Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận tn quyền lực chính trị và những biến đổi quyền lực chính trị ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.85 KB, 26 trang )

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
Chủ đề: Quyền lực chính trị và những
biến đổi quyền lực chính trị ở Việt Nam
hiện nay

TIỂU LUẬN
TỐT NGHIỆP

Khoa: Nhà nước và Pháp luật
Lớp, trường: Hoàn chỉnh chương trình cao
cấp Lý luận chính trị/Trường Qn sự
Khố:11

NGUYỄN VĂN THỤ
Ngày sinh: 04/02/1978
Lớp, trường: Hồn chỉnh

Ngày nộp: 24/8/2022.

chương trình

Người chấm

Số phách

(Ký ghi rõ họ tên)

(Do Ban khảo thí ghi)

Điểm
Bằng số



Họ và tên:

CCLLCT/Trường Quân sự
Khoá:11
Ngày nộp: 24/8/2022.

Số phách
Bằng chữ


MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

I.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN LỰC
CHÍNH TRỊ

Khái lược về quyền lực và quyền lực chính trị

1.

NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA QUYỀN LỰC CHÍNH

II.


1
1
9

TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Tổ chức và cơ chế thực thi quyền lực chính trị ở

1.

9

Việt Nam
Những biến đổi của quyền lực chính trị và việc

2.

12

thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN

17

LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM BẢN THÂN

19

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


21


MỞ ĐẦU

Giai cấp và đấu tranh giai cấp luôn tồn tại cùng với sự nghiệp cách
mạng của mỗi quốc gia trên thế giới. Ở nước ta hiện nay và trong suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại của các giai cấp và đấu tranh giai cấp
vẫn là một tất yếu. Cuộc đấu tranh đó có lúc, có mặt cịn gay go, quyết liệt
hơn so với những thời kỳ trước đây, vì vậy chúng ta cần nhận thức rõ tính
chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp.
Trong xã hội hiện đại, chính trị nói chung, quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước nói riêng, về bản chất và khía cạnh chính trị của vấn đề vẫn
mang tính giai cấp, do lợi ích của giai cấp, tầng lớp cầm quyền chi phối,
nhưng những biểu hiện và ở khía cạnh kỹ thuật của vấn đề thì đã có những xu
hướng thay đổi mạnh mẽ do những phát triển mới của thế giới (như cuộc cách
mạng khoa học - cơng nghệ hiện đại, tồn cầu hóa và kinh tế tri thức, v.v.)
mang lại.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang làm thay đổi căn
bản tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, trực tiếp đưa đến những biến
đổi về kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng, lối sống và cả chính trị, nhà nước,....
Sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện đại diễn ra với tốc độ rất nhanh
và quy mô rất lớn, nhất là trong các lĩnh vực thông tin, sinh học, năng lượng
mới, vật liệu mới và tự động hóa,… Cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ
hiện đại như vậy đang có những ảnh hưởng ngày càng trực tiếp đến chính trị,
chính sách từ những vấn đề gốc rễ là quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước
và nó làm gia tăng sức mạnh, phạm vi và khả năng kiểm soát của quyền lực
phi truyền thống; làm thay đổi chức năng (chức năng giao tiếp và huy động
chính trị, v.v.) và cấu trúc (tạo ra sự phân tán quyền lực, v.v.) của các thể chế
quyền lực; làm thay đổi các chức năng của Nhà nước (chức năng điều tiết và

cung ứng dịch vụ công, v.v.); làm thay đổi phương thức và hình thức vận
hành quyền lực (từ cưỡng ép là chủ yếu sang thuyết phục là chủ yếu và xuất
hiện hình thức “chính phủ điện tử”).


Hơn nữa, sự phát triển khoa học - công nghệ hiện đại đã tạo ra những
phát triển mới về phương pháp luận nghiên cứu và triển khai của khoa học xã
hội, tạo ra những cuộc cách mạng về thể chế, về chức năng của các thể chế
chính trị, nhất là thể chế nhà nước.
Tồn cầu hóa cũng đang ảnh hưởng đến quyền lực chính trị, quyền lực
nhà nước thơng qua các thể chế chính trị, nhà nước, thể hiện ở chỗ: làm thay
đổi cách tiếp cận và quan niệm về độc lập và chủ quyền của nhà nước quốc
gia; làm thay đổi mơ hình tổ chức và hoạt động, chức năng và nhiệm vụ của
nhà nước, cơ cấu và chủ thể của quyền lực nhà nước, đa dạng hóa các chủ thể
thực thi quyền lực nhà nước; làm xuất hiện các chủ thể quyền lực mới là giới
kinh doanh và xã hội dân sự, sự cạnh tranh giữa các chủ thể quyền lực cũ và
mới ngày càng rõ rệt; làm thay đổi việc phân bố quyền lực quốc tế, đa dạng
hoá chủ thể thực thi các cơ cấu quyền lực quốc tế; tạo cơ hội cho các tổ chức
quốc tế, tổ chức xã hội và tập đoàn xuyên quốc gia tham gia thực thi quyền
lực.
Ở nước ta hiện nay, cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước
mặc dù đã được thiết lập, nhưng chưa thể hiện được đầy đủ tinh thần được ghi
nhận trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng như trong Hiến pháp năm 2013
là có sự “kiểm sốt lẫn nhau giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”; tính hiệu lực, hiệu quả của nó trong thực tiễn vẫn
cịn khơng ít hạn chế, dẫn đến những hiện tượng tha hóa quyền lực, tham
nhũng… vẫn diễn ra. Do đó, việc tiếp tục xây dựng, hồn thiện các cơ chế
kiểm sốt quyền lực nhà nước đang đặt ra cấp thiết.
Với ý nghĩa trên, tôi chọn chủ đề: “Quyền lực chính trị và những biến

đổi quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay” làm nội dung viết bài tiểu luận
tốt nghiệp. Bài tiểu luận gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.


1
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ

1. Khái lược về quyền lực và quyền lực chính trị
1.1. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của quyền lực
a) Khái niệm
Quyền lực là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong nghiên
cứu về chính trị, đồng thời khái niệm này cũng rất phức tạp, gây nhiều tranh
luận giữa các nhà nghiên cứu, do các cách hiểu khác nhau.
Robert Dahl cho rằng: A có quyền lực đối với B khi ơng ta (hoặc bà ta)
có thể buộc B làm điều mà B lẽ ra không làm.
Theo Steven Lukes: A thực thi quyền lực đối với B khi A tác động đến B
theo cách trái ngược với lợi ích của B.
Còn theo Max Weber: Quyền lực là khả năng của một chủ thể buộc chủ
thể khác phải hành động theo ý muốn của mình, bất kể sự kháng cự.
Ở đây có những điểm khác biệt quan trọng: định nghĩa của Dahl coi A có
quyền lực nếu anh ta có thể thay đổi hành vi của B, trong khi Luke lại không
dựa trên bất kỳ sự tác động đến hành vi nào, mà chỉ dựa vào ảnh hưởng của A
đối với lợi ích của B. Cịn với Weber, quyền lực không nhằm tạo ra sự thay
đổi, mà là ngăn chặn hành vi của một chủ thể mà lẽ ra, nếu người nắm giữ
quyền lực không can thiệp, anh ta sẽ hành động theo một cách nào đó có thể
dẫn tới sự thay đổi.
Khơng có một định nghĩa được chấp nhận chung về quyền lực, nhưng ý
tưởng căn bản đó là: Quyền lực là năng lực của một chủ thể, buộc chủ thể
khác phải hành động theo ý chí của mì nh, bất kể sự kháng cự. Tức là chủ thể

2
A có thể bắt buộc chủ thể B làm điều C1.
b) Các đặc trưng cơ bản của quyền lực
1

Xem: Viện Chính trị học (2014), Lý luận về quyền lực chính trị,Tập bài giảng dành cho chương trình Cao
học Chính trị học.


Dù cịn nhiều tranh luận, có thể nêu 4 đặc trưng cơ bản của quyền lực
như sau:
- Tính tương tác xã hội: Đặc trưng này hàm ý rằng quyền lực địi hỏi sự
tương tác của ít nhất 2 chủ thể, tức quyền lực là một quan hệ xã hội. Quyền
lực là một quá trình tương tác và quyền lực sẽ khơng tồn tại cho đến khi nó
được thể hiện thành các hành động tương tác của từ hai chủ thể trở lên. Cả
chủ thể chi phối và sự phản kháng của người bị chi phối đều có ý nghĩa quan
trọng trong việc quyết định quyền lực thực tế được thực hiện như thế nào.
- Tính mục đích: Có nhiều loại quan hệ xã hội, nhưng quyền lực là mối
quan hệ có tính mục đích, với nghĩa là sự tác động đến người khác ln có
chủ ý, cho dù kết quả có thể khác hoặc thậm chí ngược lại với chủ ý. Tính
mục đích giúp phân biệt quan hệ “quyền lực” (một chiều, có chủ đích, có hiệu
lực) với “sự ảnh hưởng” nói chung (hai chiều, khơng có chủ đích, khơng chắc
chắn về hiệu lực) dù chúng có thể có chung hình thức thể hiện.
- Tính cưỡng ép: Quan hệ quyền lực luôn dựa trên năng lực cưỡng ép
(thưởng-phạt) đi kèm, đủ lớn để vượt được sự chống đối.Đặc trưng này
thường được coi là căn bản vì nó phân biệt quyền lực với các quan hệ xã hội
có tính mục đích khác như “thuyết phục”, “lừa đảo”, “dụ dỗ” v.v.. Năng lực
cưỡng ép như vậy rất đa dạng, bao gồm cả sự thưởng phạt về vật chất và tinh
thần.
- Tính chính đáng: Tính cưỡng ép (kể cả bằng bạo lực) dù có lớn đến đâu

cũng chưa đảm bảo hồn tồn kết quả cuối cùng theo đúng mục đích vì phụ
thuộc vào sự chống đối của chủ thể bị chi phối. Và do vậy, quyền lực cũng
cần có tính chính đáng. Vấn đề trung tâm của tính chính đáng chính trị là quá
trình và phương thức thuyết phục bằng lý lẽ và lương tri. Sự biến chuyển của
các chế độ chính trị, của quyền lực có thể coi là sự thay đổi trong quan niệm
về tính chính đáng chính trị. Tính chính đáng bao gồm: Tính cơng ích, tính
hợp lệ trong cách thức đạt quyền lực và sử dụng quyền lực đúng mục đích và
hiệu quả. Ba yếu tố này tạo nên cấu trúc cho tính chính đáng của quyền lực,
trong đó có thể thấy chúng thuộc 3 phương diện khác nhau: giá trị, thủ tục, và


3

hiệu quả. Về ngun tắc, tính chính đáng có thể xuất phát, và dựa vào thậm
chí chỉ 1 trong 3 yếu tố này, tuy nhiên tính bền vững trong dài hạn lại đòi hỏi
sự đồng đều của cả 3 yếu tố, tức của tồn bộ cấu trúc đó.
1.2. Khái lược về quyền lực chính trị
a) Khái niệm và cơ sở xã hội của quyền lực chính trị
Khái niệm: Khi con người bắt đầu sống thành cộng đồng, quyền lực
công cộng1 xuất hiện. Đó là nhu cầu tất yếu, khách quan trong đời sống của
con người khi đã tập hợp thành xã hội - nhu cầu phối hợp hoạt động chung,
bảo về cộng đồng xã hội khỏi sự xâm hại từ bên ngoài và phân bổ các giá trị
bên trong cộng đồng. Ban đầu, cơ quan quyền lực công cộng gắn chặt với
cộng đồng, vừa trực tiếp sản xuất và vừa làm chức năng quản lý xã hội. Trong
loại hình tổ chức xã hội này quá trình thực thi quyền lực công cộng rất minh
bạch: cùng bàn bạc, cùng quyết định, cùng thực hiện và cùng chịu trách
nhiệm. Tuy nhiên, mô hình như vậy chỉ có thể tồn tại ở quy mô một thị tộc,
hay một cộng đồng nhỏ. Khi sản xuất phát triển hơn, khi quy mô dân cư tăng
lên, khi các mối tương tác nhiều hơn…cũng là lúc xuất hiện nhiều hơn các
hình thức liên kết cá nhân, liên kết các cộng đồng xã hội. Quyền lực công

cộng lúc này bao trùm toàn bộ xã hội trong một lãnh thổ quốc gia có chủ
quyền và được gọi là quyền lực công. Các cơ quan quyền lực công được trao
cho các quyền: quyết định (sau này gọi là quyền lập pháp), quyền thực thi các
quyết định (quyền hành pháp), quyền bảo vệ tính đúng đắn các quyết định xử phạt những ai vi phạm các quyết định công (quyền tư pháp)… Những
người được giao nhiêm vụ thực thi quyền lực cơng có quyền hạn nhất định và
được giao các phương tiện công để thực hiện quyền lực với những phương
tiện đặc quyền. Một đặc điểm của tổ chức quyền lực công là quyền lực được
thực thi thông qua một bộ máy có nhiều cơ quan quyền lực, nhiều cấp, tổ
chức bao trùm và rộng khắp toàn xã hội (bộ máy nhà nước). Nhà nước là một
1

Là loại quyền lực chung của bất kỳ cộng đồng xã hội nào


tổ chức quyền lực đặc biệt, nó vừa là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp
cầm quyền, thực hiện chức năng thống trị giai cấp, nhưng nó cũng là một tổ
chức quyền lực cơng của tồn xã hội, thực hiện chức năng công quyền.
Trong các nghiên cứu về chính trị, khái niệm quyền lực chính trị được
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tuỳ cách tiếp cận nghiên cứu.
Từ cách nhìn thể chế, có thể có một số cách định nghĩa như sau: Quyền
lực chính trị là quyền lực của của một giai cấp hay liên minh giai cấp nhằm
thực hiện sự thống trị chính trị; là năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp
phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình - chủ yếu thông qua đấu tranh
giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Từ cách nhìn hành vi, quyền lực chính trị là khả năng định hình, kiểm
sốt hành vi chính trị của người khác và lãnh đạo, chỉ dẫn họ theo hướng mà
cá nhân, nhóm, hoặc chủ thể nắm giữ quyền lực chính trị mong muốn. Quyền
lực chính trị là khả năng của một chủ thể chính trị (chẳng hạn một cá nhân,
một cơng dân, một nhóm lợi ích, một đảng phái, hoặc chính phủ...) tác động,
tạo ra sự thay đổi hành vi của các chủ thể chính trị khác.

Có thể đưa ra một định nghĩa về quyền lực chính trị như sau: Quyền
lực chính trị là năng lực của một chủ thể trong việc áp đặt mục tiêu chính trị
của mình đối với tồn xã hội.
Cần phân biệt ba loại quyền lực: Quyền lực công, quyền lực nhà nước,
quyền lực chính trị.
- Quyền lực cơng là quyền lực đại diện cho tất thảy mọi thành viên
trong xã hội, nảy sinh từ nhu cầu chung của cả cộng đồng xã hội (ý chí chung
của cộng đồng) để tạo ra và duy trì tính tổ chức và trật tự của xã hội.
- Quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền
được tổ chức thành nhà nước. Quyền lực nhà nước vừa là công cụ áp đặt
quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, vừa thực hiện ý chí và lợi ích chung
của tồn xã hội. Bất kỳ quyền lực nhà nước nào cũng mang tính chính trị,


cũng là quyền lực chính trị, nhưng khơng phải mọi quyền lực chính trị đều là
quyền lực nhà nước - nghĩa là có loại quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền (nắm quyền lực nhà nước) và quyền lực chính trị của giai cấp chưa cầm
quyền (chưa nắm quyền lực nhà nước). So với quyền lực chính trị thì quyền
lực nhà nước hẹp hơn về cấp độ chủ thể, phương pháp thực hiện, hình thức
thể hiện. Quyền lực chính trị khơng chỉ là quyền lực nhà nước, mà cịn bao
gồm các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng chính trị như quyền lực của
đảng cầm quyền, của các tổ chức chính trị nhân dân phi nhà nước...
- Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp (hay liên minh giai
cấp), của một lực lượng xã hội.Bản chất của quyền lực chính trị là quan hệ
sức mạnh giữa các giai cấp trong việc giành, giữ, thực thi quyền lực nhà nước,
hoặc gây áp lực đối với quyền lực nhà nước.
Cở sở xã hội của quyền lực chính trị: Bất kỳ hoạt động chung nào của
con người cũng địi hỏi có người tổ chức, người chỉ huy và người phục tùng.
Đây cũng là điểm xuất phát cũng như nội dung trung tâm của phạm trù quyền
lực. Quyền lực chính trị xuất hiện là một tất yếu. Tính tất yếu đó xuất phát từ

hoạt động sản xuất, phân cơng lao động xã hội. Từ nhu cầu phải phối hợp
trong sản xuất, xuất hiện sự cần thiết phải phục tùng qui trình sản xuất khách
quan, bất chấp tổ chức xã hội là như thế nào. Nói cách khác, quyền lực ra đời
từ nhu cầu cần tuân thủ kỷ luật lao động khách quan của q trình sản xuất.
Sự phân cơng sản xuất sẽ quyết định cách thức tổ chức quyền lực. Khi sự
phân công sản xuất thay đổi, phương thức tổ chức quyền lực chính trị cũng
thay đổi. Cách thức cấu trúc quyền lực chính trị thể hiện cấu trúc kinh tế xã
hội ẩn dưới.
Sự gắn bó con người thành xã hội là một khuynh hướng tự nhiên, và
cũng qua xã hội, bằng xã hội (không ở đâu khác) mà con người mưu cầu hạnh
phúc. Xã hội vận động, phát triển đến trình độ nhất định dẫn đến phân hóa


giai cấp và tất yếu xuất hiện nhà nước với sự tập trung quyền lực đủ lớn đảm
bảo sự trật tự trong hoạt động chung, trước hết là hoạt động kinh tế.
Như vậy, chức năng nền tảng của nhà nước chính là chức năng xã hội
của quyền lực cơng (vai trị cơng quyền). Trong xã hội có giai cấp, chức năng
đó bị lợi dùng và biến tướng để thực hiện chức năng giai cấp, đảm bảo sự
thống trị của giai cấp cầm quyền.
Trong các xã hội có giai cấp đối kháng trước đây, để giữ nhà nước
trong tay mình, giai cấp thống trị nào cũng buộc phải nhân danh xã hội quản
lý những cơng việc chung. Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề chung
của xã hội sẽ tạo điều kiện để duy trì xã hội trong vịng trật tự theo quan điểm
và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Như vậy, việc thực hiện chức năng xã hội
theo quan điểm và giới hạn của giai cấp cầm quyền là phương thức, là điều
kiện để nhà nước đó thực hiện vai trị thống trị giai cấp của nó. Thực hiện
chức năng quyền lực cơng là địa vị chính danh của nhà nước. Song về thực
chất, quyền lực cơng đó cũng bị một giai cấp hay một lực lượng xã hội nhất
định chi phối. Vì vậy, quyền lực chính trị của giai cấp thống trị ln có hai
chức năng: Chức năng chính trị (giai cấp) và cơng quyền (xã hội). Quyền lực

sẽ chuyển dần từ chức năng chính trị sang chức năng công quyền. Trong
tương lai, quyền lực sẽ mất đi tính chính trị, chỉ cịn tính chất quản lý (nhà
nước tiêu vong).
b) Các đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị
- Tính tất yếu khách quan: Quyền lực chính trị là tất yếukhách quan
trong q trình phát triển của xã hội. Khi con người sống thành cộng đồng,
quyền lực công cộng xuất hiện. Khi xã hội phân chia thành các giai cấp, xã
hội chính trị xuất hiện, quyền lực công được trao cho một giai cấp hoặc một
lực lượng xã hội nhất định nắm giữ. Giai cấp hay lực lượng xã hội đó thực
hiện sự quản lý xã hội thông qua bộ máy nhà nước và dựa trên hệ thơng luật
pháp. Q trình đó là một tất yếu khách quan để duy trì sự tồn tại của xã hội.


- Tính giai cấp: Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp trong việc
giành, giữ và thực thi quyền lực, cơ bản nhất là quyền lực nhà nước. Quyền
lực chính trị là quyền lực của một giai cấp để thực hiện lợi ích khách quan của
mình. Vì vậy, quyền lực chính trị ln mang tính giai cấp. Đặc trưng này khác
với quyền lực công là quyền lực đại diện cho tất thảy mọi thành viên xã hội, ở
cả những giai cấp, lực lượng xã hội khác nhau. Còn quyền lực nhà nước, về
hình thức bao giờ cũng thể hiện là quyền lực công nhưng về thực chất, quyền
lực nhà nước luôn bị nắm, bị chi phối bởi một giai cấp hay một lực lượng xã
hội nhất định (giai cấp thống trị).
- Quyền lực chính trị thống trị trong xã hội là quyền lực của giai cấp,
lực lượng xã hội giữ địa vị thống trị về kinh tế: Đặc trưng này phản ánh mục
tiêu thực chất của quyền lực chính trị là nhằm thiết lập, duy trì một trật tự bảo
vệ và phát triển các lợi ích mà căn bản và trước hết là lợi ích kinh tế cho giai
cấp, lực lượng xã hội nắm quyền. Do vậy, giành, giữ quyền lực chính trị ln
là mục tiêu trực tiếp, trọng yếu của giai cấp, lực lượng xã hôi thống trị về kinh
tế. Như vậy, giai cấp nào thống trị về kinh tế sớm muộn sẽ thống trị về chính
trị và nếu một giai cấp, lực lượng xã hội đã làm chủ về quyền lực chính trị mà

khơng xây dựng và giữ được địa vị chủ đạo về kinh tế thì sớm muộn cũng sẽ
khơng thể duy trì được quyền lực chính trị. Quyền lực kinh tế là cơ sở để đảm
bảo quyền lực về chính trị. Quyền lực về chính trị là điều kiện tiên quyết để
thực hiện quyền lực về kinh tế.
- Việc nắm giữ và thực thi quyền lực chính trị phải đảm bảo sự hài hịa
giữa lợi ích giai cấp với lợi ích chung của cộng đồng: Mục đích của giai cấp,
lực lượng xã hội nắm giữ quyền lực chính trị là sử dụng quyền lực để duy trì
và bảo vệ một trật tự xã hội có lợi cho giai cấp, lực lượng mình. Tuy nhiên,
việc thực thi quyền lực chính trị bao giờ cũng phải thơng qua hình thức quyền
lực cơng. Do đó, khi nắm giữ và thực thi quyền lực chính trị, lại cần đảm bảo
mức độ nhất định sự công bằng xã hội. Quyền lực chính trị là cơng cụ phục


vụ cho lợi ích của một giai cấp, một lực lượng xã hội nhất định, phải trên cơ
sở thực hiện chức năng cơng quyền, nó chỉ có thể tồn tại dưới hình thức là
quyền lực cơng. Một khi sự bất cơng vượt q một giới hạn nào đó sẽ dễ xuất
hiện sự bất bình trong các bộ phận thành viên của xã hội. Điều này cho thấy,
bất cứ giai cấp, lực lượng nào đang cầm quyền muốn duy trì, củng cố quyền
lực chính trị của mình khi thực hiện quyền lực công, quyền lực nhà nước cũng
luôn nhân danh là thực hiện công bằng xã hội và cũng phải thực hiện ở mức
độ nhất định công bằng xã hội.
- Quyền lực chính trị mang tính chính đáng: Quyền lực khơng bao giờ
là tuyệt đối, vì ln cần sự chấp nhận của đối tượng chịu sự chi phối. Cũng
như mọi loại quyền lực, sự chấp thuận của xã hội là yếu tố chính của việc
đảm bảo việc thực thi quyền lực chính trị. Trong thực tiễn hoạt động chính trị,
tính chính đáng càng cao càng cần ít chi phí cưỡng chế, và càng đạt hiệu quả
cao trong thực thi quyền lực. Từ quan điểm của người cầm quyền, tính chính
đáng cao cũng có nghĩa là mức độ tự nguyện cao trong sự tuân thủ, và thậm
chí, dẫn đến tính chủ động và tự giác trong thi hành các mệnh lệnh. Điều này
quy định tính hiệu lực và cả hiệu quả của thực thi quyền lực.

- Quyền lực chính trị phải được tập trung đủ mức và phải được kiểm
soát: Quyền lực chính trị là một loại hình quyền lực có quan hệ hai chiều:
quan hệ mệnh lệnh giữa chủ thể với đối tượng và quan hệ tuân phục giữa đối
tượng và chủ thể. Trong quan hệ đó, quyền lực chỉ thực sự là quyền lực khi
mệnh lệnh của chủ thể được đối tượng thi hành nhanh chóng và triệt để. Khi
quyền lực khơng được tập trung đủ mức thì chủ thể của nó hoặc khơng ra
được quyết định hoặc quyết định khơng có hiệu lực thi hành thì khi đó thực
chất chủ thể quyền lực đã mất quyền hoặc khơng có quyền lực trên thực
tế.Mặt khác, cùng với việc tập trung quyền lực thì cũng phải có cơ chế kiểm
sốt nó. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong tổ chức bộ máy quyền
lực nhà nước nhằm ngăn ngừa sự tha hóa của quyền lực.


9
II. NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

1. Tổ chức và cơ chế thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam
Ở Việt Nam, quyền lực được tổ chức về cơ bản khác với các nước
khác. Quyền lực chính trị được tập trung vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong đời sống chính trị đất nước, Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất cầm
quyền. Trong quan hệ Đảng - Chính phủ tại Việt Nam, có thể thấy nguyên tắc
song trùng trực thuộc cũng đã chi phối trong thời gian dài. Theo đó, nguyên
tắc “song trùng” nghĩa là tổ chức đảng cũng có các bộ phận như chính phủ.
Ngun tắc “trực thuộc” có nghĩa các ban chấp hành đảng bộ chỉ đạo trực tiếp
các cơ quan chính phủ cùng cấp. Chính quyền là cơ quan duy nhất có thẩm
quyền pháp lý điều hành, tuy nhiên lại chịu sự lãnh đạo của Ban chấp hành
đảng bộ, và cả sự điều hành của các chính quyền cấp trên (ngành dọc). Do
vậy, quyền lực bị phân tán với nghĩa là ra quyết định cần sự đồng thuận của
nhiều cơ quan.

Thể chế như vậy cho thấy có rất nhiều cơ quan, cá nhân tuy khơng có
quyền quyết định, nhưng lại có quyền phủ quyết trên thực tế. Ngồi ra cịn có
mâu thuẫn giữa cấp độ quyền lực và thẩm quyền pháp lý (mà bản chất là sự
ủy nhiệm của người dân) vẫn chưa được giải quyết: người có quyền quyết
định cao nhất lại không phải do người dân ủy quyền.
Về nguyên tắc, quyền lực chính trị được trao cho 3 chủ thể quan
trọng với cơ chế hoạt động: Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân
làm chủ (thơng qua các tổ chức chính trị - xã hội). Cơ chế này còn được
biết đến ở phương diện khác như là một cơ chế vận hành, nguyên tắc hoạt
động của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Nội dung của cơ chế được thể
hiện rất cụ thể ở trên cả bình diện lý luận và thực tiễn, có thể mô tả một
cách khái quát như sau:
Điều 4 Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ghi như
sau: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công
nhân,đồng


thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đảng lãnh đạo Nhà nước
bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách, chủ trương
lớn. Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng, chủ trương lớn này của Đảng
cần được sự đồng thuận của nhân dân. Nhân dân có quyền và nghĩa vụ tham
gia góp ý vào nội dung dự thảo các văn bản, văn kiện của Đảng trước khi ban
hành. Đảng lãnh đạo thông qua việc giới thiệu những đảng viên ưu tú của
mình để nhân dân lựa chọn bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Sự lãnh
đạo của Đảng chủ yếu phải thông qua Nhà nước chứ không phải lãnh đạo với
tư cách là một chủ thể độc lập đứng bên ngoài, hay đứng bên trên Nhà nước
bằng mệnh lệnh, quyền uy chỉ đạo cụ thể đối với các cơ quan nhà nước. Đảng

phải phát huy vai trò và trách nhiệm cá nhân của từng đảng viên ưu tú của
Đảng, được nhân dân tín nhiệm bầu, nhân dân chính thức giao quyền. Đảng
lãnh đạo nhân dân bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục và chứng
minh cho nhân dân thấy tính đúng đắn và tính khoa học trong đường lối,
quyết sách của mình. Đảng lãnh đạo nhân dân thông qua hành động gương
mẫu của đảng viên.
Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt
động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp
luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ’ (Điều 8).
Như vậy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ thể
chính trị chính yếu trong thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam. Nhà
nước thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành chính sách,
pháp luật; trực tiếp thực thi quyền lực chính trị thơng qua hệ thống chính
sách, pháp luật của mình.
Để có thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình, Nhà nước
phải được tổ chức thành các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo


đảm việc thực thi quyền lực được phân công và phối hợp thực hiện một cách
khoa học, chặt chẽ, hiệu quả. Nguyên tắc ở đây là Nhà nước sinh ra để phục
vụ nhân dân. Trong một xã hội dân chủ thì Nhà nước phải là người bảo vệ
quyền cơng dân, quyền con người. Mức độ dân chủ của một xã hội có thể
được đo lường bằng số lượng những quyền cơng dân, quyền con người mà
một cơng dân bình thường có thể thực hiện được trên thực tế.
Nhân dân làm chủ là yếu tố trung tâm của mối quan hệ giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, bởi vì mọi hoạt động của Đảng và
Nhà nước đều từ nhân dân và vì nhân dân.Người dân khơng chỉ thực hiện
quyền làm chủ của mình thơng qua các đại biểu do mình bầu ra, mà họ cịn tự
mình thực hiện những quyền đó. Người dân cịn tự thành lập ra các tổ chức,
các hội đoàn theo quy định của pháp luật để thỏa mãn những nhu cầu chính

đáng của mình. Cũng thơng qua các tổ chức của mình, người dân sẽ thực hiện
quyền giám sát đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, xem bộ máy đó có
thực hiện đúng những “cam kết” đã thỏa thuận với nhân dân hay không. Như
vậy, điều cần nhấn mạnh ở đây là, người dân thực hiện quyền làm chủ của
mình không chỉ thông qua bộ máy nhà nước, mà họ cịn tự mình thực hiện
quyền ấy trên cơ sở các tiêu chí, yêu cầu mà luật pháp đã quy định.
Nhưng cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ” chỉ có thể vận hành và đưa lại kết quả thiết thực khi các quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước, Nhân dân được phân định rành mạch về quyền và trách
nhiệm của mỗi chủ thể thông qua một hệ thống thể chế và quy chế. Về
nguyên tắc, quyền hạn phải ln gắn với trách nhiệm cùng với nó là các
biện pháp kiểm soát quyền hạn.
Trong bối cảnh hiện nay, có sự chia sẻ các chức năng quyền lực giữa 3
chủ thể này. Sự tham gia của người dân thông qua các tổ chức xã hội ngày
càng có tác động mạnh mẽ đến các quyết định chính trị quan trọng của đất
nước. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm
sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư


pháp. Đây là nguyên tắc cơ bản chi phối việc thiết kế mơ hình tổ chức
quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay. Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn phải
dẫn dắt, nhưng không phải với tư cách một sự áp đặt quyền lực từ bên
ngồi. Thay vào đó, Đảng phải là và phải hành động như một cơ chế hữu
cơ để mang tính tiền phong.
2. Những biến đổi của quyền lực chính trị và việc thực thi quyền
lực chính trị ở Việt Nam hiện nay
2.1. Sự phân tán quyền lực chính trị
Quyền lực chính trị ở Việt Nam cũng có một số biến đổi trong xã hội
hiện đại, mà một trong những biểu hiện quan trọng là sự phân tán quyền lực.

Trong mối quan hệ với các quốc gia khác, Việt Nam cũng chịu sự ảnh
hưởng của các quốc gia và các thể chế toàn cầu trong việc thực thi quyền lực
chính trị. Để có thể trở thành thành viên của thể chế quốc tế, Việt Nam phải
thay đổi các quy định, luật lệ trong nước, tạo hành lang pháp lý theo những
cam kết chung và phù hợp với pháp luật, chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Thông qua việc trao một phần quyền lực cho các thể chế quốc tế, các thể chế
này có quyền ban hành và thực thi luật về những vấn đề nhất định và làm suy
giảm quyền tự trị pháp lý của nhà nước quốc gia và có thể sử dụng lực
lượng và quyền lực được trao bởi nhà nước thành viên để đạt mục tiêu của
mình. Vì vậy, bản thân nhà nước cũng bị áp lực phải thay đổi cách thức tổ
chức, quản lý, điều hành đối với các lĩnh vực và quá trình ra quyết định của
nhà nước cũng khơng thể bó hẹp và khép kín trong nhóm các nhà lãnh đạo
như trước đây, mà có sự tham gia của nhiều chủ thể, nhiều yếu tố khác
nhau trong và ngoài nước.
Ở trong nước, về cơ bản, cách thức tổ chức theo nguyên tắc “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là không thay đổi. Tuy nhiên, cách
thức lãnh đạo của Đảng, cách thức tổ chức nhà nước, và cách thức phát huy
quyền làm chủ của nhân dân đã có nhiều phát triển mới. Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đi đến nhận thức về việc phát huy các hình thức dân chủ gián tiếp
(đại


13
diện) cần đi đôi với dân chủ trực tiếp, việc nâng cao tính chuyên trách của đại
biểu quốc hội và mở rộng dân chủ ở cơ sở được coi là hai bước đi quan trọng
theo hướng này. Nhận thức này đã được thể chế hóa bằng các nghị quyết của
Đảng cũng như của Chính phủ, để cụ thể hóa phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát”. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng phát
huy tính tích cực và hồn thiện các tổ chức quần chúng, trong đó nhấn mạnh
chức năng phản biện và giám sát trên tinh thần xây dựng của các tổ chức quan

trọng như Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội khác. (Nghị
quyết Trung ương 8, khóa 6, Nghị quyết 7 của Bộ Chính trị, khóa 7, Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam).
2.2. Cơ sở tri thức của quyền lực chính trị
Trong mỗi xã hội khác nhau, ở các thời kỳ khác nhau, cách thức đạt
quyền lực được chấp nhận cũng khác nhau. Cho đến nay có thể thấy có những
cách cơ bản như: truyền hiền (ai là người được coi là xứng đáng nhất, có tài
nhất hoặc giàu kinh nghiệm nhất, bao gồm cả việc lập già làng sẽ được người
đi trước trao lại quyền lực), thế tập (như cha truyền con nối), thi tuyển (như
thi tuyển công chức) và cử tuyển (như các cuộc bầu cử quan chức). Vấn đề
đặt ra với tính chính đáng, như đã nói, là sự chấp nhận rộng rãi của người dân,
cho dù phương pháp cụ thể có thể khơng phải là phương pháp hiệu quả nhất.
Trong xã hội dân chủ hiện đại, cách thức phổ biến nắm quyền lực nhà nước là
do bầu cử, hoặc do các cách thức uỷ nhiệm tự nguyện, minh bạch khác.
2.3. Tính pháp chế của quyền lực chính trị
Cũng như ở nhiều quốc gia khác trên thế giới, tính pháp chế của quyền
lực chính trị ở Việt Nam cũng ngày càng cao. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội nhấn mạnh tính pháp
chế trong tổ chức và thực thi quyền lực chính trị của mình.
Nhận thức về sự cần thiết phải thể chế hóa các quyền cũng như các
hình thức tham gia của nhân dân. Điều này thể hiện trong các chủ trương về
phát triển nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Đây là phát


triển quan trọng trong hơn30 năm đổi mới xuất phát từ thực tiễn chính trị
cũng như sự kế thừa các thành tựu nghiên cứu của thế giới. Theo đó, Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định tính tối cao của pháp luật, thực chất chính là
thể chế hóa quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhận
thức này được thể hiện qua nhiều chương trình nghị sự và hoạt động của
Đảng và Quốc hội. Công việc cụ thể không chỉ là việc ban hành đủ, đồng bộ,

và kịp thời các bộ luật và văn bản dưới luật mà bao gổm cả việc chuẩn bị tinh
thần pháp luật, năng lực và kiến thức pháp luật v.v. cho cả đảng viên và tòan
bộ xã hội, tức biến khẩu hiệu “Sống và làm việc theo pháp luật” thành một nét
của văn hóa cơng dân.
2.4. Vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị
Việc kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam bắt nguồn từ nguồn gốc
và bản chất của quyền lực chính trị. Đây là nhu cầu khách quan từ phía người
ủy quyền là nhân dân đối với người được ủy quyền. Việc kiểm soát quyền lực
trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam còn bắt nguồn từ đặc
trưng Nhà nước ta do một Đảng duy nhất lãnh đạo.
Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, xã hội
càng trở nên hiện đại, tổ chức quyền lực nhà nước lại càng phải có sự phân
cơng, phối hợp và kiểm sốt. Đây là một yêu cầu khách quan do sự phân công
lao động xã hội, do tính chun nghiệp hóa của hoạt động quyền lực.
Với những đặc điểm và những biến đổi của quyền lực chính trị trong xã
hội hiện đại, cách thức kiểm soát quyền lực cũng phải thay đổi: cách thức
kiểm soát bên trong là khơng đủ mà cần có sự kết hợp các hình thức kiểm sốt
khác nhau.
- Cơ chế kiểm soát bên trong hệ thống nhà nước, thực hiện dựa trên sự
phân công quyền lực trong nội bộ bộ máy nhà nước. Kiểm soát quyền lực bên
trong tổ chức quyền lực nhà nước (giữa các thành tố cấu thành quyền lực nhà
nước: giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp và giữa quyền lực nhà nước ở
trung ương và địa phương). Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.


15

- Cơ chế kiểm sốt bên ngồi hệ thống nhà nước là q trình nhân dân
kiểm sốt quyền lực nhà nước dựa trên mối liên hệ giữa nhân dân (chủ thể của

quyền lực nhà nước) và nhà nước (chủ thể nhận ủy quyền, thực hiện quyền
lực nhà nước). Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa nhân dân - chủ thể tối cao
và duy nhất của quyền lực nhà nước, đối với Nhà nước - chủ thể quản lý.
- Ngoài ra, cịn cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước bởi đảng chính
trị cầm quyền (kiểm sốt quyền lực dựa trên quan hệ lãnh đạo - quản lý).
Xuất phát từ bản chất của hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt
động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ
nên kiểm soát quyền lực nhà nước là kiểm soát quyền lực nhà nước giữa
Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước quản lý. Đây là đặc điểm thể hiện mối
quan hệ tất yếu lịch sử và khách quan ở nước ta.
Trong việc kiểm sốt quyền lực ở Việt Nam, có thể thấy một số chuyển
biến, thể hiện ở một số nội dung:
- Quyền lực là thống nhất nhưng có sự phân cơng và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước một cách hợp lý.
- Nhận thức mới về sự cần thiết của phân cơng, phối hợp cũng dẫn đến
việc nhìn nhận mức độ quan trọng hàng đầu của 3 sự phân công và phân quyền
cơ bản sau: phân biệt chức năng lãnh đạo (của Đảng) với quản lý (của Nhà
nước), phân biệt các chức năng lập pháp, hành pháp, và tư pháp trong tổ chức
nhà nước, đồng thời tách chức năng quản lý nhà nước khỏi chức năng kinh
doanh; phân biệt chức năng của chính quyền trung ương với chính quyền địa
phương.
- Nhận thức về sự cần thiết của chế độ trách nhiệm, cơ chế giám sát và
phản biện, cả bên trong (Đảng và nhà nước) và bên ngoài (của nhân dân và
các tổ chức xã hội).
Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay vẫn còn
nhiều hạn chế cả về lý luận và thực tiễn. Chúng ta không thiếu cơ chế kiểm
sốt quyền lực1 mà chính là cơ chế kiểm soát quyền lực được xây dựng và
1

Hiện nay, các hoạt động kiểm soát quyền lực của nước ta gồm có: giám sát của các cơ quan dân cử (Quốc hội và HĐND



16
thực thi cịn hình thức và kém hiệu quả. Hoạt động giám sát của các cơ quan
dân cử còn mờ nhạt, sức ảnh hưởng đối với các chủ thể bị giám sát không lớn.
Hiệu lực sau giám sát chưa cao, chế tài chưa đủ mạnh. Vai trò của Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong việc giám sát, phản biện chưa thực
sự được coi trọng đúng mức, tiếng nói của các tổ chức này có sự ảnh hưởng
không lớn, không đủ khả năng bảo vệ các lợi ích hợp pháp của các thành viên
mà nó đại diện. Các phương tiện thơng tin đại chúng cịn gặp nhiều khó khăn
trong hoạt động giám sát, quyền tiếp cận thơng tin còn bị hạn chế; các thiết
chế làm chủ của nhân dân cịn hình thức, chung chung và khó thực hiện.
Trên thực tế, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta phản ứng
rất chậm với những hành vi tiêu cực của các cơ quan và công chức nhà
nước.Một xã hội dân chủ cần sự kiềm chế và cân bằng quyền lực để ngăn
chặn sự lạm quyền. Việt Nam cần cân nhắc kiểm sốt quyền lực thơng qua
các tổ chức xã hội để nâng cao chất lượng và hiệu quả giám sát quyền lực
chính trị.

các cấp); hoạt động thanh tra Chính phủ; hoạt động kiểm tốn nhà nước; hoạt động kiểm tra của Đảng; giám sát, phản
biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội; hoạt động giám sát của các phương tiện truyền thông đại
chúng; hoạt động Thanh tra nhân dân; hoạt động khiếu nại, tố cáo của công dân.



×