Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận tn các kinh nghiệm từ quá trình đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.47 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
Chủ đề: Các kinh nghiệm từ quá trình

TIỂU LUẬN
TỐT NGHIỆP

Đảng lãnh đạo cơng cuộc đổi mới đất nước
Khoa: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lớp, trƣờng:Hoàn chỉnh chương trình
cao cấp Lý luận chính trị/

Họ và tên:
HỒ VĂN PHƯỚC
Ngày sinh: 21/8/1980
Lớp, trƣờng: Hồn chỉnh chương

Khố:11

trình CCLLCT

Ngày nộp:24/8/2022.

Khố:11
Ngày nộp:24/8/2022.

Ngƣời chấm

Số phách

(Ký ghi rõ họ tên)


(Do Ban khảo thí ghi)

Điểm
Bằng số

Số phách
Bằng chữ


MỤC LỤC

I

MỞ ĐẦU

Trang

NỘI DUNG

1

ĐỔI MỚI ĐẤT NƢỚC-YÊU CẦU TẤT YẾU KHÁCH QUAN

1

1 Bối cảnh lịch sử đất nước đặt ra yêu cầu đổi mới

1

2 Những khảo nghiệm của Đảng trước đổi mới đất nước tháng 12/1986


1

3 Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) đã chính thức
khởi xướng công cuộc đổi mới

3

II NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐƢỜNG LỐI ĐỔI MỚI DO ĐẠI HỘI
ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI CỦA ĐẢNG XÁC ĐỊNH

4

1 Cơ sở hoạch định đường lối đổi mới tại Đại hội VI của Đảng
(12/1986)

4

2 Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng
(12/1986) xác định

4

III KINH NGHIỆM, Ý NGHĨA LỊCH SỬ, THỰC TIỄN CỦA QUÁ
TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƢỚC

6

1 Bài học về vai trị lãnh đạo của Đảng và cơng tác xây dựng Đảng


6

2 Bài học “Lấy dân là gốc”, đổi mới dựa vào nhân dân, vì lợi ích của
nhân dân

10

3 Bài học tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan

11

4 Bài học về giữ vững các nguyên tắc trong quá trình đổi mới

13

5 Bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

15

KẾT LUẬN

17

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

20


MỞ ĐẦU


Sự nghiệp cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là từ khi
nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Trong q trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam ln nỗ lực tìm tịi, đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi thời kỳ
một cách phù hợp, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình
đấu tranh cách mạng, với sự kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam ln nhất quán khẳng
định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng, là khát vọng của cả dân tộc
Việt Nam, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường
tất yếu của cách mạng Việt Nam vì độc lập của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân
dân.
Hơn 90 năm qua, phát huy bản lĩnh, trí tuệ của mình, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo quần chúng nhân dân kiên cường vượt qua những chặng đường
đấu tranh với mn vàn khó khăn, đầy gian khổ, hy sinh, để thực hiện sứ mệnh
lịch sử chưa hề có tiền lệ. Nhìn lại hơn 35 năm qua cơng cuộc đổi mới đã thật sự
gắn bó với vận mệnh dân tộc, vận mệnh đất nước, gắn bó với mỗi người Việt Nam
và được bạn bè quốc tế hết sức quan tâm. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam hướng vào khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, dân tộc hùng cường, nhân dân ấm no, hạnh phúc; đề ra
mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu
nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự thể hiện tầm nhìn của Đảng
thống nhất với khát vọng của nhân dân; là động lực to lớn phát huy mạnh mẽ tinh
thần yêu nước, ý chí tự cường, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, để
Việt Nam lập nên kỳ tích phát triển mới, cùng tiến bước, sánh vai với các cường
quốc năm châu.
Trước yêu cầu mới của sự phát triển đất nước, trên cơ sở tổng kết thực tiễn
sáng tạo của quần chúng nhân dân, phân tích và dự báo đúng tình hình thế giới và
xu thế thời đại, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước đổi mới tư duy lý luận về



chủ nghĩa xã hội và đề ra đường lối đổi mới, đánh dấu bước chuyển to lớn, có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sự nghiệp đổi mới là sự lựa chọn mang tính lịch sử, là q trình thay đổi sâu sắc,
toàn diện về nhận thức, tư duy lý luận, về chủ trương, đường lối xây dựng, phát
triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, đã thật sự trở thành sản phẩm sáng tạo vĩ đại của
Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, mang lại những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử, để đất nước Việt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
quốc tế như ngày nay. Do đó, việc nghiên cứu về “Các kinh nghiệm từ quá trình
Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc, nên tôi chọn đề tài này để làm bài viết tiểu luận tốt nghiệp.


1
NỘI DUNG
I. ĐỔI MỚI ĐẤT NƢỚC – YÊU CẦU TẤT YẾU KHÁCH QUAN

1. Bối cảnh lịch sử đất nƣớc đặt ra yêu cầu đổi mới
Ðổi mới để phát triển, song phải là phát triển trong thế ổn định, theo đúng
định hướng, con đường mà chúng ta đã chọn. Ðổi mới để thực hiện bước chuyển
từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường do Nhà nước quản
lý, điều hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng thả nổi thị
trường; phát triển kinh tế nhưng phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, khắc
phục tình trạng phân hóa giàu nghèo. Ðổi mới yêu cầu gắn với mở cửa, hội nhập,
với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để đất nước phát triển nhanh, bền
vững; xây dựng, tăng cường lực lượng sản xuất, củng cố và phát triển quan hệ sản
xuất phù hợp, từ đó nâng tầm đất nước lên trình độ mới, tầm cao mới.
Nhìn một cách tổng quát, với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế
Việt Nam vận động thiếu năng động và kém hiệu quả, mất cân đối và nguy cơ bất
ổn định tiềm tàng trong đời sống kinh tế - xã hội bị tích nén lại; tình trạng thiếu
hụt kinh niên làm gia tăng các căng thẳng trong đời sống xã hội; lòng tin của quần

chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút. Trên
thực tế, đến cuối những năm 70, đất nước đã thực sự lâm vào cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội. Vấn đề cấp bách đặt ra cho Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt
Nam lúc này là tìm kiếm cách thức phát triển mới có khả năng đáp ứng các mục
tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó quan trọng nhất là phải
tháo gỡ các ràng buộc về cơ chế và thể chế để giải phóng các nguồn lực phát triển
của đất nước.
2. Những khảo nghiệm của Đảng trƣớc đổi mới đất nƣớc tháng 12/1986
Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư: Ban Bí thư ban
hành Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/01/1981 khoán sản phẩm tới nhóm và người
lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp, gọi tắt là Chỉ thị 100. Nội dung Chỉ
thị: Mở rộng khốn sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã
nông nghiệp đối với các loại cây trồng, chăn nuôi, ngành nghề khác trong các hợp


tác xã. u cầu khơng được khốn trắng, do đó đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh
tế trong nông nghiệp tăng đáng kể. Việc ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày
13/1/1981, về cải tiến cơng tác khốn, mở rộng “khốn sản phẩm cuối cùng đến
nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp là bước đột phá
đầu tiên về đổi mới cơ chế quản lý, kế hoạch hóa và hạch tốn kinh tế trong nơng
nghiệp, chuẩn bị cho các bước tiếp theo để hình thành hệ thống quản lý nông
nghiệp mới, làm biến đổi sâu sắc sản xuất nông nghiệp.
Từ Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đến Nghị quyết
số 10 của Bộ Chính trị là một q trình đấu tranh vô cùng gian nan, quyết liệt giữa
tư tưởng bảo thủ trì trệ, giáo điều với tư duy đổi mới sáng tạo; trên chặng đường đi
đến thành công gặp phải không biết bao nhiêu lực cản nhưng ý chí và sức mạnh
của tư tưởng đổi mới đã thắng lợi. Có thể nói Chỉ thị 100 đã tạo nên thành cơng
cho q trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp, là tiền để tạo niềm
tin, động lực cho tiến trình đổi mới thành cơng cơ chế quản lý kinh tế đất nước sau
này.

Quyết định số 25-CP, ngày 21/01/1981 của Hội đồng Chính phủ: Ngày
21/01/1981 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 25-CP về sản xuất công nghiệp.
Chủ trương, cho phép các xí nghiệp chủ động sản xuất, kinh doanh và tự chủ về tài
chính; cho phép các xí nghiệp thực hiện kế hoạch ba phần; cho mở rộng hình thức
trả lương khốn, lương sản phẩm và tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh
doanh. Tuy nhiên, kết quả của xu hướng cải cách này còn bị hạn chế do việc thực
hiện những cải cách theo hướng thị trường mới mang tính cục bộ và chỉ dừng lại ở
cấp vi mô, trong khuôn khổ cố gắng bảo tồn cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở tầm
vĩ mơ. Vì vậy, những cuộc thử nghiệm này tuy đưa đến những thành tựu nổi bật
trong nông nghiệp nhưng vẫn không ngăn cản được cuộc khủng hoảng ngày càng
trở nên trầm trọng. Tình hình đó đã khiến cho đổi mới trở thành một nhu cầu hết
sức bức bách, là đòi hỏi bức thiết của cuộc sống.
Quyết định số 146/HĐBT, ngày 25/8/1982 của Hội đồng Bộ trưởng: Ngày
25/8/1982 Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 146/HĐBT về việc sửa đổi và bổ


sung Quyết định số 25-CP ngày 21/01/1981 của Hội đồng Chính phủ. Quyết định
số 25-CP được ban hành hơn một năm qua đã mang lại nhiều kết quả tích cực;
phát huy một bước tính chủ động sáng tạo của xí nghiệp trong việc khai thác tiềm
năng lao động thiết bị, vật tư để làm thêm sản phẩm, duy trì và thúc đẩy được sản
xuất công nghiệp trong điều kiện nền kinh tế cịn nhiều mất cân đối, góp phần ổn
định đời sống người lao động và ổn định đội ngũ công nhân, bảo đảm và tăng thu
cho ngân sách Nhà nước.
3. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) đã chính thức
khởi xƣớng cơng cuộc đổi mới
Giữa lúc Việt Nam chính thức quyết định tiến hành cơng cuộc đổi mới, trên
thế giới cũng diễn ra nhiều biến đổi quan trọng. Những biến đổi ấy vừa có ảnh
hưởng tới Việt Nam, vừa gợi ra những bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể
tham khảo với các mức độ khác nhau. Đó là:
Thứ nhất, cơng cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc theo hướng thị trường mở cửa bắt đầu diễn ra từ năm 1978. Tiếng vang của những thành tựu cải cách nổi

bật mà Trung Quốc thu được đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam quan tâm do
có sự tương đồng nhiều mặt về các điều kiện kinh tế - xã hội giữa hai nước, mặc
dù trong thời gian này quan hệ Việt Nam - Trung Quốc vẫn cịn căng thẳng, chưa
được bình thường hóa.
Thứ hai, sự không thành công của công cuộc cải tổ đã dẫn tới sự sụp đổ của
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu là một bài học phản diện. Sự
sụp đổ đó là bằng chứng về sự thất bại của con đường cải tổ theo kiểu “phủ định
sạch trơn”, sử dụng “liệu pháp sốc”, giải quyết khơng đúng mối quan hệ giữa kinh
tế và chính trị trong quá trình cải tổ. Cái giá phải trả là rất đắt.
Thứ ba, thành công của các nước “công nghiệp mới” ở Đông Á đưa ra
những gợi ý về cách thức và giải pháp phát triển đối với những nước vốn xuất phát
từ những nước nơng nghiệp và có quan hệ xã hội theo kiểu những giá trị văn hóa
phương Đơng. Đó là những thành cơng của các chiến lược phát triển: Phát huy
mạnh nội lực, thị trường mở cửa, hướng vào xuất khẩu và thu hút đầu tư nước
ngoài.


Thứ tư, xu hướng hợp tác và cạnh tranh trên thế giới đang từng bước thay
thế xu hướng đối đầu và xung đột. Tình huống này buộc các quốc gia phải định
hướng lại tư duy về các vấn đề phát triển. Khác hẳn trước đây, trong hoàn cảnh
phát triển mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế trở thành nhu cầu tự thân bên
trong đối với nền kinh tế nơng nghiệp vốn mang đậm tính chất khép kín, tự cấp tự
túc của Việt Nam.
Tồn bộ tình hình trên đây, ở trong cũng như ngoài nước đã tác động đến
Việt Nam về cả hai phương diện. Một mặt, nó đòi hỏi phải đổi mới tư duy phát
triển, đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế theo một phương thức mới. Mặt khác, nó
tạo ra các cơ hội và điều kiện để sự thay đổi đó diễn ra thuận lợi. Đó là điểm khởi
đầu cả về lịch sử lẫn lý luận của quá trình đổi mới.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐƢỜNG LỐI ĐỔI MỚI DO ĐẠI HỘI ĐẠI
BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI CỦA ĐẢNG XÁC ĐỊNH


1. Cơ sở hoạch định đƣờng lối đổi mới tại Đại hội VI của Đảng
(12/1986) Đường lối đổi mới của Đại hội VI được hoạch định trên những cơ sở
phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; dựa trên quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội;
qua thực tiễn hơn 3 thập kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội và từ kinh nghiệm quá trình
đổi mới từng phần của Đảng và nhân dân ta trong những năm 1979 – 1986.
2. Nội dung cơ bản của đƣờng lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng
(12/1986) xác định
2.1. Quan điểm chỉ đạo đường lối đổi mới
Đổi mới là tất yếu khách quan, là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa sống cịn của
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đổi mới không phải là phủ định sạch
trơn mà phải biết trân trọng, kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được
trong quá khứ. Đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
2.2. Nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp đổi mới
Đại hội xác định: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội,


tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh cơng nghiệp hố xã
hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”.
Trên cơ sở nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát, Đại hội xác định 5 mục
tiêu kinh tế, xã hội cụ thể cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên:
Một là, sản xuất đủ tiêu dùng, có tích luỹ
Hai là, bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Bốn là, tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội.
Năm là, bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh.

Những mục tiêu trên đây là một thể thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau,
bao quát mọi lĩnh vực từ sản xuất đến phân phối lưu thông, từ lực lượng sản xuất
đến quan hệ sản xuất, từ kinh tế, xã hội đến quốc phòng, an ninh.
Đại hội lần thứ VI của Đảng không ấn định thời gian cụ thể khi nào kết thúc
chặng đường đầu tiên. Đại hội cho rằng: “Cái mốc đánh dấu chặng đường đầu tiên
kết thúc là đạt được 5 mục tiêu nói trên. Độ dài của chặng đường đầu tiên tùy
thuộc một phần quan trọng vào việc vận dụng những bài học đã rút ra từ thực tiễn
mười năm qua, để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian
tới”. Nhận thức được sự thay đổi của tình hình và yêu cầu gay gắt phải tạo một
bước ngoặt trong tiến trình phát triển đất nước, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ VI tuyên bố tiến hành công cuộc đổi mới tồn diện và triệt để. Chính điều
đó xác định giá trị lịch sử của Đại hội VI - Đại hội của Đổi mới tư duy.
Trên cơ sở quan điểm đổi mới ấy, Đại hội VI đề ra nhiệm vụ phải có chính
sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định được những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp
với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Sự đổi mới tư duy lý luận trên đây của Việt Nam, một mặt, đặt nền
tảng lý luận cần thiết cho quá trình đổi mới thực tiễn; mặt khác, là sản phẩm của
chính q trình này. Để hình thành nên tư duy mới ấy, nhiệm vụ phải làm là kết
hợp một cách biện chứng những nguyên lý lý luận nền tảng của chủ nghĩa Mác -


Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống và tinh hoa văn hóa dân tộc, với
những nhận thức mới về thế giới hiện đại, về con đường phát triển mang các sắc
thái đặc thù của thời đại và dân tộc.
III. KINH NGHIỆM, Ý NGHĨA LỊCH SỬ, THỰC TIỄN CỦA QUÁ TRÌNH
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƢỚC

Đổi mới là quãng thời gian đầy thử thách, vượt qua vô vàn khó khăn của
Việt Nam trên con đường tìm tịi mơ hình phát triển mới, có hiệu quả hơn, đảm
bảo đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thành cơng. Thực tiễn q trình

đổi mới đất nước được Đảng ta khởi xướng từ Đại hội VI (12/1986) đến nay đã
trải qua hơn 35 năm, cho phép rút ra nhiều kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc về chỉ đạo tiến hành công cuộc đổi mới.
1. Bài học về vai trò lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng
Càng đi sâu vào tiến trình đổi mới, càng đối mặt với nhiều khó khăn, thách
thức, Đảng ta càng ý thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn
Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực để hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lãnh
đạo sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân giao phó. Cụ thể là: Tăng cường xây dựng Đảng về chính
trị; coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận; tập trung xây dựng Đảng về đạo
đức; đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức, trọng tâm là đổi mới, hoàn thiện tổ
chức bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; củng
cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên; tăng cường xây
dựng Đảng về đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu;
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; thắt chặt hơn
nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực;
đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới.
Đây là bài học quan trọng, xuyên suốt trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên,
nhận thức về vị trí, nội dung của bài học kinh nghiệm này trong tổng thể các bài
học kinh nghiệm giữa các kỳ Đại hội có sự khác nhau.


Tại Đại hội VI, bài học về công tác xây dựng Đảng được đặt ở vị trí thứ tư
trong tổng thể bốn bài học kinh nghiệm. Nội dung chủ yếu nhấn mạnh đến yêu cầu
xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ của Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Đến Đại hội VII, bài học về sự lãnh đạo, công tác xây dựng Đảng được tổng
kết sâu sắc hơn khi cho rằng: “Nhân tố quyết định đem lại những thành tựu đổi
mới là sự lãnh đạo kiên định, vững vàng của Đảng, tinh thần cách mạng và sự nỗ

lực phấn đấu của toàn dân”.
Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội VIII, bài học về công tác xây dựng Đảng
được đặt ở vị trí thứ sáu trong sáu bài học kinh nghiệm, với nội dung: “Tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Đảng
ta là đảng cầm quyền nên: “Những thắng lợi và thành tựu, những thất bại và tổn
thất của cách mạng đều gắn liền với trách nhiệm của Đảng”. Điểm nhấn của bài
học này là coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ “then chốt” đây là tư tưởng xuyên suốt
trong các nhiệm kỳ sau này.
Đến Đại hội IX, tổng kết 15 năm đổi mới, bài học kinh nghiệm về vai trị
lãnh đạo và cơng tác xây dựng Đảng được đặt ở vị trí thứ tư trong bốn bài học kinh
nghiệm, với nội dung: “Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp đổi mới”. Tại Đại hội, Đảng ta tiếp tục khẳng định phải thường
xuyên tiến hành công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhằm tạo sự thống nhất về
ý chí và hành động trong tồn Đảng.
Tổng kết 20 năm đổi mới, tại Đại hội X, bài học kinh nghiệm về vai trị lãnh
đạo và cơng tác xây dựng Đảng được đặt ở vị trí thứ năm trong tổng số năm bài
học kinh nghiệm, với nội dung: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.
Tại Đại hội XI, tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội (2001-2010), 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bài học về sự lãnh đạo và cơng tác xây dựng Đảng đặt
ở vị trí thứ năm trong tổng thể năm bài học kinh nghiệm, với nội dung: “sự lãnh


8
đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam”.
Đại hội XI cũng khẳng định bài học kinh nghiệm về công tác lãnh đạo tổ
chức thực hiện nghị quyết là: “Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải rất nhạy bén,

kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước, kịp thời đề ra các giải pháp phù
hợp với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền tạo sự đồng thuận cao,
phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội”.
Tổng kết 30 năm đổi mới, tại Đại hội XII, bài học về công tác xây dựng
Đảng được đặt ở vị trí thứ năm trong tổng thể năm bài học kinh nghiệm, với nội
dung: “Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân”. Bài
học kinh nghiệm lần này nhấn mạnh sự chủ động trong “tự đổi mới, tự chỉnh đốn”,
gắn công tác xây dựng Đảng với công tác cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược,
đổi mới, chỉnh đốn Đảng đặt trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị.
Tại Đại hội XIII, bài học kinh nghiệm về vai trò lãnh đạo và cơng tác xây
dựng Đảng được đặt lên vị trí hàng đầu trong năm bài học kinh nghiệm, nội dung
đầy đủ, tồn diện hơn: “Cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai
quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và
sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đồn kết trong Đảng
và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường
xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh tồn diện; hồn thiện cơ chế kiểm sốt chặt chẽ
quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phịng, chống suy thối, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng
phí. Cơng tác cán bộ phải thực sự là “then chốt của then chốt”, tập trung xây
dựng đội


ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm

chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của
cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất
là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương”.
Bài học kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng được đặt ở vị trí đầu tiên
trong các bài học kinh nghiệm không phải là sự ngẫu nhiên, mà là sự kiểm nghiệm
sâu sắc từ thực tiễn, xuất phát từ các lý do cụ thể như sau: Thực tế 35 năm đổi mới
cho thấy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng nói chung, cơng cuộc đổi mới nói riêng, do vậy bài học
kinh nghiệm này cần được đặt ở vị trí đầu tiên trong các bài học kinh nghiệm; Đây
là văn kiện của Đảng nên bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng, công tác
xây dựng Đảng phải được đặt ở vị trí quan trọng nhất; Tất cả các bài học kinh
nghiệm còn lại đều bị chi phối, tác động của bài học kinh nghiệm này. Nội dung
bài học kinh nghiệm này cũng phong phú, toàn diện hơn: Nhấn mạnh xây dựng
Đảng trên các phương diện chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ; xây dựng
Đảng gắn với hệ thống chính trị, hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực, tăng
cường đồn kết trong Đảng và hệ thống chính trị, đặc biệt quan tâm đến công tác
cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược.
Cùng với công tác xây dựng Đảng, Báo cáo chính trị Đại hội XIII đúc rút
một bài học kinh nghiệm quan trọng về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng:
“Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện, phải có quyết tâm cao, nỗ
lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực; có bước đi phù hợp,
phát huy mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; kịp
thời tháo gỡ các điểm nghẽn, vướng mắc; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu
gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị; phát huy dân
chủ đi đơi với giữ vững kỷ cương; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận;
thực hiện tốt sự phối hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; coi trọng chất lượng
và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển”. Đây là bài học kinh nghiệm rút ra
từ thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua 35 năm đổi mới, nhất là
những năm gần đây. Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối, bằng việc lãnh



10
đạo thể chế hóa các chủ trương đường lối, do vậy, Đảng vừa phải có quyết tâm
chính trị cao, đồng thời phải hành động quyết liệt, sáng tạo nhằm kịp thời, chủ
động tháo gỡ các điểm nghẽn cho sự phát triển. Thực tế những năm gần đây nảy
sinh những vấn đề rất mới, chưa có tiền lệ, khơng chỉ trong phạm vi quốc gia, dân
tộc mà cả đối với nhân loại. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng phải bảo đảm sự quyết
liệt, sáng tạo, phát huy dân chủ gắn với kỷ cương, chỉ như vậy sự nghiệp đổi mới
mới thành công.
2. Bài học “Lấy dân là gốc”, đổi mới dựa vào nhân dân, vì lợi ích của
nhân dân
Đây là bài học xuyên suốt trong thời kỳ đổi mới, là sự tiếp nối truyền thống
của lịch sử dân tộc ta. Tuy nhiên, từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày
càng nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về nội dung, ý nghĩa của bài học này. Sự
nghiệp đổi mới bắt đầu từ những sáng kiến của quần chúng nhân dân, vì lợi ích
của nhân dân, phù hợp với mong muốn, lợi ích của nhân dân, được nhân dân đồng
tình ủng hộ: “Đường lối ấy hình thành trên cơ sở phát huy tinh thần độc lập, tự
chủ, tổng kết những kinh nghiệm sáng tạo của nhân dân, của các cấp, các ngành,
hợp quy luật, thuận lòng người, nên nhanh chóng đi vào cuộc sống”.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Văn kiện Đại hội VI đã thể hiện bài học đầu tiên:
“Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm
gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Đại hội VII,
trước sự khủng hoảng, từng bước tan vỡ của hệ thống chủ nghĩa xã hội hiện thực
thế giới, khơng phải khơng có một số cán bộ, đảng viên ngả nghiêng, dao động.
Bài học kinh nghiệm mà Đảng ta rút ra là: “Chúng ta khẳng định tiếp tục phát huy
ngày càng sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng để phát huy dân chủ
đúng hướng và đạt kết quả thì q trình đó phải được lãnh đạo tốt, có bước đi vững
chắc phù hợp với tình hình chính trị, xã hội nói chung”.
Đại hội VIII, IX, X, bài học về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đổi

mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân tiếp tục được Đảng ta khẳng
định: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính
những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành


11
đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới,
dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà cơng cuộc đổi mới
đạt được những thành tựu hôm nay”. Đến Đại hội XI, trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011),
Đảng ta tiếp tục khẳng định bài học kinh nghiệm: “Sự nghiệp cách mạng là của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những
thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện
vọng chính đáng của nhân dân”. Văn kiện Đại hội XII tiếp tục khẳng định bài học
“lấy dân làm gốc” nhưng làm rõ hơn: “Đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm
“lấy dân làm gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm
chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết tồn dân tộc”.
Trong báo cáo chính trị trình Đại hội XIII, bài học “lấy dân làm gốc” được
trình bày một cách sâu sắc, tồn diện và có nhiều điểm mới: “Trong mọi công việc
của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật
sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống,
nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của
nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”. Điểm mới ở đây
là khẳng định “nhân dân là trung tâm”, “lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm

mục tiêu phấn đấu” của Đảng và cả hệ thống chính trị. Kinh nghiệm thực tiễn
chính trị Việt Nam và thế giới cho thấy, bất cứ một thể chế chính trị nào chỉ có thể
tồn tại bền vững khi được sự ủng hộ, đồng tình của nhân dân. Muốn được nhân
dân ủng hộ, nhất thiết đảng chính trị đó phải vì lợi ích của nhân dân. Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời, tồn tại không có mục đích tự thân, mà vì ấm no, hạnh phúc
của nhân dân. Mục tiêu ấy phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân
đồng tình ủng hộ.


3. Bài học tôn trọng và hành độ1n2g theo các quy luật khách quan
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, lấy
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp hoạt
động. Tuy nhiên, khơng phải khơng có lúc Đảng rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí,
vì lẽ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trong thập kỷ 80 thế kỷ XX. Từ sự
khủng hoảng đó, một trong những bài học kinh nghiệm quan trọng được rút ra
trong suốt thời kỳ đổi mới là Đảng phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn
trọng và hành động theo các quy luật khách quan. Thực tế xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong những năm qua cho thấy, do xuất phát từ hiện thực khách quan, hành
động theo các quy luật khách quan, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được những
thắng lợi vĩ đại. Từ những hạn chế, yếu kém trong giai đoạn đầu lãnh đạo nhân
dân cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội (1976-1986), Đại hội VI đã rút ra bài học kinh
nghiệm sâu sắc: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan”. Tư tưởng này được quán triệt trong bài học kinh
nghiệm các Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII: “Phải giữ vững tư duy độc lập, sáng
tạo trong việc đề ra đường lối đổi mới phù hợp với đặc điểm tình hình của nước
ta”; “Coi trọng học tập, tham khảo kinh nghiệm của thế giới, nhưng không lúc nào
được giáo điều, sao chép máy móc cách làm của nước ngồi”; đổi mới phải “Bám
sát thực tiễn của đất nước”, “Xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực
tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển”…
Việc Đảng ta lãnh đạo chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển từ chế độ đơn sở hữu sang đa sở hữu,
chuyển từ hệ thống chuyên chính vơ sản sang hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa,
thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế…chính là tơn trọng và
hành động theo các quy luật khách quan. Và nhờ vậy, đất nước đã có những sự
thay đổi vượt bậc trên nhiều mặt. Bài học này khơng chỉ có tác dụng hiện nay, mà
cịn có tác dụng chỉ đạo trong suốt q trình cách mạng. Bởi thực tiễn ln vận
động, điều đó địi hỏi nhận thức của con người, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu của thực tế. Mặc dù trong báo cáo
chính trị Đại hội XIII, bài học kinh nghiệm về tôn trọng và hành động theo quy


13
luật khách quan không được viết riêng thành một bài học độc lập. Tuy nhiên, trong
toàn bộ nội dung các bài học kinh nghiệm đều ẩn chứa tính khách quan, ví như:
“Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống”, “Coi trọng chất
lượng và hiệu quả thực tế”.
4. Bài học về giữ vững các nguyên tắc trong quá trình đổi mới
Đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, đổi mới không phải được làm một cách ngẫu
nhiên, tùy tiện mà phải tuân theo các nguyên tắc nhất định. Tổng kết 35 năm đổi
mới, có thể khái quát một số nguyên tắc sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây được coi là ngun tắc có tính sống cịn, quyết định
tính định hướng của cơng cuộc đổi mới. Đại hội VII tổng kết bài học: “Phải giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về
nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt hoạt trong sách lược, nhạy
cảm trong nắm bắt cái mới”. Đại hội VIII, IX, X, XI tiếp tục khẳng định bài học:
“Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và
đi đến thành công là trong quá trình đổi mới, Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trị lãnh đạo xã

hội”; “Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi
mới, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên
trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”; “Trong q trình đổi mới
phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”…Tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XII, bài học này được bổ sung, phát triển phong phú hơn, không chỉ kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà cịn: “Kế thừa và phát huy truyền
thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế
phù hợp với Việt Nam”.


Hai là, đổi mới tồn diện, đồng bộ nhưng có bước đi, cách làm phù hợp.
Đây cũng là một trong những nguyên tắc được quán triệt xuyên suốt thời kỳ đổi
mới. Cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam tồn diện, đồng bộ, triệt để, nhưng đây là sự
nghiệp mới mẻ, trong quá trình thực hiện bị các thế lực thù địch chống phá quyết
liệt, cho nên đổi mới phải được thực hiện từng bước, vững chắc: “Đổi mới toàn
diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp”;
“kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Đổi mới phải có
ngun tắc, không làm ẩu, làm bừa, không phiêu lưu, mạo hiểm nhưng cũng
khơng bảo thủ, trì trệ. Đổi mới đồng bộ, tồn diện nhưng có bước đi, cách làm phù
hợp khơng nơn nóng vội vàng.
Ba là, trong đổi mới phải giải quyết hài hòa các mối quan hệ lớn. Đại hội
VII, bước đầu mới khái quát một mối quan hệ lớn: “Phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần phải đi đơi với tăng cường vai trị quản lý của nhà nước về kinh
tế - xã hội”. Đại hội VIII đã bổ sung, phát triển thêm các mối quan hệ: “Xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với
tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng
trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và cơng bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc, bảo vệ mơi trường sinh thái”. Đại hội XI: “Tích cực, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế phải gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững
truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc. Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với
tăng cường kỷ luật, kỷ cương; phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời với xây
dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất; tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, củng cố quốc
phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại”.
Tại Đại hội XIII, những mối quan hệ lớn được khái quát đầy đủ hơn, bao
gồm: “Bảo đảm hài hòa giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển; giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị
trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế với phát


triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi
trường; giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc
lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò động
lực của con người, văn hóa, của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong
phát triển đất nước”. Đây có thể được coi là sự tổng kết những kinh nghiệm bước
đầu sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội .
5. Bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, một mặt chịu
sự tác động bối cảnh thời đại, mặt khác góp phần thúc đẩy, tạo ra các xu hướng
của thời đại. Do vậy, với tư duy biện chứng, phải thấy được mối liên hệ phổ biến,
sự tác động qua lại hai chiều giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Đại
hội VI nêu bài học kinh nghiệm: “Phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại trong điều kiện mới”. Bài học này được các Đại hội tiếp theo kế thừa, phát
triển. Đại hội VIII: “Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và
giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời
đại”, Đại hội IX: “Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”,

Đại hội X: “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”, Đại hội XI: “Kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế”, Đại hội XII: “Phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định
độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình
đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Trước bối cảnh phức tạp, khó lường của quốc tế và khu vực, Đại hội XIII
khái quát bài học kinh nghiệm: “Chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình
hình, tuyệt đối khơng được để bị động, bất ngờ. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đơi với giữ vững
mơi trường hịa bình, ổn định, an ninh, an tồn để phát triển đất nước. Chủ động,


16
tích cực hội nhập quốc tế tồn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường. Xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và
các nước láng giềng; đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ. Phát huy hiệu
quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của thời đại. Khai thác,
sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát
triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.
Là cán bộ đang công tác trong quân đội cần quán triệt sâu sắc quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm
của Đảng về công cuộc đổi mới đất nước; nhận thức đúng đắn đặc điểm, nội dung
và những nhân tố tác động đến quá trình đổi mới đất nước. Đồng thời, nhận thức
rõ âm mưu, thủ đoạn chiến lược “diễn biễn hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế
lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và quân đội. Chăm lo xây dựng nền quốc
phịng tồn dân gắn với an ninh nhân dân vững mạnh; xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng vững mạnh về chính
trị làm cơ sở; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu,

góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan, đơn vị thường xuyên quán triệt, giáo dục cho
cán bộ, chiến sỹ về công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam để mỗi quân nhân có nhận thức sâu sắc hơn về quan điểm, đường lối
của Đảng trong phát triển đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH với sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và
hội nhập quốc tế. Đây chính là cơ sở lý luận của mỗi cán bộ, đảng viên nói chung,
cán bộ chính trị trong Quân đội nói riêng nhằm quán triệt, triển khai thực hiện có
hiệu quả vào thực tiễn từng cơ quan, đơn vị. Đây cũng là vũ khí sắc bén trong đấu
tranh chống lại các quan điểm, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch trong
chống phá công cuộc đổi mới của cách mạng nước ta hiện nay.
Thường xuyên tham mưu, đề xuất với Đảng ủy, chỉ huy đơn vị đề ra nhiều
biện pháp, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị tư



×