Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Đề tài : Khủng hoảng tài chính toàn cầu và bài học rút ra đối với Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.41 KB, 42 trang )


LUẬN VĂN
Đề tài: Khủng hoảng tài chính toàn
cầu và bài học rút ra đối với Việt
Nam
[Type text] Page 1
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng năm …
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng năm …
Mục lục
Lời mở đầu 3
Phần 1: Tổng quan về khủng hoảng tài chính quốc tế 5
Khái niệm khủng hoảng tài chính quốc tế: 5
2. Một số dấu hiệu và các dạng của khủng tài chính quốc tế: 8
2.1 Dấu hiệu: 8
2.2 Các dạng khủng hoảng : 8
Phần 2 : Khủng hoảng tài chính toàn cầu 10
1. Diễn biến : 10
2. Nguyên nhân : 13
2.1 Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính lần này là sự
suy sụp của thị trường bất động sản 13
2.2 Cho vay dưới chuẩn - nguyên nhân của sụp đổ thị trường bất động sản và cuộc
khủng hoảng tài chính Mỹ 15
2.3 Một số nguyên nhân khác: 16
2.4 Sự lầm tưởng sức mạnh của nước Mỹ 17
3. Tác dộng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu : 18
3.1 Tác động đối với thế giới : 18
3.1.1.Ngắn hạn : 18
3.1.3 Nguy cơ khủng hoảng nợ công sau khủng hoảng kinh tế : 20
3.2 Tác động đối với Việt Nam : 21
Phần 3: Những bài học đối với Việt Nam từ cuộc khủng hoảng 26
3.1. Những vấn đề cơ bản: 27


3.2. Bài học đối với thế giới: 28
3.3. Việt Nam rút ra được gì? 31
3.3.1. Phối hợp hài hoà bàn tay Nhà nước pháp quyền và bàn tay thị truờng 33
3.3.2. Coi trọng tính đồng bộ và chú ý đến tính 2 mặt của các giải pháp chính sách 34
3.3.3. Trọng dụng người tài và đấu tranh không khoan nhượng với nạn tham nhũng 36
Tài liệu tham khảo: 41
[Type text] Page 2
Đề tài : Khủng hoảng tài chính toàn cầu và bài
học rút ra đối với Việt Nam.
Lời mở đầu
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là cuộc khủng lớn nhất trên thế giới kể từ
sau cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất lịch sử của thế giới trong những năm 30 của
thế kỷ XX, nó đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế nước Mỹ và
lan rộng ra toàn cầu làm ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hệ thống tài chính và sự tăng
trưởng kinh tế thế giới. Kể từ khi cơn lốc của cuộc khủng hoảng đi qua cuốn theo rất
nhiều quốc gia vào vòng xoáy của nó, đến bây giờ cuộc khủng hoảng đã tạm qua đi,
tình trạng thị trường đã trở nên ổn định hơn, quá trình khôi phục diễn ra mạnh mẽ.
Mặc dù vậy các nước vẫn còn phải tiếp tục lịch trình tái cơ cấu và đang đứng trước
một nguy cơ khủng hoảng tài mới (tàn dư của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu)
đó là khủng hoảng nợ công ở châu Âu đã và đang tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế
đồng Ero nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung.
Đã có rất nhiều sách báo, các cuộc hội thảo quốc tế và khu vực đã viết và bàn về
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, và dường như vẫn chưa đủ và người ta vẫn buộc
phải nghĩ về nó, viết về nó vì nó vẫn đang ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến đời
sống kinh tế xã hội và chính trị của mỗi quốc gia, mỗi khu vực và thế giới. Các tổ
chức tài chính, các trung tâm nghiên cứu quốc tế cũng đưa ra các bài học và dự báo về
nguy cơ của các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra trong tương lai. Tuy không nằm
trong tiểu điểm của cơn lốc khủng hoảng, nhưng những ảnh hưởng và tác động của nó
ngày càng được cảm nhận rõ rệt ở Việt Nam, thể hiện qua những chỉ số giảm đi cụ thể
về thương mại, đầu tư, tốc độ phát triển kinh tế và du lịch…

Hiện nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc nghiên
cứu khủng hoảng, triển vọng và tác động của nó trong bối cảnh đất nước đang tham
gia ngày càng sâu rộng hơn và liên kết khu vực, hội nhập với quốc tế. Đó là chính là
động lực thúc đẩy nhóm chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Khủng hoảng tài chính
toàn cầu và bài học rút ra đối với Việt Nam”. Đề tài đã đặt vấn đề nghiên cứu cuộc
[Type text] Page 3
khủng hoảng và chiều hướng diễn biến của nó, nhóm nghiên cứu đề tài tập trung vào
phân tích những tác động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng, những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng, đề từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về chính sách phát triển kinh tế và chính
sách kinh tế đối ngoại.
Nội dung đề tài gồm ba phần:
Phần 1: Tổng quan về khủng hoảng tài chính quốc tế.
Phần 2: Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
Phần 3: Những bài học đối với Việt Nam
Sau một thời gian nghiên cứu và nỗ lực hoàn thành nhóm chúng tôi đã cố
gắng phác thảo một bức tranh toàn cảnh về cuộc khủng hoảng và nêu ra một số đánh
giá và ý kiến đóng góp của mình dựa trên cơ sở những nghiên cứu tiến hành trong đề
tài. Song với kiến thức và thời gian có hạn, đề tài của chúng tôi vẫn còn nhiều thiếu
sót. Rất mong được sự đóng góp của cô giáo và các bạn để đề tài của chúng tôi ngày
càng hoàn thiện hơn.
[Type text] Page 4
Phần 1: Tổng quan về khủng hoảng tài chính quốc tế.
Khái niệm khủng hoảng tài chính quốc tế:
Toàn cầu hoá bên cạnh việc mang lại những cơ hội lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều ngu cơ trong đó có nguy cơ khủng hoảng toàn
cầu. Sự thay đổi của các thị trường tài chính với mức độ mở cửa thương mại và tài
chính của các nước, mỗi điều kiện bên trong của mỗi quốc gia đều dẫn tới khả
năng khủng hoảng.
Khủng hoảng kinh tế là sự suy giảm của hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng

hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Khủng hoảng kinh tế lên đến đỉnh điểm là
nguyên nhân xảy ra khủng hoảng tài chính vì khủng hoảng kinh tế bị suy thoái,
khủng hoảng sản xuất thừa sẽ làm gia tăng nhu cầu sử dụng tiền cho mục đích tiêu
dùng hàng hóa. Khủng hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá nguồn
cung của xã hội, nhu cầu về tiền của nhân dân hay của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước đã gây ra sức ép cho hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính khiến
cho ngân hàng và các tổ chức tài chính có thể sụp đổ. Khủng hoảng tài chính chỉ là
một phần của khủng hoảng kinh tế nhưng khủng hoảng tài chính lại gây ra thiệt
hại lớn nhất vì các nước có tự do thương mại, nguồn vốn được di chuyển qua
những nước khác nhau nên khủng hoảng tài chính là yếu tố lây lan còn khủng
hoảng kinh tế nó không có yếu tố trực tiếp lây lan.
- Khủng hoảng tài chính được hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến
nó không thể thực hiện được hai chức năng cơ bản nhất:
Thứ nhất, ổn định giá trị đồng tiền hoặc các tài sản tài chính như một
phương tiện giao dịch, cất trữ tài sản.
Thứ hai, là trung gian chuyển vốn tiết kiệm vào những dự án đầu tư có hiệu
quả nhất.
[Type text] Page 5
- Hệ quả của khủng hoảng tài chính là nền kinh tế bị đẩy ra khỏi quỹ đạo tăng
trưởng tiềm năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc làm, đi kèm với
lạm phát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát.
- Có thể sơ bộ chia ra ba quan điểm chính về khủng hoảng tài chính:
+ Nhóm thứ nhất là những người theo chủ thuyết tiền tệ (Monetarists
View), dẫn đầu là Friedman và Schwartz (1963). Họ cho rằng, khủng hoảng tài
chính là do sự hoảng loạn của hệ thống ngân hàng (banking panics), gây nên sự co
hẹp cung tiền tệ, dẫn đến sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầu tư. Họ bỏ
qua những nguyên nhân thực như: sự sụt giảm hiệu quả của nền kinh tế, sự suy
sụp của nhiều doang nghiệp. Vì vậy, theo họ sự can thiệp của Chính phủ là không
cần thiết, và thậm chí có hại, bởi vì những doanh nghiệp muốn phải để cho bị phá
sản lại được cứu vớt, gây nên sự gia tăng quá mức về cung tiền tệ và dẫn tới lạm

phát.
+ Nhóm thứ hai là nhóm đối lập nhóm theo chủ thuyết tiền tệ là Keynesian
View, đầu là Kindleberger (1978) và Misky (1972). Họ có quan niệm rộng hơn về
khủng hoảng tài chính và tiền tệ, bao gồm sự sụt giảm hầu hết giá trị cổ phiếu, sự
vỡ nợ của nhiều công ty tài chính và phi tài chính, nạn giảm phát đi kèm với sự rối
loạn của thị trường ngoại hối. Những yếu tố này gây nên sự sụt giảm mạnh về tổng
cầu đầu tư và tiêu dùng, vì thế cần phải có sự can thiệp của nhà nước. Điều đáng
nói là họ không đưa ra một đặc trưng rõ ràng về nguồn gốc của khủng hoảng, để
làm tiền đề cho một chính sách kích thích có hiệu quả. Vì vậy, sự can thiệp của
Chính phủ rất dễ dẫn đến lạm phát và trì trệ, như những người theo chủ thuyết tiền
tệ đã lưu ý.
+ Nhóm thứ ba nhấn mạnh tới bản chất rủi ro của hoạt động tài chính, dẫn
đầu là Stiglitz và Weiss (1981). Theo họ, hoạt động của hệ thống tài chính, đặc
biệt là ngân hàng, chịu rủi ro cao, do ngân hàng đầu tư hay tổ chức cho vay thường
không nắm rõ thông tin về khả năng sinh lợi và mức độ rủi ro của dự án đầu tư
bằng cá nhân hay tổ chức đi vay; tức là những người chủ dự án. Sự khác biệt về
thông tin (asymetry of information), hay sự thiếu minh bạch về thông tin dự án,
khiến cho hệ thống tài chính có thể có vấn đề, bởi vì ngân hàng muốn ép lãi suất
thực, cộng các phí dịch vụ cho vay tăng lên để bù cho rủi ro mất vốn có thể xảy ra.
Nhưng điều này lại khiến cho những dự án có độ rủi ro cao nhất mới hy vọng có
khả năng sinh lãi đủ cao để trả nợ (nếu may mắn thành công). Ngược lại, nếu đó là
dự án của những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với độ rủi ro ít (mức sinh lãi thấp hơn),
thì họ sẽ khó có thể được vay vốn. Vì vậy, khi lãi suất cho vay tăng lên thì:
[Type text] Page 6
 Sẽ có một tỷ lệ lớn những chủ các dự án với độ rủi ro cao hơn (như đầu
cơ vào bất động sản, chứng khoán thời bong bóng) đi săn lùng vốn vay. Trong khi
đó, những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với những nhà đầu tư cẩn trọng, sẽ bị loại ra
khỏi danh sách các ứng cử viên. Người ta gọi đây là sự chọn lầm phải điều ngụy
hại (adverse selection), theo Akerlof (1974).
 Với những chủ dự án lớn đã vay được vốn, thì họ có xu hướng làm thay

đổi bản chất dự án mang tính đầu cơ cao hơn (hoặc có vẻ quan trọng hơn, để Nhà
nước không thể để cho bị thất bại). Do vậy, họ có thể giàu lên nhanh chóng, nếu
việc đầu cơ thành công; và để ngân hàng chịu tích tụ những khoản nợ xấu; hay xã
hội phải gánh vác tổn thất qua gánh nặng cứu trợ ngân sách nếu dự án bị thất bại.
Người ta gọi đây là hiểm họa do sự vô trách nhiệm (moral hazard).
- Chính vì những lý do trên đây, những người theo trường phái kinh tế học thể
chế (institutional economics) cho rằng hoạt động của ngân hàng nói riêng và hệ
thống tài chính nói chung, phải được giám sát hết sức cận trọng, nhằm hướng các
giao dịch tới sự an toàn (Aoki 1991; Mc Kinmon 1991).
- Ngoài sự phân loại chức năng các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và
các quỹ đầu tư theo mức độ rủi ro của từng lĩnh vực đầu tư, cần phải có nhiều tổ
chức trung gian khác làm chức năng giám sát và cảnh báo rủi ro. Chẳng hạn như
các tổ chức xếp hạng (rating companies), mà chúng thường xuyên có sự thay đổi
trạng thái tài chính của các tổ chức tài chính và phi tài chính. Sự xếp hạng này ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng của các công ty trong việc gây quỹ từ thị trường vốn
hay thị trường chứng khoán.
- Nhìn chung, cho dù thuộc trường phái kinh tế nào, thì vẫn có một sự nhất trí
rằng, hệ thống tài chính cần phải được giám sát chặt chẽ, do tính phức tạp và rủi ro
của hoạt động này. và việc thiếu sự quản lý, giám sát luôn dẫn đến bong bóng đầu
cơ. Tuy nhiên, chỉ khi việc mất cân đối vĩ mô trỡ nên rất nghiêm trọng thì bong
bóng đầu cơ mới có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính và kinh tế trên quy mô lớn.
Những nhà đoạt giải thưởng Nobel kinh tế đã phát biểu quan điểm này bao gồm:
Paul Krugman, Edmund S.Phelps, Reinhard Selten, và Josep Stiglitz. Họ nhấn
mạnh rằng, khủng hoảng có thể tránh được nếu có một hệ thống giám sát tài chính
và cảnh báo rủi ro tốt. Vì vậy, họ cho rằng, không phải cứ tự nhiên mà có sự can
thiệp của Chính phủ thông qua các gói kích thích, nếu như không hiểu rõ khiếm
khuyết gì trong thể chế tài chính đã đẩy đến khủng hoảng.
- Vì vậy câu hỏi được đặt ra là, tại sao một thể chế giám sát tài chính, được coi
là chuẩn mực nhất thế giới, làm nền tảng cho sự phát triển vững mạnh và giàu có
[Type text] Page 7

của ngành ngân hàng và tài chính Mỹ trong suốt nhiều thập kỹ (kể từ các năm
1930), lại sụp đỗ nhanh chóng như vậy?
2. Một số dấu hiệu và các dạng của khủng tài chính quốc tế:
2.1 Dấu hiệu:
Tuỳ theo mức độ và phạm vi, khủng hoảng tài chính thể hiện qua các điểm sau
đây:
+ Sự giảm giá dây chuyền của các đồng tiền
+ Tỷ gia hối đoái tăng đột biến và dây chuyền
+ Lãi suất tín dụng gia tăng: lãi suất tăng kéo theo cầu tiền tệ, cầu tín dụng
sụt giảm làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bị suy giảm.
+ Hệ thống ngân hàng bị tê liệt
+ Thị trường cổ phiếu sụt giá nhanh chóng
+ Các hoạt động kinh tế bị suy giảm
2.2 Các dạng khủng hoảng :
Khủng hoảng ngân hàng: rất hay gặp do ngân hàng là trung gian tài chính nhận
tiền gửi của các thể nhân và pháp nhân để cho vay nên rủi ro dồn cả về mặt số
lượng, thừoi hạn cũng như chủng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng
hoảng do cho vay quá mức và không thu hồi lại được dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn cao
làm ngân hàng không thể thanh toán các nghĩa vụ khi đến hạn. Ngân hàng là một
hệ thống chặt chẽ nên khủng hoảng rất dễ lây lan và tạo khủng hoảng cả hệ thống
ngân hàng. Trong trường hợp khủng hoảng các Ngân hàng thương mại thường có
xu hướng siết chặt các điều kiện tín dụng hay nâng lãi suất để bù đắp rủi ro và kết
quả là đẩy các doanh nghiệp – bạn hàng chủ yếu của ngân hàng vào tình thế khó
khăn do thiếu nguồn tài chính để hoạt động.
Khủng hoảng nợ quốc gia: trường hợp một quốc gia vay nợ nước ngoài (vay
chính thức, vay thương mại) qua nhiều, sử dụng không hiểu quả vốn nên không trả
được nợ đúng hạn, lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xoá nợ thậm
chí phải tuyên bố vỡ nợ (như trường hợp của CHDCND Triều Tiên). Khủng hoảng
[Type text] Page 8
nợ xảy ra khá nhiều ( Argentina mới đây hay nhiều nước Châu Phi vừa qua) cùng

với tiến trình toàn cầu hoá kinh tế do các điều kiện vay nợ nước ngoài trở nên dễ
dàng hơn.
Khủng hoảng tiền tệ: là hiện tượng không đủ ngoại tệ để thanh toán các nghĩa vụ
đến hạn hay đáp ứng nhu cầu cả thực tế và giả tạo do đầu cơ buộc chính phủ phải
dùng quỹ dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái hoặc phá giá nội tệ cho nội tệ
mất uy tín nhanh chóng.
Khủng hoảng thị trường chứng khoán: với tư cách là đỉnh cao của kinh tế thị
trường, thị trường chứng khoán rất nhạy cảm và phức tạp nên cũng dễ đổ vỡ.
Khủng hoảng thị trường chứng khoán xảy ra khi giá chứng khoán biến động mạnh
(“tuột dốc” hay “không thang” quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do hiệu ứng
“bầy đàn” làm cho chứng khoán bị “bán đổ, bán tháo” hay thị trường bị “đông
cứng” vì không có giao dịch tạo ra sự thâm hụt giữa tiền (chứng khoán) vào so với
tiền ra thị trường chứng khoán (quỹ chứng khoán)
Khủng hoảng cán cân thanh toán (cán cân vãng lai), cán cân vốn (còn được
gọi là tài khoản) là cấu thành quan trọng nhất của tài khoản quốc gia: khủng
hoảng xảy ra khi cán cân này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và không có
nguồn bù đắp. Khủng hoảng cán cân vãng lai thường xảy ra khi cán cân thương
mại (nhập trừ đi xuất) bị thâm hụt và khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng
cácluồng ngoại tệ ra lớn hơn ngoại tệ vào (cán cân vãng lai, tài khoản vốn) gây
nên thâm hụt nặng nề.
Khủng hoảng khả năng tính thanh khoản: nếu các loại khủng hoảng tài chính ở
trên liên quan tới cả ba mặt số lượng, thời hạn và chủng loại tiền (và giống như
tiền) thì khủng hoảng tình thanh khoản là sự mất cân đối chủ yếu liên quan tới thời
hạn và chủng loại của “giống như tiền” và một số loại tài sản đặc thù.
Khủng hoảng ngân sách: NSNN thâm hụt nặng và kéo dài trong khi các nguồn
thu bù đắp thâm hụt (in tiền, vay nợ trong và ngoài nước) bị hạn chế hay không
thể lạm dụng hơn nữa nếu muốn tránh hậu quả như vỡ nợ hay bùng nổ lạm phát.
[Type text] Page 9
Trên đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương lai có thể
xuất hiện nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của tài chính trong tiến trình phát

triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phần 2 : Khủng hoảng tài chính toàn cầu
Khủng hoảng tài chính toàn cầu là một dạng bậc cao của khủng hoảng tài chính,
nó không dừng lại ở phạm vi một quốc gia hay khu vực mà lan tỏa và tác động đến
toàn bộ các nền kinh tế trên thế giới.Khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã ảnh hưởng
tiêu cực đến nền kinh tế các nước, gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều nơi và tăng
trưởng kinh tế chậm lại ở hầu hết các nước khác.
Các quốc gia trên toàn thế giới, ít hay nhiều, đều đang phải chống chọi với cuộc
khủng hoảng tài chính lớn nhất trong khoảng 80 năm trở lại đây. Nguyên nhân do
đâu? Có từ bao giờ? Điều đáng ngạc nhiên là, “cơn bão” này đã được“dự báo” từ
hơn một thế kỷ trước, trong bộ “Tư bản” bất hủ của Các Mác.
Những người được sinh ra trong nửa sau của thế kỷ XX mới chỉ nghe và đọc
trong sách báo về cuộc đại suy thoái 1929 - 1933 của chủ nghĩa tư bản. Chính vì
vậy, có thể nói, hiện tại chúng ta đang sống trong một thời kỳ đặc biệt của lịch sử.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, bắt đầu từ Mỹ đang tạo ra một làn sóng đe
dọa nhấn chìm thế giới. Sự kiện này đã có tác động mạnh mẽ và làm thay đổi tư
duy, ý thức của hàng triệu triệu người.
1. Diễn biến :
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 cuộc khủng hoảng tài chính nổ
ra dẫn đến suy giảm kinh tế từ Mỹ lan rộng ra toàn cầu.
Bắt đầu từ tháng 8/2007 do một công ty thế chấp nhà (American Home Morgage)
làm đơn phá sản.
Tiếp đó là sự sụp đổ tài chính lớn, gần 20 ngân hàng phá sản mỗi ngày, hàng
nghìn đơn của người dân xin phá sản
[Type text] Page 10
Thị trường chứng khoán của Mỹ và thế giới bị tác động mạnh, đồng loạt giảm sút.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 cuộc khủng hoảng tài chính nổ
ra dẫn đến suy giảm kinh tế từ Mỹ lan rộng ra toàn cầu.
Bắt đầu từ tháng 8/2007 do một công ty thế chấp nhà (American Home Morgage)
làm đơn phá sản.

Tiếp đó là sự sụp đổ tài chính lớn, gần 20 ngân hàng phá sản mỗi ngày, hàng
nghìn đơn của người dân xin phá sản
Thị trường chứng khoán của Mỹ và thế giới bị tác động mạnh, đồng loạt giảm sút.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này thực chất là biểu hiện rõ nét
nhất của một quá trình “khủng hoảng” rất lâu trước đó. Điểm lại những mốc sự
kiện chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng đã diễn ra như thế nào.
Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và
Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất động
sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi
suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh
giá thấp thị trường.
Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất
động sản, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại Mỹ
hồi giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó.
Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính
cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ
chức cho vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bi
tịch thu để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006.
Ngày 05/02 Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong số các
nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô la thời điểm
quý 3 năm 2006, tuyên bố phá sản.
Ngày 02/04 New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ, tuyên
bố phá sản.
Ngày 19/07: Chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần đầu tiên trong
lịch sử.
Tháng 8: Khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà chính xác là chứng khoán dựa trên
các khoản nợ thế chấp dưới chuẩn, được phát hiện trong các danh mục vốn đầu tư
và quỹ trên khắp thế giới từ BNP Paribas cho đến Ngân hàng Trung Quốc. Nhiều
[Type text] Page 11

nhà cho vay ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục dữ trữ liên bang đã cho các
ngân hàng vay 100 tỷ đô la với lãi suất thấp.
Ngày 16/08: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn nhất
nước Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ một nhóm
các ngân hang khác.
Ngày 17/08: Cục dự trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số chiếu khấu 50 điểm cơ
bản từ mức 6.25% xuống 5.75%.
Ngày 14/09: Ngân hàng Northern Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm trọng về
khả năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới chuẩn.
Ngày 15–17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ thông
báo lập một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán được đảm
bảo bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do khủg hoảng vay
dưới chuẩn. Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Ben Bernake và Bộ trưởng Bộ tài
chính Mỹ đều đưa ra những cảnh báo về mối nguy hiểm của việc vỡ bong bóng
bất động sản.
Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống 4,5%
Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng
vay với lãi suất thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của cục dự trữ liên bang kể từ
19 tháng 9 năm 2001 (50.35 tỷ đô la).
Năm 2008 với những mốc đáng nhớ sau:
Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ
phiếu để tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp
các khoản lỗ của Bear Stearn.
Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã báo cáo
thua lỗ lên đến 435 tỷ đôla.
Ngày 07/09: Cục dự trữ liên bang dành quyền kiểm soát hai tập đoàn Fannie
Mae và Freddie Mac
Ngày 14/09: Merrill Lynch được bán cho Bank of America với giá 50 tỷ$
Ngày 15/9: Lehman Bothers tuyên bố phá sản. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số ở Mỹ
bao gồm chỉ số Dow Jones, NASDAQ và S&P 500 sụt giảm mạnh nhất kể từ sau

sự kiện 11/9/2001.
Ngày 17/09: Cục dự trữ liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp công ty
này tránh phá sản.
Ngày 19/09: Kế hoạch giải cứu tài chính của Bộ trưởng tài chính Paulson trị giá
700 tỷ đô la được công bố sau một tuần bất ổn trên thị trường tài chính và nợ tín
dụng. Tuy nhiên, quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự thảo này.
[Type text] Page 12
Ngày 26/9: Ngân hàng Washington Mutual – ngân hàng tiết kiệm lớn nhẩt Mỹ
được chính phủ tiếp quản và sau đó được bán lại cho JP Morgan Chase& Co với
giá 1.9 tỷ đôla
Ngày 29/09: QH Mỹ bác bỏ kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ do bộ Tài
chính Mỹ đề xuất.
Ngày 30/09: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân hàng cho
vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ cho đối thủ
Citigroup.
Ngày 23/11 trong một động thái chưa từng có, cả 3 cơ quan quản lý tài chính
quan trọng nhất của Mỹ đồng thuận đưa ra gói giải pháp trị giá 20 tỷ USD và bảo
lãnh toàn bộ nợ của Citigroup, nhằm kéo tập đoàn có ảnh hưởng toàn cầu này khỏi
nguy cơ sụp đổ.
Ngày 25/11: Fed tuyên bố sẽ mua lại những khoảng cầm cố chứng khoán trị giá
khoảng 500 tỷ USD của Fannie Mae, Fredddie Mac và cả Ginnie Mae. Thêm vào
đó, khoảng 100 tỷ USD đã được bỏ ra để mua lại các khoảng nợ của Fannie,
Fredddie và Federal Home Loan Banks
Khủng hoảng tài chính là mối quan tâm hàng đầu của dân chúng Mỹ và thế giới.
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa hôm nay, khủng hoảng tài chính và sự trì trệ của
nền kinh tế Mỹ đang và sẽ ảnh hưởng đến nhiều nước trên thế giới.Vì nền kinh tế
Mỹ được coi là đầu tàu của thế giới.
Rất nhiều quốc gia phụ thuộc vào Mỹ. Vì vậy đã có rất nhiều phân tích nguyên
nhân và thực trạng cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và ảnh hưởng của nó đến kinh
tế các nước, trong đó có Việt Nam.

2. Nguyên nhân :
2.1 Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính
lần này là sự suy sụp của thị trường bất động sản.
Hầu hết người dân Mỹ khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàg và trả lại lãi lẫn vốn
trong một thời gian dài (20-30 năm) sau đó, với lãi suất thả nổi (điều chỉnh tăng
theo thời gian). Do đó, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa lãi suất và tình trạng của thị
trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua
[Type text] Page 13
nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao thì người bán nhiều hơn người mua,
đẩy giá nhà xuống thấp. Có 3 yếu tố chính tạo bong bóng thị trường bất động sản
Thứ nhất, từ đầu năm 2001, đặc biệt là sau cuộc khủng bố 11 tháng 9, khi mà
sau vụ khủng bố giá các cổ phiếu mỹ sụt giảm ,để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì
trệ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các
ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản. Vào giữa năm 2000 thì
lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt
giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%.
Hai là, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo có nhà ở của
Chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo được vay
tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai
công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac. Hai công ty
này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay
của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm
bằng các khoản vay thế chấp, rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là
các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.
Ba là kế ước nhận nợ của người mua nhà trở thành một loại chứng khoán
(chứng khoán phái sinh), được ngân hàng thông qua người môi giới đưa vào giao
dịch mua bán lại trên thị trường (thị trường thứ cấp). Trên thị trường mua đi bán
lại, nhiều người đầu tư cá nhân thông qua người môi giới đã bỏ tiền ra mua loại
chứng khoán này mà họ không hiểu được nó là cái gì, chỉ biết hàng năm được tiền
lãi.

Vì vậy thị trường bất động sản trở nên rất xôi động, có rất nhiều người thu
nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có thể được
vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thường được cho mượn
dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian, khoản tiền cho vay dành cho
nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở năm
2001 lên 540 tỉ vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm 2007( 10% GDP của MỸ).
Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo hiểm
do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty khác, chẳng hạn như
Lehman Brothers.
Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động
sản liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm từ 2001
đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên.
Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng
[Type text] Page 14
trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Do
đó, một bong bóng đã thành hình trong thị trường bất động sản.
Nhưng từ 2 năm trở lại đây, giá bất động sản không ngừng giảm xuống, giá trị
các căn hộ ngày càng thấp hơn các khoản tín dụng đã cấp. Hạn mức tín dụng giảm
xuống thì ngân hàng thu hồi nợ, nhưng người mua nhà không có khả năng thanh
toán.
2.2 Cho vay dưới chuẩn - nguyên nhân của sụp đổ thị trường bất động
sản và cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ.
Từ nhiều năm qua, các ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới lỏng tối đa chính sách tín
dụng cho các công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm. Làm nảy sinh những
dòng vốn vay giá rẻ và gia tăng một lượng lớn người đi vay tiền. Trên thực tế, vốn
vay rẻ sẽ làm mất đi ý thức phòng ngừa rủi ro của người đi vay. Người đi vay dể
dàng trong việc định giá lại tài sản để tiếp tục một khoảng vay mới nhằm trả cho
khoản vay cũ. Bên cạnh đó, việc cung cấp tín dụng dễ dàng như: không cần tài sản
thế chấp, tỷ lệ trả trước rất thấp, chỉ cần có mã số thuế. Hoạt động cho vay này
thật sự không đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng vẫn

được vay đã làm gia tăng rủi ro cho các ngân hàng, và bất động sản tăng giá họ sẽ
được hưởng lợi. Về phía ngân hàng, tuy hình thức cho vay này rủi ro rất lớn,
nhưng các ngân hàng vẫn chấp nhận để đổi lại một mức lãi suất rất cao. Mặt khác
các công ty tài chính cũng thực hiện hình thức cho vay này một cách rộng rãi và
chuyển rủi ro qua ngân hàng và nhà đầu tư thông qua một sản phẩm tài chính gọi
là “mua lại các khoản nợ hay khoản phải thu”.
Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho ngân hàng với một chiếc khấu
cao, ngân hàng và các tổ chức tài chính chuyên biệt sẽ chứng khoán hoá các khoản
phải thu, nghĩa là phát hành các chứng khoán để vay tiền với lãi suất rất cao. Rõ
ràng là rủi ro chồng rủi ro, và đương nhiên là các chứng khoán có mức độ xếp
hạng tín nhiệm càng thấp thì tỷ suất sinh lợi càng cao, thậm chí có chứng khoán
không có mức độ xếp hạng tín nhiệm nhưng vẫn được nhà đầu tư trên toàn thế giới
chấp nhận do lãi suất siêu hạng.
[Type text] Page 15
Một lượng vốn đầu tư khổng lồ trên thế giới đã đổ vào thị trường bất động sản
Mỹ và khi thị trường đóng băng vào giữa năm 2007, các vụ đổ vỡ dây chuyền đã
xảy ra. Các nhà đầu tư bất động sản vay tiền không đủ khả năng trả lãi vay, bất
động sản không bán được, chứng khoán phát hành trên các khoản phải thu này sụt
giá thê thảm, các ngân hàng không đủ khả năng trả các khoản nợ lâm vào tình
trạng phá sản.
Sản phẩm tài chính hiện đại nhưng nhiều rủi ro này chính là nguyên nhân cho
cuộc khủng hoảng tài chính cho vay dưới chuẩn.

2.3 Một số nguyên nhân khác:
a) Mua bán khống
Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến cho
vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên
một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào
đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền
chênh lệch họ sẽ hưởng trọn.Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống

đến hai lần (naked short sale), tức là không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra
lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới
giao cổ phiếu.
b) Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ
Có tiền, các công ty cứ thoải mái cho người vay bằng tiền của các ngân hàng
đầu tư cung cấp thông qua mua lại danh mục cho vay của các công ty này. Các
ngân hàng này trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại sẽ phát hành CK để vay
tiền. Danh mục cho vay được chia ra, ít rủi ro, rủi ro cao, tùy định mức tín nhiệm,
nhà đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của mình. Có loại CK không cần
định mức tín nhiệm, có thể thu lãi cao nhưng rủi ro cũng lớn.
Như vậy, rủi ro trong cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty tài
chính sang NH đầu tư. Nhà đầu tư trên thế giới đã đổ tiền mua CK này, nhờ vậy đã
cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường bất động sản ở Mỹ tăng nóng.
Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel kinh tế
2001, kết luận: “Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai trách
[Type text] Page 16
nhiệm chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính
Mỹ đã không làm những gì mà nó đáng ra phải làm - chẳng hạn như tạo ra các sản
phẩm để giúp người Mỹ quản lý được những rủi ro nguy hiểm nghiêm trọng của
mình, như là giữ lại được nhà khi mức lãi suất cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà
rớt giá”.
c) Khủng khoảng niềm tin
Sự sụp đổ của một loạt các ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực đầu tư của Mỹ
đã làm người dan Mỹ và tiêu dùng ảnh hưởng nghiẹm trọng, nhất là khi ở các
nước phát triển là một nền kinh tế tiêu dùng.
Hệ thống các ngân hàng trong con mắt mọi người trở nên monmh manh khi mà ba
trong năm ông lớn tại thị trường phố Wall sụp đổ là Merrill Lynch, Lehman
Brothers, Bearstearns.
Thị trường tài chính dựa trêm nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã bị xói
mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman Brothers là biểu tượng đánh dấu mức độ

tin cậy đã xuống một mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp tục. Một ngân
hàng tồn tại hơn 158 đã cùng người Mỹ trải qua rất nhiều khó khăn, trải qua các
cuộc suy thoái cùng nước Mỹ lại sụp đổ. Quả thật là một cú sốc lớn đối với toàn
bộ người dân Mỹ.
2.4 Sự lầm tưởng sức mạnh của nước Mỹ
Đã từ lâu từ sau chiến tranh thế giới thứ II người dân vẫn nghĩ họ là một quốc gia
hùng mạnh với kinh tế “khỏe mạnh”. Họ vẫn nghĩ mình là nước giàu có hơn bất
kỳ quốc gia nào. Cùng với những hình thức thanh toán mới người tiêu dùng nhiều
hơn trong khi bản thân họ không thể sản xuất đáp ứng được nhu cầu đó. Hàng
năm người dân Mỹ tiêu thụ một lượng hàng hóa mà họ không có khử năng chi trả
khoảng 80 tỷ USD.
Người dân MỸ không có xu thế tích kiệm trước khi khủng hoảng diễn ra. Ví dụ là
các công ty ôtô Mỹ khi các loại ôtô cùng loại của Nhật(Toyota, Honda…) và Châu
Âu tốn ít xăng hơn thì những chiếc ôtô Ford, GM thường
[Type text] Page 17
3. Tác dộng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu :
3.1 Tác động đối với thế giới :
3.1.1.Ngắn hạn :
Trong ngắn hạn, năm 2009, chắc chắn kinh tế Mỹ không tránh khỏi suy thoái trầm
trọng. Dù được chính phủ bơm tiền vào các ngân hàng thương mại và mua các
chứng khoán chỉ còn ít giá trị, hệ thống tín dụng không thể hoạt động bình thường
lại ngay. Thông qua hai gói kích cầu của hai vị tổng thống G.W. Bush 700 tỷ và B.
Obama 787 tỷ usd.
Hơn nữa, các nhà đầu tư vẫn còn hoang mang cao độ do chưa biết rõ hết mức độ
nghiêm trọng của sự mất mát. Họ nghĩ rằng tin xấu rồi sẽ hiện ra nữa.
Tâm lý sợ hãi hiện đang bao trùm lĩnh vực tài chính. Các ngân hàng rất dè chừng
trong việc cho vay, làm ảnh hưởng đến sản xuất của doanh nghiệp và đến khả
năng chi tiêu của dân chúng đối với các hàng hóa lâu bền như xe hơi. Mặt khác, cổ
phiếu mất giá và giá bất động sản giảm mạnh, giá trị danh nghĩa của tài sản người
dân giảm mạnh theo và do đó tiêu dùng trong dân đang và sẽ giảm mạnh. Sự đình

trệ cả hai mặt cung và cầu sẽ làm kinh tế Mỹ suy thoái nặng.
Vì các yếu tố đó, các dự báo về kinh tế Mỹ đều cho thấy những con số khá bi
quan. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), năm 2008 kinh tế Mỹ phát triển 1,6% và
năm 2009 gần như không tăng trưởng (0,1%). Nếu xét từng quý thì tình huống
trước mắt trầm trọng hơn.
Các nhà kinh tế hàng đầu đang xây dựng mô hình khủng hoảng theo mô hình nào.
Theo hình chữ L ,V ,W. Do đó có một số thời điểm với những báo cáo khả quan
về kinh tế, nhưng có lẽ đó chỉ là dấu hiểu tăng trưởng trong ngắn hạn mà chưa hẳn
thoát được ra ngoài khủng hoảng một cách thực sự.
3.1.2. Dài hạn :
Nhìn vấn đề trong tương lai xa hơn, hiện nay có nhiều đánh giá khác nhau.
Tình hình của Mỹ hiện nay giống với cuộc đại khủng hoảng trong thập niên 1930
hoặc giống với thời kỳ suy thoái của Nhật trong thập niên 1990. Đại khủng hoảng
thập niên 1930 làm cho Mỹ mất 10 năm mới đưa mức sản xuất trở lại thời trước
khủng hoảng. Nhật cũng mất hơn 10 năm mới ổn định được hệ thống tín dụng và
khôi phục nền kinh tế. Từ các so sánh này, nhiều người lo là sự suy thoái hiện nay
của kinh tế Mỹ có thể kéo dài tới 10 năm.
[Type text] Page 18
Tuy nhiên, so với đại khủng hoảng thập niên 1930, các đối sách của Mỹ hiện nay
không đơn độc mà có sự hợp tác của những nền kinh tế lớn vì sự tùy thuộc vào
nhau, nhất là thị trường tài chính đã lên cao độ, Mỹ sụp đổ sẽ kéo theo sự bất ổn ở
các nền kinh tế khác. Hiện nay việc hợp tác đã bắt đầu trong chính sách lãi suất.
Ngày 09/10/2008 cùng với Mỹ, ngân hàng trung ương của các nước lớn giảm lãi
suất ngắn hạn hàng loạt (Mỹ còn 1,5%, khối Euro 3,75% ). Riêng Nhật lãi suất
đã ở mức quá thấp (0,5%) nên kỳ này không thay đổi. Nỗ lực này có mục đích
giảm phí tổn điều động vốn của ngân hàng, giảm phí tổn vay vốn của doanh
nghiệp và người tiêu thụ nhằm kích thích sản xuất và chi tiêu. Trong những ngày
tới, nếu cần, các nước sẽ can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối để tránh sự
biến động đột ngột trong tỷ giá các đồng tiền chính.
Thêm vào đó, khác với thập niên 1930, hồi đó Mỹ và nhiều nước khác đều gặp

khó khăn ở mức độ gần như nhau, hiện nay kinh tế thế giới ngoài Mỹ phát triển
khá mạnh. Năm 2007, tăng trưởng ở Mỹ chỉ có 2% trong khi thế giới là 5%. Theo
dự báo của IMF, năm 2008 Mỹ tăng trưởng 1,6% trong khi thế giới 3,9%.
Cùng với cơ chế hợp tác đã có của các nước lớn, sự năng động của kinh tế thế giới
là điều kiện về thị trường giúp kinh tế Mỹ mau hồi phục. Hiện nay tỷ lệ thất
nghiệp của Mỹ độ 6%, có thể sẽ tăng lên trong năm 2009 nhưng, với các lý do vừa
nói, không thể có chuyện tăng lên tới mức 25% của thập niên 1930.
Một điểm nữa là chính phủ ngày nay đóng vai trò quan trọng hơn và hiệu quả hơn
vì có các cơ chế làm dịu tác động của khủng hoảng so với thập niên 1930. Để
giảm sự lo âu cho những người gửi tiết kiệm ở ngân hàng với số tiền lớn, chính
phủ đã nâng mức bảo hiểm số tiền gửi từ 100.000 USD lên 250.000 USD trong
đầu tháng 10 này.
So với Nhật vào thập niên 1990, tình hình của Mỹ hiện nay cũng khác ít nhất ở hai
điểm. Thứ nhất, thị trường bất động sản của Nhật cuối thập niên 1980 và đầu thập
niên 1990 tăng nhanh đến mức quá cao một cách bất thường, hình thành nền kinh
tế bong bóng quá lớn nên khi nổ tác động rất mạnh đến hoạt động sản xuất và tiêu
thụ.
Tình hình của Mỹ hiện nay phức tạp hơn do các công cụ đầu tư tinh vi, khó kiểm
soát, nhưng riêng về giá bất động sản, sự biến động tăng giảm không lớn lắm so
với Nhật Bản 15 năm trước. Thứ hai, trong thập niên 1990 Nhật bị giảm phát nặng
nên lãi suất danh nghĩa giảm đến gần số không nhưng lãi suất thực vẫn cao. Hiện
nay Mỹ lạm phát vài phần trăm nên dễ dùng chính sách tiền tệ kích thích sản xuất
hơn Nhật hồi thập niên 1990.
[Type text] Page 19
Các yếu tố làm cho kinh tế Nhật hồi phục từ năm 2003 cũng cho thấy những gợi ý
cho khả năng hồi phục của kinh tế Mỹ hiện nay. Một mặt Nhật can thiệp tích cực
vào thị trường ngoại hối giữ cho đồng yen ở mức thấp, nhờ đó đẩy mạnh xuất
khẩu. Mặt khác, chính phủ bơm tiền vào ngân hàng, giải quyết vấn đề thiếu vốn
cho vay.
Ngoài ra, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng cao suốt cả một giai đoạn dài góp phần

tăng ngoại nhu để kinh tế Nhật chóng hồi phục. Cả 3 yếu tố này ngày nay cũng có
thể thấy trong trường hợp của kinh tế Mỹ. Do đó, vấn đề nợ xấu của Mỹ có lẽ
không kéo dài như Nhật 15 năm trước. Có thể từ cuối năm 2009 kinh tế Mỹ có
triển vọng bước vào quá trình hồi phục.
Với tình hình khủng hoảng tình trạng thất nghiệp sẽ ra tăng. Tại Mỹ con số thất
nghiệp đã lên tới 9,5%, tại khu vực châu Âu là là 9,8%. Riêng tại Đức đầu tàu kinh
tế Châu Âu đã là 9%. Riêng ở Nhật là 5,5 %. Tình trạng thất nghiệp sẽ là thach
thức đối với các nước. Khi mà chỉ số thất nghiệp luon là chỉ tiêu đánh giá nền kinh
tế. Việc thất nghiệp cao tạo sức ép lên ngân sách nhà nhà nước khi phải hỗ trợ tiền
trợ cấp. Trong khi ngân sách của các nước hiện nay có xu hướng thâm hụt cao.
tiêu hao nhiên liệu gấp đôi.
3.1.3 Nguy cơ khủng hoảng nợ công sau khủng hoảng kinh tế :
Khủng hoảng tài chính khiến cả thế giới bị chịu tác động. Không những thế nó
còn tác động lớn khi cuộc khủng hoảng đi qua. Măc dù cuộc khủng hoảng chưa có
dấu hiệu kết thúc các ngân hàng , tổ chức tài chính trên thế giới lần lượt nộp đơn
phá sản hoặc sáp nhập , bán lại . Các nước trên thế giới gặp khó khăn trông việc
tạo dựng việc làm cho nhân dân khi mà tình trạng thất nghiệp trở nên nghiêm
trọng. Thì dấu hiểu khủng hoạng nợ công đã được thấy dõ một cách rõ hơn khi mà
tổng số nợ công trên thế giới đã ở mức 35000 tỷ USD. Tình hình nợ công không
chỉ diễn ra tại các nước nhỏ mà ngay cả các nước lớn những đầu tàu kinh tế thế
giới. Ngay cả đầu tau kinh tế Mỹ cũng đã nợ tới 11500 tỷ USD , tổng số nợcủa Mỹ
chiếm tới 80% GDP của nước này.Hay nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới là
Nhật cũng đã nợ tới 10000 tỷ USD gấp đôi GDP của nước này.
Có thể nói chưa bao giờ các nước trên thế giới lại vay nợ nhiều như bây giờ kể từ
sau chiến tranh thế giới lần thứ II 1945. Việc vay nợ nhiều đã trở thành một vấn đề
ngay từ bây giờ không phải là câu chuyện trước mắt.
[Type text] Page 20
Nếu như sau chiến tranh thế giới thứ II với kế hoạch Mashall của mình thì Mỹ là
chủ nở của các nước châu Âu thì hiện tại tất cả đều là những người đang phải chịu
nợ.

Thứ nhất ở các nước phát triển đứng trước tình thế là đảm bảo an sinh xã hội.
Khi mà ở các nước này tình hình dân số già và việc phải trả một khoản tiền lớn
cho lương hưu hay trợ cấp sẽ khiến tình hình nợ công trở nên khó khăn hơn. Đơn
cử Nhật Bản với tuổi thọ bình quân khoảng 86 tuổi thì việc đáp ứng nhu cầu của
người dân sẽ là thach thức lớn. Cộng thêm khoản trợ cấp thất nghiệp khi mà tinh
hình thất nghiệp đang ngày càng cao.
Thứ hai : Với các gói kích cầu của từng quốc gia. Với những số tiền lớn như vậy
cũng tạo nên khoảng thâm hụt ngân sách của mình. Nguy cơ vỡ nợ ở các quốc gia
yếu. Và điều đó đã được minh chứng tai Ireland và Rumani. Hay một số các quốc
gia Hy Lạp , Italia, Tây Ban Nha.
3.2 Tác động đối với Việt Nam :
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ có tác động trực tiếp thế nào đến Việt Nam?
Điều đó phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế giữa 2 nước.Tình hình hội nhập mở
cửa của Việt Nam có sâu rộng với kinh tế Mỹ và thế giới hay không? Xét trên khía
cạnh Đầu tư, hiện nay, Mỹ đứng thứ 6 trong số các nước đầu tư vào Việt Nam. Mỹ
cũng là nhà đầu tư (NĐT) lớn, nếu cộng cả giá trị đầu tư qua các nước thứ 3 thì
Mỹ là NĐT số 1 vào Việt Nam trong nhiều năm qua. Các dự án từ Mỹ vào Việt
Nam phần lớn là giai đoạn đầu và tập trung nhiều vào hạ tầng dài hạn. Ngược lại,
quan hệ về ngắn hạn chúng ta xuất sang Mỹ nhiều hơn. Trên lĩnh vực thương mại,
Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 23-
25%. Còn lại, quan hệ giữa 2 hệ thống tài chính, ngân hàng gần như không đáng
kể.
Về các tác động gián tiếp, Việt Nam chưa vào sâu trong cuộc chơi toàn cầu nên
đang có lợi thế là cơn tác động này chưa lan tới. Các nền kinh tế khác trong những
ngày qua đã bị ảnh hưởng. Lợi thế này tạo cho chúng ta cái nhìn tốt về một nền
kinh tế “an bình” không bị bão táp làm tan vỡ. Chính điều này đã quyết định tính
chất và quy mô của cơn địa chấn này đến nền Cuộc khủng hoảng này tác động đến
[Type text] Page 21
kinh tế Việt Nam trên một số mảng cơ bản: Lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc
tế tăng dẫn đến nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng thương mại và các

doanh nghiệp tăng, làm cho người dân dự đoán đồng USD giảm nên họ đã rút
đồng USD ra khỏi ngân hàng hoặc bán USD mua tiền Việt Nam gửi vào,…
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng về mặt tiền tệ đối với Việt Nam có lẽ không
đáng kể. Nếu như cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ nền kinh tế Mỹ ảnh hưởng ngay
lập tức tới các nền kinh tế hùng mạnh khác, thì cơn bão này đến Việt Nam chậm
hơn 1 nhịp. Nếu như sức tàn phá của cuộc khủng hoảng ở hầu hết các nước thể
hiện đầu tiên và rõ nét nhất là hệ thống tài chính, ngân hàng, thì ở Việt Nam lại thể
hiện trước hết là ở lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Sức ảnh hưởng mạnh nhất lại đè lên vai hàng triệu người nông dân, thợ thủ công
tham gia sản xuất hàng xuất khẩu. Những loại chứng khoán mà hiện nay đang có
vấn đề của những công ty chứng khoán và bảo hiểm của Mỹ chưa bán ở Việt Nam.
Hệ thống tiền tệ và thị trường vốn, thị trường chứng khoán ở Việt Nam chưa lành
mạnh, dễ tổn thương, dễ lâm vào bất ổn chủ yếu là do các yếu tố trong nội bộ Việt
Nam như thiếu tính công khai, thiếu minh bạch, dân chúng khó tiếp cận, tồn tại
giao dịch nội gián , chứ không liên quan nhiều đến cuộc khủng hoảng ở Mỹ.
Nghành ngân hàng Việt Nam bị ảnh hưởng không đáng kể bởi hầu hết các NH
Việt Nam là NHTM, phục vụ cho vay tiêu dùng, cho vay doanh nghiệp, độ phân
tán rủi ro cao và không có sự liên thông đầu tư với các ngân hàng đầu tư lớn của
Mỹ như các nước khác.
Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu tư. Nếu có
chăng cũng chỉ có thể xảy ra khả năng một số nhóm nhà đầu tư sẽ làm động tác
“xả hàng” cổ phiếu ngành ngân hàng nhằm làm trầm trọng thêm tình hình để kéo
giá cổ phiếu ngân hàng xuống“.
Đầu tư trực tiếp (FDI) ở Việt Nam có lẽ cũng không bị ảnh hưởng nhiều từ
cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Mỹ. Các nhà đầu tư chính ở Việt Nam là Nhật, Hàn
Quốc, Đài Loan Ngay cả những công ty chế tạo của Mỹ nếu có kế hoạch đầu tư
vào Việt Nam cũng sẽ không vì cuộc khủng hoảng này mà đình hoãn kế hoạch đó.
Kinh nghiệm của thập niên 1990 cho thấy kinh tế Nhật suy thoái hầu như không
ảnh hưởng gì đến FDI của họ ở Trung Quốc và Việt Nam. Kinh nghiệm của Intel
tại Việt Nam cũng cho thấy công ty này chậm triển khai kế hoạch đầu tư ở nước ta

chủ yếu vì không bảo đảm được nguồn nhân lực có trình độ cao cần thiết. Theo
[Type text] Page 22
một khảo sát gần đây thì các doanh nghiệp nước ngoài khi được hỏi họ nước nào
là địa điểm mà họ sẽ chú trọng đầu từ vào? Thì Việt Nam được nhiều người chọn
lựa là thị trường mục tiêu hàng đầu. Vì VIệt Nam có tình hình chính trị ổn định
cộng thêm cơ sở pháp lý của Việt Nam ngày càng được cải cách , làm thuận lợi
cho các nhà đầu tư nước ngoài. Cộng thêm khu vực châu Á nói chung và Việt
Nam nói riêng ít bị chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng và được dự đoán là khu vực
sẽ hồi phục nhanh sau khủng hoảng.
Lĩnh vực xuất khẩu: Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nhất từ cuộc suy thoái của
Mỹ có lẽ là ở lĩnh vực xuất khẩu. Hiện nay Mỹ chiếm hơn 20% tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng phần lớn sản phẩm của ta xuất khẩu sang Mỹ là
hàng may mặc, giày dép và hàng thủy sản nên trước mắt chỉ những mặt hàng này
gặp khó khăn. Dù Mỹ không gặp khủng hoảng, việc tập trung xuất khẩu một số
mặt hàng nhất định sang Mỹ dễ gây va chạm với các nhà sản xuất bản xứ. Vấn đề
của Việt Nam là phải nỗ lực chuyển dịch cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu theo
hướng cao cấp hơn, đa dạng hơn. Trong thời gian trước mắt, Việt Nam nên củng
cố sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp để khi kinh tế Mỹ hồi phục sẽ triển
khai chiến lược xuất khẩu với nhiều mặt hàng đa dạng hơn.
Đối với hoạt động xuất khẩu khoáng sản, nhiên liệu
Trước khi chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, sản phẩm dầu
thô xuất khẩu chỉ tăng nhẹ trong mấy năm đầu của giai đoạn 2001 – 2006 sau đó
giảm dần. Sự sụt giảm là do các mỏ dầu đã cạn kiệt trong khi việc thăm dò và mua
các mỏ dầu mới của các nước khác không mấy tiến triển khi xảy ra suy thoái.
Nhiều nền kinh tế lớn bắt đầu từ Nhật, Nga, EU lâm vào tình trạng suy thoái, Mỹ
chính thức lâm vào suy thoái từ tháng 12/2007 thì giá dầu thô sụt giảm mạnh cùng
với đó là nhu cầu xây dựng đi xuống ảnh hưởng tới mặt hàng dầu của Việt Nam,
đang từ ngưỡng cao xuống còn 50 USD/thùng. Kinh tế thế giới bước vào giai đoạn
suy thoái khiến giá dầu giảm mạnh, giá dầu giảm tác động đến nguồn thu từ dầu
mỏ Việt Nam. Tuy không chịu ảnh hưởng về thị trường nhưng chịu ảnh hưởng về

giá. Kim ngạch xuất khẩu nhóm này trong năm 2008 đạt gần 5 tỷ USD giảm
40,1% tương đương 3,35 tỷ USD, trong đó giảm do giá giảm 4,83 tỷ USD và tăng
do lượng khoảng 1,48 tỷ USD. Lượng dầu thô xuất khẩu năm 2008 là 14,5 triệu
tấn và bắt đầu giảm từ năm 2009 xuống còn 12 triệu tấn, năm 2010 còn 11 triệu
tấn tương đương với việc làm giảm kim ngạch từ 11,3 tỷ USD năm 2008 xuống
[Type text] Page 23
còn 7,2 tỷ USD năm 2009, 6,6 tỷ USD năm 2010. Mức giá dự tính dự tính sẽ giao
động ở mức trung bình khoảng 70 – 80 USD/thùng.Về than đá, cũng sẽ giảm dần
do chủ trương kiểm soát chặt chẽ xuất khẩu tài nguyên, mức xuất khẩu than duy trì
23 triệu tấn năm 2008 xuống mức 20 triệu tấn năm 2009 và 18 triệu tấn năm 2010.
Dự kiến kim ngạch năm 2010 đạt 1,5 tỷ USD.
Đối với hoạt động xuất khẩu nông, lâm, thủy sản
Do kinh tế Việt Nam đã mở cửa hội nhập khá sâu vào nền kinh tế khu vực và thế
giới nên không thể tránh khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này. Hoa Kỳ ,
EU, Trung Quốc là những thị trường quan trọng, có sức tiêu thụ lớn hàng nông,
lâm, thủy sản Việt Nam.
Trước khủng hoảng hàng xuất khẩu của Việt Nam đã bị cạnh tranh ngày càng
khốc liệt bởi hàng xuất khẩu cùng loại của một số nước, hơn nữa khả năng sản
xuất mặt hàng nông, thuỷ sản gặp nhiều khó khăn, còn vấp phải nhiều rào cản
thương mại quốc tế và mức tăng tỷ giá trong những tháng đầu năm 2009 đã làm
cho khả năng xuất khẩu năm giảm hơn so với năm 2008.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông, lâm, thủy sản chính của Việt Nam
sang Hoa Kỳ tăng lên từ 619 triệu USD (năm 2001) đến 1,8 tỷ USD trong 9 tháng
đầu năm 2008. Khi khủng hoảng tài chính, tín dụng xảy ra, kinh tế Mỹ và các
nước EU gặp khó khăn sức tiêu dùng giảm nên hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị
trường lớn này gặp khó khăn. Những tác động này đã bắt đầu bộc lộ từ giữa tháng
9 năm 2008, xuất khẩu chững lại giá xuất khẩu các mặt hàng nông sản đều giảm so
với các tháng trước, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 9/2008
đạt 1,45 tỷ USD tăng 32,6% so với tháng 9/2007 và giảm 11% so với tháng
8/2008.

Đối với nhóm hàng công nghiệp chế biến
Năm 2008, do chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế thế giới nên hoạt động xuất
khẩu diễn biến không theo quy luật, những tháng đầu năm xuất khẩu gặp thuận lợi
về giá, kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao trong 2 tháng 7 và 8 tuy nhiên đến tháng
9 xuất khẩu giảm mạnh và tiếp tục giảm trong những tháng cuối năm. Nhu cầu của
thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, các đơn đặt hàng xuất khẩu dệt may, đồ gỗ vào
Mỹ và EU đều giảm do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
[Type text] Page 24
Trong khi thị trường xuất khẩu gặp khó khăn thì các chi phí đầu vào không giảm
thậm chí còn tăng cao. Năm 2008, Việt Nam xuất khẩu được khoảng 64,8 tỷ USD,
trong đó khoảng 32,1% giá trị xuất khẩu là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản,
45,2% là hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, 23,5% là hàng nông, lâm,
thuỷ sản.
Nhóm hàng công nghiệp chế biến, công nghiệp và thủ công mỹ nghệ chịu ảnh
hưởng nhiều nhất từ tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu do nhu cầu của các
mặt hàng này giảm mạnh. Trong những tháng đầu năm 2009, xuất khẩu các mặt
hàng dệt may, da giày, đồ gỗ đều gặp khó khăn do thị trường tiêu thụ bị thu hẹp,
các đơn hàng xuất khẩu dệt may, đồ gỗ, giày dép vào Mỹ và EU đều giảm, nhiều
hàng rào phi thuế quan và các biện pháp bảo hộ mậu dịch của các nước được dựng
lên. Chi phí đầu vào phục vụ cho sản xuất vẫn tăng cao như lương công nhân và
lãi suất ngân hàng. Tuy nhiên đến tháng 5, tháng 6/2009 kinh tế thế giới đã bắt đầu
phục hồi kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2009 đạt 20,2 tỷ USD giảm 47%
so với năm 2008. Lĩnh vực công nghiệp, mặt hàng dệt may đạt 9,06 tỷ USD giảm
0,6% so với năm 2008, da giày đạt khoảng 4,1 tỷ USD, xuất khẩu đồ gỗ với nhiều
nỗ lực đạt khoảng 2,7 tỷ USD trong năm 2009.
Đối với Bất động sản:
Chỉ có FDI vào lĩnh vực khu cao ốc văn phòng, resort cao cấp là có thể bị ảnh
hưởng, tuy nhiên sự suy giảm trong lĩnh vực đầu tư này không phải là điều đáng
quan ngại.
Đối với Thị trường chứng khoán:

Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu tư (NĐT).
Còn hoạt động của thị trường chứng khoán vẫn do các yếu tố nội tại của nền kinh
tế nước ta quy định. Điều này thấy rõ nhất khi mà thị trường chứng khoán Việt
Nam không còn quá bị ảnh hưởng của khối ngoại. Nhưng tháng qua mặc cho các
quỹ đầu tư nước ngoài thoái vốn hay khối ngoại bán ròng thì thị trường chứng
khoán VIệt Nam vẫn sôi động . Về mặt tâm lý ảnh hưởng lớn đến thị trường do thị
trường chứng khoán Việt Nam mới được hình thành vì vậy việc chạy theo đám
đông là điều không thể chánh khỏi ở thị trườn Việt Nam. Mặc cho các công ty
chứng khoán tại VIệt Nam có mối quan hệ làm ăn với các công ty tổ chức nước
ngoài hay không thì thị trường vẫn bị ảnh hưởng theo.
[Type text] Page 25

×