sự với những thơng tin lí thú, bổ ích về sự kiện
đó.
Khơng phải bất kì một sự kiện, một sự việc nào cũng là đối tượng của
phóng sự, nhưng có những sự kiện mà nếu biết khai thác những khía cạnh
hấp dẫn của nó, nhất là việc cung cấp thơng tin bối cảnh của sự kiện sẽ có
thể thực hiện được một phóng sự hay.
Chính đặ điểm phản ánh thời cuộc nóng hổi một cách chi tiết và đi sâu đã
khiến PSTH mang dáng dấp một ghi nhanh ở báo viết. Thực ra khái niệm
thể tài ghi nhanh chỉ xuất hiện ở Việt Nam vào những năm 60, 70 do nhu
cầu phản ánh một cách nhanh chóng mọi hoạt động sản xuất và chiến đấu
trên mặt báo.

2. Với phim tài liệu truyền hình
a, Tính thời sự:

3


Phóng sự truyền hình phản ánh một sự kiện nóng hổi hay một vấn đề
thời sự trong đó chủ yếu là thông tin sự kiện trong khi Phim tài liệu Truyền
hình đề cập đến những đề tài lớn hơn với thông tin thẩm mỹ là chủ yếu, về
những vấn đề đi vào chiều sâu của tư tưởng, tính nhân văn sâu sắc hơn với
phạm vi phản ánh quy mô lớn. Hình ảnh của PSTH phải là hình ảnh thời sự
của hiện tại, cịn hình ảnh của PTLTH có thể vừa là hiện tại vừa là quá khứ.
Có thể nói những vấn đề đặt ra trong phóng sự là những vấn đề nảy sinh
trong một thời điểm nhất định của hiện tại, còn vấn đề đặt ra trong PTL là
sự xâu chuỗi của quá khứ, hiện tại thậm chí cả tương lai. Chính vì thế
những thước phim phóng sự lưu giữ qua các thời kì là nguồn tư liệu quan
trọng của phim tài liệu. Cũng do yêu cầu thời sự mà phóng sự lạc hậu rất
nhanh.
b, Tính khái qt:
Theo phóng viên Trường Phước: “phóng sự thường đi vào những chi
tiết và số liệu cụ thể, còn phim tài liệu đi vào những chi tiết khái quát mang
tính chất lâu dài và lời bình trong PSTH khơng xa sự kiện mà bám chặt
vào đó trong khi đó phim tư liệu lại có xu hướng khái qt và hình tượng
hố”.
c, Tính nghệ thuật:
Trong PSTH thì cái quan trọng nhất là những “hình ảnh thời sự” đắt
giá, là khả năng nắm bắt thời cuộc nóng hổi cịn Phim Tài Liệu lại tập trung
vào những vấn đề mang tính khái quát của cuộc sống, mang chiều sâu tư
tưởng và mang tính nhân văn sâu sắc địi hỏi phải có u cầu nghệ thuật
cao.

Nhà báo Vi Kiến Hồ trong bài giảng của mình về nghiệp cụ Truyền
hình đã cho rằng: “Phim Tài liệu TH là một dạng tuỳ bút trong văn học mà
ở đó chủ đề tư tưởng đã được hoà trộn và đưa vào một lúc cùng với tư
tưởng thẩm mỹ riêng của tác giả một cách cực kì khéo léo, càng tự nhiên
4


càng tốt. Trong PTL cần có một kịch bản văn học đàng hồng với tư duy
trí tuệ sâu sắc trên một loạt các sự kiện tự nhiên đang có, đã có và từng
xảy ra”. Do đó mà lời bình trong phim tư liệu phải là một sự chắp cánh cho
hình ảnh, cịn trong PSTH với mục đích thơng tin sự kiện là chính thì lời
bình phải bám chặt vào sự kiện bổ sung thơng tin cho hình ảnh mà thơi.
d, Tính tổng hợp: PSTH thơng thường chỉ là sự phản ánh một sự kiện, một
vấn đề một cách đầy đủ và chi tiết trong khi phim tài liệu có thể là sự mổ
xẻ một vấn đề, khắc hoạ chân dung ( “Những cánh hoa ngược dòng” hay
“Chuyện về một người làng võ” khắc hoạ một Đồn Đình Long đầy nghị
lực khơng những chiến thắng bệnh tật mà cịn giúp ích cho đời).
Phóng sự Truyền hình là sự ghi chép thời sự với yếu tố bất ngờ, bị
động phải chạy theo thời cuộc cho nên những hình ảnh phóng sự ít khi nuột
nà mang tính nghệ thuật. Trong khi đó, để đạt được những hình ảnh chắt
lọc mang tính nghệ thuật cao thì Phim Tài liệu TH có thể sử dụng những
thước phim thời sự, hay những thước phim tư liệu thậm chí những thước
phim “ Phục hiện” ( tái tạo lại hiện thực), “ Trên cơ sở các cảnh đó đã từng
xảy ra tại chỗ đó chứu khơng được bịa ra, hoặc đóng diễn thêm một số cảnh
trên cơ sở nó sẽ phải diễn ra như vậy”.
III. Các yếu tố cấu thành của Phóng sự Truyền hình
1. Hình ảnh
PSTH là một thể tài chủ lực của truyền hình trong hệ thống thơng tin
báo chí khơng thể bỏ qua yếu tố hình ảnh.. Chúng ta khơng thể địi hỏi hình
ảnh của PSTH phải đạt đến mức độ nghệ thuật như hình ảnh điện ảnh bởi

vì điện ảnh là một nghệ thuật với chức năng giải trí là chính trong khi
truyền hình là một loại hình báo chí có chưc năng thơng tin là hàng đầu.
Điều chúng tôi quan tâm ở đây là những sức mạnh của hình ảnh Điện ảnh
trong việc ghi chép, phản ánh hiện thực mà nhiều khi PSTH nói riêng,
Truyền hình nói chung đã đáng tiếc bỏ qua.
5


a, Cỡ cảnh
Với các cỡ cảnh chính là tồn cảnh - trung cảnh - cận cảnh. Cùng với
thành tựu là việc khám phá ra việc di động máy đã chấm dứt tình trạng
khoảng cách khơng thay đổi giữa người xem và đối tượng vốn là những nét
đặc trưng trong sân khấu cũng như hội hoạ. Và lần đầu tiên so với các
ngành nghệ thuật trước nó: nhiếp ảnh, hội hoạ, sân khấu …, điện ảnh đã
khắc phục được sự cố định không gian và giống như văn học, khi cần thiết
nó có thể đưa lại gần hay ra xa người xem các nhân vật cần xem. Và như
vậy, thế giới được tái tạo trên màn ảnh trở lên phong phú hơn và cũng chọn
lọc hơn. Nó đáp ứng được tâm lý quan sát tò mò của con người muốn xem
từ tổng thể đến chi tiết, không chỉ muốn biết cái gì đã xảy ra như thế nào
cũng như thái độ, tâm lí của những con người trong cuộc ra sao thơng qua
các cỡ cảnh.
b, Góc quay
Ngồi sự kế thừa điện ảnh về góc quay vật lý: cao thấp, chính diện,
3/4…trong việc ghi chép hiện thực phong phú, truyền hình cịn kế thừa
điện ảnh hai góc độ tâm lí: góc độ chủ quan và góc độ khách quan. Với góc
quay khách quan, ngưỡi xem có thể đóng vai trị người chứng kiến các
hành động đang diễn ra trên màn ảnh một cách dửng dưng của người ngồi
cuộc nhưng có thể trở thành người nhập cuộc, có cảm tưởng như mình
cùng tham gia với sự việc đang diễn ra trên phim thông qua góc quay chủ
quan. Do đó, hình ảnh trên phim khơng chỉ mang chức năng thơng tin đơn

thuần mà cịn có khả năng khêu gợi những tình cảm thái độ nhất định của
người xem, chẳng hạn với trận lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long vừa qua
nếu máy ghi hình đứng ở vị trí cố định ở tồn trên cao ghi lại những hình
ảnh cũng như tác hại con lũ sẽ cho khán giả cảm tưởng bản thân họ đang
chứng kiến con lũ đó, nhưng nếu có thêm những cảnh máy quay đặt ở mức
6


độ chủ quan đặt trên những con thuyền cứu hộ vượt dòng nước lũ sẽ khiến
cho người xem cảm giác bản thân họ cũng đang phải vật lộn với con lũ
hung hãn và như vậy họ trở lên đồng cảm hơn với những con người đang
phải chịu thiên tai.
c, Montage
Một Phóng sự Truyền hình hay bất kì một tác phẩm truyền hình, bộ
phim nào chính là sự diễn biến theo không gian và thời gian ở các cỡ cảnh
khác nhau nếu đứng ở góc độ hình ảnh. Khi truyền hình ra đời thì Montage
đã là một yếu tố cấu thành bộ phim. Montage là sự nối kết giữa các cảnh
màn, trường đoạn rời rạc khác biệt về không gian và thời gian theo ý đồ
của người làm phim để có một bộ phim hồn hảo dính liền nhau mà khán
giả có cảm giác được xem một câu chuyện kể liên tục khơng đứt đoạn.
Truyền hình đã được thừa hưởng tồn bộ kĩ thuật, nghệ thuật ráp dựng hình
ảnh điện ảnh: Động tiếp động, tĩnh tiếp tĩnh, đồng trục diễn xuất, trục định
hướng…Khó có thể hình dung một chương trình truyền hình nào lại có thể
tồn tại, nếu khơng có Montage - khi nó khơng chỉ có vai trị nối kết các
hình ảnh trong bản thân một tác phẩm truyền hình mà còn là sự liên kết,
ghép nối đẹp mắt giữa các tác phẩm trong chương trình đó. Montage có thể
cho phép điện ảnh và truyền hình nén hành động, thu hẹp thời gian mô tả
sự kiện xảy ra cũng nhưu chọn lựa, ghép nối bất kì hình ảnh cần thiết cho ý
đồ kịch bản của nhà làm phim trên cơ sở những thước phim đã quay được.
Đặc biệt PSTH chỉ là sự ghi chép trung thực hình ảnh các sự kiện, vấn đề

như nó có trong cuộc sống, chứ khơng được sử dụng bất kì một hư cấu
nghệ thuật nào để tăng giá trị thẩm mĩ của những thước phim. Vì vậy,
Montage hợp lí thì PSTH sẽ tăng độ hấp dẫn của sự thực lên. Chúng tôi sẽ
đi sâu vào vai trò của Montage đối với PSTH trong phần tiếp theo.
2. Âm thanh
7


Thế giới hiện thực là thế giới của những hình ảnh và âm thanh đan
xen, hoà quyện vào nhau. Truyền hình cũng như điện ảnh, ngồi sức mạnh
hình ảnh ra muốn chinh phục cuốn hút được khán giả thì khơng thiếu được
âm thanh. Với sự trợ giúp của âm thanh, hình ảnh trong phim thời sự, tư
liệu đã trở lên sống động như cuộc sống thực chứ khơng cịn là những hình
ảnh ghi chép khơ khan hiện thực. Giới hạn phản ánh của phim thời sự, tài
liệu chỉ dừng lại ở hiện thực của cuộc sống chứ không nhào nặn, hư cấu
chất liệu cuộc sống để tái tạo cuộc sống nghệ thuật như trong phim truyện.
Do vậy, mục đích của phim thời sự là ghi lại khơng chỉ là hình ảnh mà còn
hơi thở, động thái của cuộc sống trong thế giới hình ảnh và âm thanh biến
động khơng ngừng của cuộc sống. Phóng sự truyền hình, sự tiếp nối của
Điện ảnh chính luận cũng vậy. Sức mạnh của nó, sự nóng hổi của sự kiện,
vấn đề mà nó thể hiện được đề cập qua những hình ảnh chân thực về cuộc
sống được củng cố bằng âm thanh. “ Âm thanh trong bộ phim giúp ta tin
được những gì nhìn thấy trên màn ảnh là “thực” bởi con người luôn muốn
được nhìn và nghe cùng một lúc”. Âm thanh trong PSTH là sự tổ hợp của
các yếu tố sau:
+ Âm thanh ngồi hình:
Được phổ biến song hành với hình ảnh trong phóng sự, chỉ được
thực hiện ở khâu biên tập, gồm lời bình (cịn gọi là lời thuyết minh), và âm
nhạc. Lời bình là sự bổ sung cho những gì người xem nhìn thấy trên màn
ảnh truyền hình chứ khơng kể lại những gì họ đã nhìn thấy…phải truyền

đạt đựoc tư tưởng của phim…phải giúp người xem tổng hợp khái quát
được ý nghĩa sự vật, sự kiện diễn ra trên màn ảnh nhỏ”. “ Âm nhạc là một
trong 3 yếu tố quan trọng trong phim phóng sự, tư liệu. Âm nhạc trong
phim có tác dụng làm tơn thêm hình ảnh và sự kiện; không phải lúc nào
cũng vang lên mà chỉ sử dụng khi cần thiết…Âm nhạc cũng cần phải có
kịch tính và gợi cảm chứ khơng phải chỉ minh hoạ cho phim”.

8


Trong PSTH người ta thông thường chọn một bản nhạc, bài nhạc
không lời gần phù hợp với nội dung truyền tải của phóng sự là được và
cũng chỉ dùng lúc cần thiết. Hiện nay, PSTH đang có xu hướng khơng sử
dụng nhạc nền.
+ Âm thanh trong hình:
Được ghi tại hiện trường gồm lời thoại phỏng vấn và tiếng động hiện
trường, có tác động tăng độ chân thật của sự kiện, vấn đề mà phóng sự nêu
ra, thu hẹp khoảng cách giữa phóng viên và khán giả, tăng mối giao lưu
giữa người truyền và người nhận thông điệp. Riêng tiếng động trong phim
phóng sự phải là tiếng động trực tiếp từ hiện trường chứ không phải là
tiếng động giả như trong phim dàn dựng.
Mỗi yếu tố nói trên của âm thanh có một tầm quan trọng riêng mà
nếu người làm phóng sự biết sử dụng đúng lúc đúng chỗ sẽ tăng khả năng
thơng tin của hình ảnh. Thành phần các yếu tố của âm thanh trong từng
phóng sự khơng phải là nhất quán, bất di bất dịch mà phải tuỳ thuộc vào kết
cấu của phóng sự, thể hiện ý đồ của người làm phóng sự. Tuy nhiên, ta có
thể xác định một cách tương đối tỉ lệ giữa các thành phần đó. Theo kinh
nghiệm của các nhà làm phim Canada thì trong phim phóng sự, tài liệu
trước kia: 90% là lời bình, 5% là phỏng vấn, 1% tiếng động; Sau đó tỉ lệ đó
là 50%c lời bình, 15% phỏng vấn, 5 % tiếng động và hiện nay tỉ lệ đó là:

40% lời bình, 40% phỏng vấn, 20% tiếng động.
Ngơn ngữ phóng sự truyền hình là ngơn ngữ tổng hợp của hình ảnh
và âm thanh và sức mạnh của PSTH do đó là sức mạnh của hai thành tố đó.
Sự kết hợp của hình ảnh và âm thanh có sức thuyết phục lớn lao tác động
mạnh mẽ vào dưu lụân xã hội. Tuy nhiên, âm nhạc không được sử dụng
một cách tuỳ tiện khi mà tính chân thực của sự kiện, vấn đề thơng qua hình
ảnh và âm thanh hiện trường được đặt lên hàng đầu.
IV. Sự tương quan giữa hình ảnh và âm thanh trong PSTH
9


Hình ảnh và âm thanh là hai thành tố cấu thành nên ngơn ngữ tổng
hợp mang tính đặc thù của Truyền hình và Điện ảnh, nhưng việc xác định
sự tương quan giữa chúng không phải là đơn giản. Việc xác định tầm quan
trọng của mỗi thành tố sẽ quyết định tỉ lệ “đầu tư”, gia cơng, kết cấu của
phóng viên khi xây dựng một PSTH nói riêng, một tác phẩm Truyền hình,
Điện ảnh nói chung và điều quan trọng nhất là việc ảnh hưởng tới hiệu quả
của việc truyền đạt thơng tin. “Tác động đầu tiên của một chương trình tập
trung vào mắt người xem, mắt thường xuyên mạnh hơn tai nghe, đặc biệt
trong trường hợp giữa tai và mắt có sự nhận thức tương phản nhau đối với
nhưũng thơng điệp chúng nhận được. Những gì nghe được sẽ bổ trợ và
nâng cao hiệu quả của hình ảnh”.
Nội dung thơng điệp truyền đạt trong bất kì một tác phẩm truyền
hình nào cũng là sự tương hỗ giữa hình ảnh và âm thanh nhưng trong mỗi
một tác phẩm vai trò của chúng lại khác nhau do sự khác biệt của từng thể
tài quy định. “ Không thể đánh giá và xác định một cách tuyệt đối rằng
ngơn ngữ từ đóng một vai trị như thế nào và hình ảnh đóng một vai trò như
thế nào, trung tâm lực của một tác phẩm nằm ở đâu - ở trong chuỗi hình
ảnh hay là chuỗi âm thanh. Đối với các loại phim khác nhau, câu trả lời
cũng khác nhau…”

PSTH với tư cách là một thể tài thuộc nhóm thơng tấn với chức năng
thơng tin là chủ yếu, thì yếu tố lời bình (cả lời thoại) là số một. Hình ảnh và
tiếng động hiện trường là sự minh chứng xác thực nhất những thông tin đề
cập trong lời bình nhưng khơng vì thế mà lời bình lấn át hình ảnh trở thành
một bài báo phát thanh ghép vào hình ảnh. Nếu khơng có hình ảnh thì
khơng có truyền hình, nhưng thơng tin mà hình ảnh đã chuyển tải thì lời
bình khơng nên lặp lại mà phải đi sâu vào minh chứng cụ thể cho những gì
khán giả chứng kiến trên màn ảnh.
V. Quá trình sáng tạo Phóng sự truyền hình
10


Sau khi có ý đồ truyền đạt một thơng tin nào đó, chúng ta nghĩ tới
việc làm một bộ phim, trước tiên chúng ta có thể có một ý đồ hay, làm cơ
sở cho xây dựng phim. Chúng ta có thể phải truyền đạt một thông tin cụ thể
về một chủ đề nào đó. Có thể chúng ta mong muốn bày tỏ một thái độ hoặc
một tình cảm về đề tài. Công việc tiếp theo là làm như thế nào để có thể
diễn đạt được những ý tưởng, thái độ hoặc tình cảm của chúng ta đối với
người xem.
1. Đề tài và chủ đề trong PSTH
Phạm vi phản ánh của PSTH cũng như của bất kì một thể tài báo chí
nào là tồn bộ hiện thực khách quan. Nhưng khơng phải bất kì đối tượng
nào của hiện thực cũng thành đối tượng phản ánh của PSTH, đó phải là
những sự kiện thời sự nóng hổi, được nhiều người quan tâm hay những vấn
đề đặt ra trong bối cảnh hiện tại cần phải giải đáp. Nói một cách hình ảnh
thì đối tượng của PSTH là hiện thực, bối cảnh có vấn đề. Thơng qua PSTH
người phóng viên truyền đạt đến cơng chúng một bức tranh chi tiết và diễn
biến một sự kiện trọng đại, một biến cố hay một vấn đề trong quá trình phát
sinh, phát triển, theo một ý đồ tư tưởng nhất định. Bất kì một hình thức
thơng tin nào thì bản thân nó cũng thể hiện khuynh hướng tư tưởng nào đó,

PSTH cũng vậy và hơn thế nữa nó cịn thể hiện một ý đồ cụ thể trong thơng
điệp của mình. Chức năng khám phá và định hướng của PSTH thể hiện qua
đối tượng phản ánh của nó, có khi đó là một vấn đề mà dư luận xã hội đang
quan tâm nhưng lại có ít thơng tin hay hiểu biết sai lệch về nó, có khi là
những vấn đề tiềm ẩn hay chưa nổi rõ mà phóng viên bằng tư duy nhanh
nhạy trong việc nắm bắt, xử lí thơng tin, phát hiện sự kiện vấn đề
Đề tài PSTH xuất phát từ mọi khía cạnh, lĩnh vực của đời sống xã
hội mà từ đó các vấn đề, sự kiện nảy sinh cần được phát hiện và làm sáng
tỏ. Việc xác định đề tài, chủ đề cho phóng sự là bứơc khởi đầu quan trọng
không thể thiếu được của quy trình làm PSTH. Việc xác định đó cũng
11


khơng phải là cơng việc đơn giản mà cịn phụ thuộc vào khả năng tư duy
phát hiện vấn đề của người phóng viên cho nên có thể xem việc phát hiện
tốt đề tài, chủ đề đã quyết định một nửa thành công của PSTH. Sự kiện,
vấn đề nêu ra trong phóng sự có được cơng chúng quan tâm, chú ý không là
điều cần phải xác định trước khi xem xét, sự kiện, vấn đề đó được thể hiện
như thế nào.
2. Kế hoạch thựuc hiện - kịch bản
Xây dựng kịch bản là công việc đầu tiên sau khi xác định được đề
tài, chủ đề phản ánh trong một PSTH. PSTH cũng như bất kì một tác phẩm
truyền hình nào là một tác phẩm mang tính tập thể, là kết quả đóng góp của
các khâu: Biên tập, quay phim và dựng hình. Sự xây dựng kịch bản chính
là sự xác định những việc cần làm của các thành viên nói trên thơng qua
các bước: Quay, dựng, viết lời bình.
Tuy nhiên, việc xây dựng kịch bản có thể thực hiện được một cách
chi tiết, cụ thể đối với những phóng viên trong những chun đề, chương
trình về các vấn đề có độ ổn định tương đối, việc khai thác thông tin, tài
liệu xuất phát từ nhiều nguồn. Đối với loại phóng sự mà có người gọi là

phóng sự tại chỗ việc xác định các bước, cơng việc cần làm được hình
thành ngay tại hiện trường.
 Ghi hình
Ai cũng có thể hướng máy quay phim vào một cảnh và mang về
những hình ảnh quay có người và những hoạt động trong cảnh đó. Nhưng
người cầm máy quay cần có nhiều kỹ năng hơn để có những hình ảnh "biết
nói", thể hiện nơi dung câu chuyện, những hình ảnh ghi lại địa danh, khơng
khí, tâm trạng, tính cách và kể đúng câu chuyện mà bạn muốn kể.
Cách đầu tiên - quay tản mạn, ghi lại nhiều cảnh tồn. Hầu hết
những cảnh đó đều cần thêm lời giải thích.
12


Cách tiếp cận thứ hai đưa chúng ta gần với cách kể chuyện bằng hình
ảnh hơn. Ở đây hình ảnh và tiếng động tự nhiên được lựa chọn cẩn thận và
nếu có cần đến lời bình thì thường chỉ cần để tạo dựng bối cảnh và phân
tích. Để đạt được điều này cần phải làm quen với ngôn ngữ khuôn hình và
bố cục, động tác máy, ý nghĩa của góc quay và cỡ cảnh, và khả năng giao
tiếp rõ rành với người quay phim.
 Cỡ cảnh - tổng thể
 Viễn cảnh (Long Shot)
Cảnh xa, không chi tiết. Thường dùng ở đầu các trường đoạn. Toàn
cảnh tạo lập địa điểm và tâm trạng. Nhưng nó thường tải nhiều thơng tin
khác và có thể làm người xem nhầm lẫn.
 Tồn cảnh (Wide shot)
Cảnh rộng ghi nhận những hành động thích hợp.
 Cảnh cận (close shot)
Tập trung vào chi tiết. Cận cảnh được xác định bởi hiệu quả của nó,
chứ khơng phải cách thực hiện nó như thế nào. Nên ta có cảnh cận khi đưa
máy vào gần chủ thể với ống kính góc rộng hay dùng ống kính tele từ đằng

xa. Cảnh càng cận càng tạo điểm nhấn và giúp người xem dễ nhận biết
phản ứng của chủ thể. Nhưng nhiều cảnh cận quá sẽ cướp đi sự nhận biết
của người xem về không gian và thời gian. Một loạt các cảnh cận có thể là
cách thể hiện hữu hiệu sự tị mò của người xem ở đầu các trường đoạn.
Nhưng đừng chờ quá lâu trước khi trả lời câu hỏi quen thuộc - chuyện đó
xảy ra đâu?
 Cảnh cận : đặc trưng của truyền hình
Thậm chí một máy thu hình được coi là lớn thì cũng chỉ có màn hình
tương đối nhỏ khi so với màn hình của một rạp chiếu bóng. Muốn thấy rõ
13


các vật và hiểu ý nghĩa của chúng một cách nhanh chóng, thì các vật đó
phải tỷ lệ tương đối lớn trên màn hình vơ tuyến. Như vậy, bạn cần có nhiều
cảnh cận và trung hơn những cảnh tồn.
 Cỡ cảnh - người
Toàn cảnh (LS): Cảnh quay cả người.
Trung cảnh (MS) : Cắt trên hoặc dưới thắt lưng.
Trung cảnh hẹp (MCU): Cắt giữa ngực/túi áo ngực.
Cận cảnh (CU): Cắt quanh vai.
Cận đặc tả (BCU): Mép hình phía trên cắt ngang trán, mép phía dưới
thường cắt như cảnh cận, nhưng có thể cắt ngang cằm.
Quay cảnh người còn được xác định bởi số người: cảnh đơn, cảnh quay
đơi, ba, hay nhóm.
 Độ nét sâu
Bao nhiêu phần của cảnh nằm trong tầm nét. Độ mở ống kính nhỏ
(ví dụ: f11) cho hình ảnh sắc nét trong phạm vi rộng từ gần đến xa (độ nét
sâu), máy dễ dàng theo chủ thể mà khơng lo hình ảnh bị ra khỏi tầm nét
(mất nét). Đồng thời, nó tạo cảm giác về khơng gian và chiều sâu, nhưng có
thể làm cho ảnh bẹt và khơng hấp dẫn.

Sử dụng độ mở ống kính rộng hơn sẽ giảm phạm vi nét từ tiền cảnh
đến hậu cảnh (độ nét nông). Đây là một kỹ thuật tốt để cô lập chủ thể, làm
nó nổi bật khỏi hậu cảnh mờ nhạt.
 Động tác máy
Lia máy
Máy chuyển động ngang quanh một trục cố định tạo lập quan hệ giữa
chủ thể và vật. Chúng ta cho người xem biết về địa điểm. Nhưng hãy cẩn
thận với những cú lia mà hình ảnh ở đầu và cuối thì hấp dẫn, nhưng ở giữa
lại buồn tẻ hay có khơng gian chết.
14


Lia theo chuyển động
Giống như tất cả các động tác máy, động tác lia chỉ có hiệu quả khi
nó có nguyên do. Lia máy theo chuyển động như cái tên của nó thực sự cần
thiết khi phải theo một vật chuyển động.
Lia khảo sát (tìm tịi)
Máy quay tìm kiếm một ai đó hay người nào đó trong một cảnh. Bạn
phải xác định được động cơ của chuyển động này.
Lia nhanh
Máy quay chuyển động nhanh đến nỗi hình ảnh bị mờ nhoè. Lạm
dụng sẽ làm mất giá trị của động tác máy này. Người ta thường dùng lia
nhanh khi muốn. Thay đổi trọng tâm của sự chú ý. Con thuyền rời đi, lia
nhanh tới nơi thuyền đến.
Mô tả nguyên nhân và hiệu quả. Khẩu súng nhằm bắn, lia nhanh đến
mục tiêu. So sánh và tương phản. Mới và cũ, giàu và nghèo.
Lia dọc
Chuyển động máy quay dọc theo trục cố định. Lia dọc lên phía trên
tạo sự mong đợi và cảm giác phấn chấn. Lia dọc xuống phía dưới gợi ra sự
thất vọng và sự buồn rầu, và tình cảm u uất.

Chuyển động lên thẳng (cần cẩu)
Chuyển động của máy quay thẳng đứng trên một mặt phẳng. Chuyển
động này làm nổi bật hành động chính hay giảm sự chú ý vào tiền cảnh.
Chuyển động xuống thẳng (cần cẩu)
Ngược lại với chuyển động lên thẳng. Máy chạy dọc xuống trên một
mặt phẳng.
Zoom
Thay đổi cỡ cảnh bằng cách thay đổi tiêu cự ống kính. Động tác
zoom máy thay đổi quan hệ giữa chủ thể và hậu cảnh.
Đẩy máy

15


Thay đổi cỡ cảnh bằng cách đẩy máy tiến vào gần hoặc ra xa khỏi
chủ thể. Giữ nguyên quan hệ giữa chủ thể và hậu cảnh.
Travelling
Khảo sát một vật hay theo một vật chuyển động bằng cách chuyển
máy song song với vật.
Góc quay
Quay từ dưới lên: chủ thể trơng đường bệ hơn, mạnh mẽ hơn, có
dáng vẻ đe doạ.
Quay từ trên xuống: chủ thể trông kém đường bệ, thấp bé và có vẻ
bất lực.
Bố cục
Bố cục là sự sắp xếp thơng tin trong một khn hình. Bạn tìm cách
thu hút sự tập trung của người xem vào một vùng nào đó của hình ảnh, và
giảm thiểu hay loại bỏ những chi tiết làm mất tập trung.
Nguyên lý một phần ba
Là một nguyên lý đơn giản, nhưng hiệu quả nhất, nguyên tắc bố cục.

Nguyên lý này nêu một màn hình được chia đơi hay chia bốn sẽ cho những
hình ảnh tĩnh và tẻ; một màn hình được chia ba theo chiều ngang và chiều
dọc sẽ cho bố cục năng động và hấp dẫn hơn.
Đường chân trời không nên đặt ngang giữa khn hình. Nó phải ở
1/3 khn hình phía trên hoặc phía dưới, tuỳ theo ý định nhấn mạnh bầu
trời hay mặt đất (biển).
Các chi tiết quan trọng nằm dọc được đặt ở vị trí 1/3 màn hình theo
chiều dọc. Và nếu khu vực 1/3 theo chiều ngang và chiều dọc quan trọng
thì các tâm điểm nơi chúng giao nhau cịn quan trọng hơn. Những giao
điểm này dành cho những chi tiết quan trọng trong khn hình. Ví dụ: đơi
mắt trên khn mặt.
Khn hình
16


Ở đây có hai quyết định. Đưa cái gì vào. Loại cái gì ra. Bạn có thể
loại bỏ những chi tiết làm mất tập trung hay giấu người xem một số thông
tin để rồi sẽ tiết lộ trong những cảnh tiếp theo.
Trung tâm màn hình là khu vực ổn định và hiệu quả khi muốn nhấn
mạnh một đối tượng đơn lẻ (như một phát thanh viên trong một cảnh đơn
giản). Nhưng khi có những điểm nhấn khác trong khn hình thì trung tâm
màn hình là khu vực yếu, ít duy trì được sự tập trung của người xem.
Các mép màn hình thì giống như những nam châm. Chúng hút
những vật đặt q gần chúng. Các góc của màn hình có xu hướng hút chủ
thể ra khỏi khn hình.
Hãy tránh để mép khn hình cắt ngang các khớp tự nhiên của cơ thể
người như cắt ngang khuỷu tay, ngang thắt lưng hay ngang đầu gối.
Khơng gian thở của hình (Headroom - khoảng cách phía trên đầu đến
mép màn hình).
Khơng nên để hình một người đầy chặt tới đỉnh của khn hình.

Khoảng cách q ít làm cho hình ảnh bị gị bó và chật hẹp.
Nếu khoảng cách này lớn khn hình sẽ mất cân đối và nặng đáy.
Không gian thở sẽ thay đổi theo cỡ cảnh. Tồn cảnh (LS) cần nhiều
khơng gian hơn trung cảnh (MS), và tiếp đó, trung cảnh (MS) lại nhiều hơn
trung cận hẹp (MCU).
(Khoảng cách này khoảng 1/10đến 1/8 chiều dọc khn hình. (ghi
chép tại lớp học kỹ thuật truyền hình - Reuters, Hà nội, 19-23/11/2001.
Người dịch). Một ngoại lệ duy nhất trong luật "không gian thở của hình" là
cận đặc tả BCU; với cỡ cảnh này mặt người đầy màn hình, mép hình cắt
qua trán và có thể qua cằm.
Khơng gian "nhìn" (Looking room)
Người ta thường nhìn sang phải hay trái của khn hình trừ phi nhìn
thẳng vào máy quay. Họ muốn nhìn về phía nào thì cần có một khoảng

17


khơng gian để nhìn vào đó. Đây gọi là "khơng gian nhìn". Ở đây phần màn
hình trước mặt họ phải lớn hơn phía đằng sau họ.
Nếu mũi một người sát mép hình, hay gần q sẽ làm cho cảnh quay
gị bó. Hình người càng nghiêng (profile) thì khoảng nhìn phải càng lớn để
duy trì sự cân bằng.
Cũng tương tự như vậy đối với một người đi bộ, cưỡi ngựa hay lái xe
trong cảnh.
Cân bằng
Sự cân bằng xoay quanh trung tâm hình ảnh. Những hình ảnh đẹp
thường có sự cân bằng trong khn hình. ( Nhưng khơng nhất thiết phải
ngay hàng thẳng lối hay đối xứng vì hình đối xứng thì tĩnh và buồn tẻ). Một
vật hay một tông màu (bức tường xám, bóng nặng nề) ở một bên của
khn hình cần được cân bằng bởi một tông màu tương xứng ở phía đối

diện của khn hình. Sự cân bằng này được tạo bởi một vật lớn hay nhiều
vật nhỏ hợp lại.
Hãy ghi nhớ tông màu tối trông nặng nề (phải nhỏ hơn) tơng màu
sáng. Vì vậy một vùng tối nhỏ có thể dùng để cân bằng một vùng sáng lớn
hơn. Tơng màu tối ở đáy khn hình tạo sự ổn định. Ở đỉnh khn hình,
chúng tạo hiệu quả của một khơng gian đóng kín và ngột ngạt.
Chuyển động trên màn hình
Chuyển động vào gần hay ra xa máy quay thì mạnh hơn chuyển động
ngang. Đối với chuyển động ngang phải lấy khn hình cẩn thận, chừa đủ
khơng gian nhìn hay không gian thở cho hành động khác (đi, cưỡi ngựa hay
lái xe).
Ánh sáng (một vài thuật ngữ chủ yếu)
Ánh sáng chủ: nguồn sáng chính chiếu vào chủ thể.
Ánh sáng chung: nguồn sáng tản để giảm bóng hay sự tương phản tạo ra
bởi ánh sáng chủ.
18


Ánh sáng ngược: nguồn sáng chiếu phía sau hay một bên của chủ thể giúp
tách đầu, tóc hay vai khỏi phông (tạo khối cho chủ thể).
Ánh sáng phông: nguồn sáng chiếu để nhận biết một vùng trên phông.
Phương pháp ghi hình
Nắm được phương pháp ghi hình giúp bạn chớp đúng thời điểm thích hợp
nhất. Nếu bạn khơng muốn bị gị bó hãy sử dụng cách quay tường thuật
(Verité) hơn là quay theo sự sắp xếp các trường đoạn cảnh. Quay theo
trường đoạn cảnh buộc bạn làm việc theo một trình tự nhất định và giảm
thiểu sự hứng trí.
Quay theo trường đoạn (Sequences)
Loạt các cảnh quay khác nhau khi dựng cho ấn tượng về hành động.
Duy trì sự liên tục.

Rút ngắn thời gian.
Kể chuyện.
Trơng có vẻ dàn dựng.
Dễ thêm lời bình.
Có thể kiểm sốt được - an tồn.
Bạn biết bạn muốn gì.
Quay theo trình tự dựng (Montage)
Loạt các cảnh chộp hình (snapshots).
Khơng có sự liên tục giữa các cảnh.
Tạo tiết tấu.
Hữu hiệu với hành động/phản ứng.
Đòi hỏi người xem tập trung hơn - hình ảnh phải mang nhiều thơng tin hơn.
Ít cần tới lời bình. Có thể kiểm sốt nhưng mất nhiều thời gian.
Quay tường thuật (Verité)
Sự kiện diễn ra đúng như trong thực tế cả về mặt thời gian và không gian.
Dựng tối thiểu.
Ấn tượng mạnh.
19



×