Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Đề tài " Nợ nước ngoài của Việt Nam thực trạng và các biện pháp đề xuất " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733.68 KB, 32 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài: Nợ nước ngoài của Việt Nam thực trạng và các
biện pháp đề xuất
, Tháng năm

MỤC LỤC
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Lời mở đầu
PHẦN 1: Khái niệm, phân loại và vai trò của nợ nước ngoài Việt Nam
1.1. Khái niệm
1.2. Phân loại nợ nước ngoài
1.3.Vai trò của Nợ nước ngoài
1.4. Phương pháp xác định
PHẦN 2: Thực trạng về nợ nước ngoài ở Việt Nam nguyên nhân và hạn chế của
công tác quản lý nợ
2.1. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam
2.1.1. Các phương thức vay nợ chủ yếu của Việt Nam
2.1.2. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam
2.1.2.1 Tình hình chung
2.1.2.2 Lãi suất vay nợ của Việt Nam hiện nay
2.1.2.3 Cơ cấu nợ vay của Việt Nam
2.1.2.4 Các khoản nợ nước ngoài của việt nam một số năm gần đây
2.1.2.5. Hiệu quả sử dụng nợ vay
2.2. Tình hình quản lý nợ nước ngoài tại Việt Nam
2.2.1.Những thành tựu nổi bật của công tác quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam
2.2.1.1.Quản lý nợ nước ngoài đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh
tế và thu hút nguồn vốn ODA
2.2.1.2. Khung thể chế quản lý nợ nước ngoài đã được từng bước hoàn thiện
2.2.1.3.Hệ thống tổ chức quản lý nợ nước ngoài đã hoàn thiện và từng bước được
cải thiện


2.2.1.4. Nâng lực cán bộ đang từng bước được nâng cao
2.2.2.Một số tồn tại trong vấn đề nợ nước ngoài hiện nay
2.2.2.1.Tồn tại trong vấn đề vĩ mô
2.2.2.2. Tồn tại trong các chính sách về việc quản lý nợ nước ngoài
2.2.2.3. Tồn tại trong việc đánh giá giám sát hiệu quả nợ nước ngoài
2.2.2.4. Tồn tại trong việc thống kê đúng và đủ về việc thực hiện nguồn vốn được
cấp từ nợ nước ngoài
2.3. Nguyên nhân
2.3.1. Yếu tố lịch sử
2.3.2. Thiếu hụt kinh nghiệm quản lý nợ
2.3.3. Nhiều văn bản cùng điều chỉnh một đối tượng quản lý.
2.3.4. Thiếu hụt đối ngũ cán bộ chuyên môn
2.3.5. Hệ thống và quy trình kiểm định các dự án đầu tư còn yếu kém
2.3.6. Ứng dụng công nghệ thông tin còn yếu kém
PHẦN 3:Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vay và quản lý các khoản vay nợ
nước ngoài của Việt Nam
3.1. Các giải pháp đảm bảo khả năng tiếp nhận nợ vay nước ngoài
3.1.1.Đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững
3.1.2.Lựa chọn danh mục vay nợ hợp lý
3.1.3. Gia tăng dự trữ ngoại hối
3.2. Các giải pháp làm giảm chi phí vay nợ
3.2.1.Chính sách tỷ giá hối đoái
3.2.2. Ổn định lạm phát
3.2.3.2. Gia tăng hệ số tín nhiệm quốc gia
3.3. Các biện pháp sử dụng vốn vay hiệu quả
3.3.1.Kiểm soát nợ nước ngoài
3.3.2. Các biện pháp nhằm sử dụng nợ nước ngoài có hiệu quả
3.4. Các biện pháp quản lý nợ vay nước ngoài
3.5. Các biện pháp hỗ trợ
3.5.1. Ổn định môi trường thể chế

3.5.2. Cải thiện môi trường đầu tư
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế
SNA Hệ thống thống kê tài khoản quốcgia
ODA Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
OECD Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển
WB Ngân hàng Thế giới
WTO Tổ chức thương mại thế giới
JPY Đông Yên Nhật
NIB Ngân hàng đầu tư Bắc Âu
IBRD Ngân hàng quốc tế tái thiết và phát triển
IDA Hiệp hội phát triển quốc tế
IFAD Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế
NDF Quỹ phát triển Bắc Âu
NIB Ngân hàng đầu tư Bắc Âu
OPEC Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á
IFI Tổ chức tài chính quốc tế
GNI Tổng sản lượng quốc gia
XK Xuất khẩu
TC Tài Chính
NHNN Ngân hàng Nhà nước
ICOR Hệ số sử dụng vốn
NHTM Ngân hàng thương mại
FII Nguồn vốn đầu tư gián tiếp
FDI Nguồn vốn đầu tư trực tiếp

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 Đánh giá theo mức độ nợ của các quốc gia theo %
Bảng 2.1 Tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam từ 2003-2010

Bảng 2.2 Các chỉ tiêu về giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam
Bảng 2.3 Quan hệ giữa thâm hụt thương mại và nợ nước ngoài của Việt
Nam giai đoạn 2005-2009
Bảng 2.4 Một số chủ nợ song phương lớn của Việt Nam
Bảng 2.5 Nợ vay từ các tổ chức đa phương của Việt Nam

Đề tài " Nợ nước ngoài của Việt Nam
thực trạng và các biện pháp đề xuất "
Lời mở đầu
Đối với Việt Nam, việc vay mượn vốn nước ngoài để đáp ứng yêu cầu tăng
mức đầu tư trong nước nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong tương lai là một giải
pháp hợp lý. Bởi vì Việt Nam cần nguồn lực con người và vốn cao hơn nữa để cạnh
tranh trên thị trường thế giới với các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn, ví dụ như
sản phẩm điện tử. Mặt khác, Việt Nam vẫn là nền kinh tế đang phát triển nên có thu
nhập tương đối thấp cần phải đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng và con người để nâng tỷ
lệ giá trị gia tăng trong dài hạn với dự kiến chỉ tiêu tăng trưởng GDP bình quân
7,5%-8,5%/năm trong giai đoạn 2011-2015. Song song với đó, Việt Nam đang cần
đầu tư vào các lĩnh vực như bệnh viện, trường học, dạy nghề, phát triển hạ tầng giao
thông, giảm bớt chi phí dịch vụ tiện ích và viễn thông, củng cố môi trường kinh
doanh và tăng cường trình độ các trung tâm nghiên cứu phát triển, xây dựng các
công trình phúc lợi nhằm nâng cao đời sống nhân dân hơn nữa và làm cho bộ mặt
kinh tế đất nước ngày càng thay đổi tốt hơn. Do đó nhóm 2 chọn chủ đề :
“ Nợ nước ngoài của Việt Nam thực trạng và các biện pháp đề xuất .”
Nội dung bài gồm 3 phần chính :
•  Phần 1: Lý luận chung về nợ nước ngoài.
•  Phần 2: Thực trạng nợ nước ngoài và công tác quản lý về vay nợ của Việt
Nam.
•  Phần 3: Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả vay nợ và quản lý nợ nước
ngoài.
Mặc dù cũng rất cố gắng để thực hiện đề tài song do còn là sinh viên nên kiến thức

và lý luận vẫn còn yếu do đó bài làm không sao tránh khỏi những lỗi sai và sự thiếu
sót. Nhóm 2 rất mong nhận được sự góp ý chân thành của cô giáo hướng dẫn để đề
tài đem lại nhiều lợi ích trong thực tế hơn. Nhóm em xin chân thành cảm ơn!
Nhóm thực hiện : Nhóm 2
PHẦN 1: KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA
VIỆT NAM
1.1. Khái niệm:
Nợ nước ngoài là một khái niệm rộng lớn, chứa đựng nhiều yếu tố khác nhau. Do
đó để hiểu được khái niệm nợ nước ngoài, chúng ta cần phải tìm hiểu một số khái niệm cơ
bản sau:
 Nợ : là lượng tiền mà một công ty hoặc một cá nhân nợ một tổ chức
hoặc một cá nhân khác. Nợ phát sinh từ việc vay tiền để mua hàng hoá, dịch vụ và các
tài sản tài chính khác. Một khoản nợ được tạo ra khi người cho vay đồng ý cho người đi
vay một lượng tài sản nhất định.
 Nợ xấu: là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi
lại được và bị xoá sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ.Với hai khái
niệm cơ bản trên chúng ta có thể đi vào tìm hiểu thế nào là nợ nước ngoài? Vậy thì một
câu hỏi đặt ra lúc này là tại sao chúng ta phải tìm hiểu khía cạnh nợ xấu trong
nợ nước ngoài. Lịch sử kinh tế thế giới là một minh chứng hùng hồn nhất cho tấm thảm
kịch nợ không an toàn, đó là các cuộc khủng hoảng nợ xảy ra ở một số khu vực trên thế
giới. Hơn nữa, trong những năm vừa qua thế giới đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Theo nhận định của nhiều chuyên gia hàng đầu trong
lĩnh vực kinh tế, năm 2009 là một năm đầy những khó khăn và thử thách cho
kinh tế thế giới do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, trong đó
khủng hoảng nợ là một bộ phận cấu thành khủng hoảng kinh tế.
Ta có các quan niệm về nợ nước ngoài cụ thể như sau :
• Theo khoản 8 điều 2 quy chế vay và trả nợ nước ngoài (Ban hành kèm theo Nghị
định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ) thì: “Nợ nước ngoài
của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ hiện hành (không bao gồm nghĩa vụ nợ dự
phòng) về trả nợ gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài tại Việt Nam.

Nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ nước ngoài
của khu vực tư nhân”. Như vậy, theo cách hiểu này nợ nước ngoài là tất cả các
khoản vay mượn của tất cả các pháp nhân Việt Nam đối với nước ngoài và không bao gồm
nợ của các thể nhân (nợ của cá nhân và hộ gia đình).
• Trong cuốn Thống kê nợ nước ngoài : Hướng dẫn tập hợp và sử dụng do nhóm
công tác liên ngành của IMF thì khái niệm nợ nước ngoài được hiểu như sau:
“Tổng nợ nước ngoài tại bất kỳ thời điểm nào là số dư nợ của các công nợ
thường xuyên thực tế, không phải công nợ bất thường, đòi hỏi bên nợ phải
thanh toán gốc và/hoặc lãi tại một (số) thời điểm trong tư ơng lai, do đối tượng
cư trú tại một nền kinh tế nợ và đối tượng không cư trú”. Theo khái niệm này,
khái niệm nợ nước ngoài không tách rời khái niệm đối tượng cư trú. Như vậy xét về bản
chất không có sự khác biệt đáng kể trong định nghĩa nợ nước ngoài của quốc gia và quốc
tế. Tuy nhiên định nghĩa về nợ nước ngoài của quốc tế rõ ràng hơn. Khái niệm
nợ nước ngoài của quốc tế về cơ bản mang ý nghĩa thống kê và nhất quán với
SNA. Để đảm bảo tính nhất quán trong cách phân loại nợ nước ngoài, trong
phần dưới đây chúng tôi sử dụng phần định nghĩa chuẩn quốc tế về nợ nước ngoài.
1.2. Phân loại nợ nước ngoài
Việc phân loại nợ nước ngoài có một vai trò quan trọng trong việc công
tác theo dõi, đánh giá vàquản lý nợ có hiệu quả.
 Phân loại theo chủ thể đi vay gồm: nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh và
nợ tư nhân.
• Nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh
Nợ công được định nghĩa là các nghĩa vụ nợ của các khu vực công và bao gồm nợ của khu
vực công cùng với nợ của khu vực tư nhân được khu vực công bảo lãnh.
Nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyền bảo lãnh
được xác định là các công nợ nước ngoài của khu vực tư nhân mà dịch vụ trả nợ được
bảo lãnh theo hợp đồng bởi một đối tượng thuộc khu vực công cư trú tại cùng một nền
kinh tế với bên nợ đó.
• Nợ tư nhân
Loại nợ này bao gồm nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được khu vực

công của nền kinh tế đó bảo lãnh theo hợp đồng. Về bản chất đây là các khoản nợ do
khu vực tư nhân tự vay, tự trả.
 Phân loại theo thời hạn vay gồm: nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
• Nợ ngắn hạn
Nợ ngắn hạn là loại nợ có thời gian đáo hạn từ một năm trở xuống. Vì thời gian
đáo hạn ngắn, khối lượng thường không đáng kể, nợ ngắn hạn thường không thuộc đối
tượng quản lý một cách chặt chẽ như nợ dài hạn. Tuy nhiên nếu nợ ngắn hạn không trả
được sẽ gây mất ổn định cho hệ thống ngân hàng. Đặc biệt khi tỷ trọng nợ ngắn hạn
trong tổng nợ có xu hướng tăng phải hết sức thận trọng vì luồng vốn rút ra đột
ngột có thể gây bất ổn cho nền tài chính quốc gia.
• Nợ dài hạn
Nợ dài hạn là những công nợ có thời gian đáo hạn gốc theo hợp đồng hoặc đã
gia hạn kéo dài trên một năm tính từ ngày ký kết vay nợ cho tới ngày đến hạn khoản
thanh toán cuối cùng. Nợ dài hạn là loại nợ được quan tâm quản lý nhiều hơn do khả năng
tác động lớn đến nền tài chính quốc gia.
 Phân loại theo loại hình vay gồm: vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay
thương mại.
• Vay hỗ trợ phát triển chính thức ODA
Theo định nghĩa của OECD, hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm các chuyển
khoản song phương (giữa các Chính phủ) hoặc đa phương (từ các tổ chức quốc
tế cho Chính phủ), trong đó ít nhất 25% tổng giá trị chuyển khoản là cho không. Tính ưu
đãi của vay hỗ trợ phát triển chính thức. Vay hỗ trợ phát triển chính thức là loại
nợ có nhiều điều kiện ưu đãi, ưu đãi về lãi suất, về thời gian trả nợ và thời gian ân hạn.
Lãi suất của vay hỗ trợ phát triển chính thức thấp hơn nhiều so với vay thương mại. Thời
gian cho vay hỗ trợ phát triển chính thức dài (có thể từ 10, 15 hay 20 năm) và thời
gian ân hạn dài, do vậy các nước đang phát triển thường hướng tới và tận dụng tối
đa nguồn vốn này cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, vay hỗ trợ
phát triển chính thức cũng có những mặt trái của nó. Tính ưu đãi của vay hỗ trợ phát
triển chính thức rất rõ rệt, bên cạnh đó, việc vay nợ hỗ trợ phát triển chính thức
đôi khi kèm theo những điều kiện ràng buộc khiến cái giá phải trả tăng lên đáng kể.

• Vay thương mại
Khác với vay hỗ trợ phát triển chính thức, vay thương mại không có ưu đãi cả về lãi suất
và thời gian ân hạn, lãi suất vay thương mại là lãi suất thị trường tài chính quốc
tế và thường thay đổi theo lãi suất thị trường. Chính vì vậy, vay thương mại thường có
giá khá cao và chứa đựng nhiều rủi ro. Việc vay thương mại của Chính phủ phải được
cân nhắc hết sức thận trọng và chi quyết định vay khi không còn cách nào khác.
 Phân loại nợ theo chủ thể cho vay gồm : nợ đa phương và nợ song phương.
• Nợ đa phương đến chủ yếu từ các cơ quan của Liên hợp quốc, WB, IMF, các ngân
hàng phát triển trong khu vực, các cơ quan đa phương như OPEC và liên chính phủ.
• Nợ song phương đến từ Chính phủ một nước như các nước thuộc tổ chức
OECD và các nước khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân danh một Chính
phủ duy nhất dưới dạng hỗ trợ tài chính, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
1.3. Vai trò của Nợ nước ngoài:
+ Nợ nước ngoài tạo nguồn vốn bổ sung cho quá trình phát triển và tăng trưởng phát triển
kinh tế, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc gia.
+ Góp phần hỗ trợ cho các nước vay nợ tiếp thu được công nghệ tiên tiến, học hỏi được
kinh nghiệm quản lý của các nhà tài trợ nước ngoài.
+ Tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước, góp phần thu hút , mở rộng
các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế đất nước.
+ Góp phần chuyển đổi, hoàn thiện cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa.
Tuy nhiên có thể gây ra hạn chế nếu như ta không quản lý tốt: có thể gây tình trạng nợ lớn,
khó trả, dễ dẫn đến khủng hoảng nợ; dẫn đến sự phụ thuộc vào các chủ nợ vì các khoản nợ
thường gắn với các điều kiện; có thể trở thành bãi rác công nghệ của thế giới; dễ xảy ra
tình trạng tham nhũng, hối lộ…
1.4. Phương pháp xác định:
Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá mức nợ nước ngoài là:
+ Tổng số nợ: tính theo giá trị tuyệt đối của một đồng tiền chuyển đổi tự do nào đó,
thường là USD.
+ Số nợ đã trả: tính theo giá trị tuyệt đối của một đồng tiền chuyển đổi tự do.
+ Tỷ lệ nợ/xuất khẩu (%): nếu < 160% thì mức nợ chưa đáng lo ngại.

+ Tỷ lệ nợ/GDP(%): nếu tỉ lệ này từ 50% trở lên là mắc nợ nhiều.
+ Tỷ lệ trả nợ (%): là tỷ số giũa chi phí trả nợ gốc và ãi chia cho giá trị xuất khẩu hàng
hóa và dịch vụ trong năm nhân với 100.
+ Tỷ lệ trả lãi so với thu nhập xuất khẩu hàng hóa dịch vụ (%) : có nghĩa là khi một số
lớn nợ không trả nợ gốc nữa mà chỉ trả nợ một phần.
PHẦN 2: THỰC TRẠNG VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
NGUYÊN NHÂN VÀ HẠN CHẾ CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NỢ
2.1. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam.
2.1.1. Các phương thức vay nợ chủ yếu của Việt Nam
Ngoài yếu tố tiết kiệm trong nước, các quốc gia đang phát triển – có thể cho là các
quốc gia thiếu vốn - cần sự “giúp đỡ” từ yếu tố “ngoại sinh”, Chính phủ cần phải
huy động các nguồn lực từ bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho quá
trình xây dựng và phát triển đất nước. Nợ của Chính phủ chủ yếu xuất phát từ ba nguồn
chủ yếu sau đây:
• Nợ ODA (Nguồn vốn vay phát triển chính thức - phần cho vay ưu đãi trong khoản
hỗ trợ phát triển chính thức ODA).
• Vay thương mại qua các hợp đồng song phương và đa phương.
• Phát hành trái phiếu quốc tế (một hình thức vay nợ nước ngoài vừa mới được
Chính phủ áp dụng).
2.1.2. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam.
2.1.2.1 Tình hình chung.
Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2010 và nhiệm vụ
năm 2011 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XII, cho biết: “Đến hết năm 2010, dư nợ
Chính phủ tương đương khoảng 44,5% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng
42,2% GDP tăng so với con số 39% của năm 2009 và cao nhất kể từ năm 2006 tương
đương 32,5 tỷ USD tăng 4,6 tỷ USD so với năm trước, và dư nợ công bằng 56,7% GDP ”.
Do dư nợ tăng, tổng lượng tiền mà ngân sách phải dành để trả các đối tác nước ngoài trong
năm 2010 là 1,67 tỷ USD (riêng tiền lãi và phí là hơn 616 triệu USD), tăng gần 30% so với
con số 1,29 tỷ USD của năm 2009.
Trong khi đó, theo cảnh báo của Bộ Tài chính, dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong

năm 2010 chỉ còn tương đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn, giảm mạnh so với con số
290% và 2.808% của các năm 2009 và 2008.
Bảng 2.1: Tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam từ 2003-2010:
Từ bảng số liệu trên có thể thấy rằng các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài đang có
xu hướng giảm dần qua các năm, năm sau giảm hơn năm trước (ngoại trừ chỉ tiêu nợ dịch
vụ). Đặc biệt trong giai đoạn 2008- nay, khi thế giới đang phải đối mặt với cuộc khủng
hoảng kinh tế và xảy ra nhiều biến động trên thế giới thì nợ nước ngoài của Việt Nam
không những không tăng mà còn có xu hướng giảm.
Về chỉ tiêu nợ dịch vụ có xu hướng tăng theo các năm trong giai đoạn gần đây, điều này
thể hiện xu thế tất yếu của tình hình kinh tế trong nước cũng như trên thế giới. Đặc biệt
trong năm 2006, năm đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, khi
Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO. Kèm theo đó, các yếu tố thuận lợi từ việc
gia nhập WTO đã dần thể hiện rõ nét, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ. Trong hướng phát
triển của nền kinh tế, yếu tố dịch vụ phải ngày càng gia tăng trong tỷ trọng thành phần
của nền kinh tế. Nên việc yếu tố nợ dịch vụ ngày càng gia tăng trong nền kinh tế là đều
tất nhiên, chúng ta phải “đi trước đón đầu”, phải gia tăng nợ dịch vụ để nền kinh tế tiến kịp
với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó cần nâng cao
hiệu quả sử dụng tránh “ rước cọp về làng”.
2.1.2.2 Lãi suất vay nợ của Việt Nam hiện nay.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, lãi suất vay nợ của Việt Nam đang có xu hướng
tăng lên. Điều này có thể là hệ quả của việc Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập
trung bình cũng như việc uy tín nợ quốc gia bị ảnh hưởng do một số bất ổn của kinh tế vĩ
mô và sự kiện Vinashin.
Hiện nay Việt Nam được vay nợ với lãi suất thấp 1 - 2,99% /năm (chiếm 65,5%
tổng dư nợ). Khoản vay có lãi suất cao từ 6 - 10% một năm trong năm 2010 cũng đã lên tới
1,89 tỷ USD, gấp hơn 2 lần năm 2009.
Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước ngoài của
Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009 và năm
2010 đạt tới 2,1%/năm.
Theo quan điểm của IMF thì tiêu chí đánh giá an toàn nợ nước ngoài đối với các

quốc gia có thu nhập thấp dựa vào hiện giá thuần của nợ và dịch vụ nợ, một chính
sách nợ yếu đồng nghĩa an toàn về nợ và một chính sách nợ mạnh đồng nghĩa với kém
an toàn về nợ.
2.1.2.3 Cơ cấu nợ vay của Việt Nam.
Nợ nước ngoài của Việt Nam khá đa dạng về cơ cấu tiền vay. Trên lý thuyết, điều
này được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài
của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế cơ cấu này cũng tiềm ẩn những rủi ro khi có biến
động trên thị trường tài chính thế giới. Tỷ trọng cao của các khoản vay bằng USD
(22,95%) và JPY (38,25%) gây nguy cơ gia tăng khoản chi gốc và lãi khi tỷ giá
USD/VND luôn có xu hướng tăng; và JPY đang lên giá so với USD.
Bảng 2.2 : Các chỉ tiêu về giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam.
(Nguồn: IMF & Bản tin nợ nước ngoài số 5 )
Nếu quan sát diễn biến nợ nước ngoài trong một thời gian dài sẽ dễ dàng nhận thấy xu
hướng gia tăng nợ đã diễn ra trong những năm gần đây, từ mức 14,208 tỷ USD năm 2005
lên 27,928 tỷ USD năm 2010. Nếu tiếp tục xu hướng này và không có các biện
pháp kiểm soát và quản lý nợ có thể khiến nợ nướcngoài trở nên không an
toàn. Nếu đặt nợ nước ngoài trong quan hệ đầu tư và tiết kiệm, ta thấy nợ nước ngoài là
nguồn bổ sung cho khoảng chênh lệch tiết kiệm trong nước thấp và mức đầu tư tăng
cao. Như vậy, để nợ nước ngoài không mất an toàn thì cần phải nâng cao hiệu quả đầu tư
trong nước, khuyến khích tiết kiệm toàn dân. Nếu xem xét nợ nước ngoài trong quan hệ
cán cán cân thương mại dưới góc độ xuất nhập khẩu thì đây là một khoản vay mà
các nhà đầu tư nước ngoài cho Chính phủ và người tiêu dùng trong nước vay để
thanh toán cho việc tiêu dùng quá mức, khi đó để giảm nợ nước ngoài cần cải
thiện cán cân thương mại, thực hiện các giải pháp gia tăng xuất khẩu và kiểm soát nhập
khẩu.
Bảng 2.3: Quan hệ giữa thâm hụt thương mại và nợ nước ngoài của Việt
Nam giai đoạn 2005-2009
(Nguồn: Thống kê tài chính của IMF và Bộ Tài Chính)
Tóm lại, nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay vẫn còn trong giới hạn an
toàn nhưng xu hướng nợ nước ngoài đang gia tăng cho thấy, nếu không có những giải

pháp hợp lý kèm theo, thì nợ nước ngoài có thể mất an toàn và gây ra các bất ổn kinh tế vĩ
mô.
2.1.2.4 Các khoản nợ nước ngoài của việt nam một số năm gần đây.
Phân theo chủ nợ của khoản nợ chính thức ta có các chủ nợ song phương và đa
phương. Gồm có các nước chủ nợ sau : Angeri, Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc, Hoa Kỳ,
Pháp, Nhật Bản… và các tổ chức sau EIB, IBRD, IDA, IFAD, IMF, NDF, NIB, OPEC,
ADB…
• Nợ song phương : Mức nợ song phương lớn nhất của Việt Nam hiện nay là Nhật
Bản với mức nợ hằng năm đều > 50% tổng nợ vay của các chủ nợ lớn. Tiếp đến là
Pháp và Nga. Sau đây là số liệu cụ thể:
Bảng 2.4 : Một số chủ nợ song phương lớn của Việt Nam
Đơn vị tính :Triệu USD
2005 2006 2007 2008 2009
Angeri 158.3 127.82 96.71 42.6 66.6
Trung Quốc 128.25 141.53 169.94 186.41 359.08
Nhật Bản 3,945.55 4,526.02 5,449.99 6,773.66 8,290.94
Hàn Quốc 123.38 136.03 133.28 113.55 186.48
Hoa Kỳ 103.68 100.46 97.24 94.02 92.06
Pháp 676.05 784.03 1,009.36 911.72 1,112.52
Nga 641.21 636.54 626.3 607.45 589.09
Tổng 5776.42 6452.43 7582.82 8729.41 10696.77
• Ngoài ra Việt Nam còn vay nợ từ các tổ chức đa phương chức trên thế giới được
tổng hợp từ nguồn của Tổng cục thống kê như sau
Bảng 2.5 : Nợ vay từ các tổ chức đa phương của Việt Nam
Đơn vị tính: Triệu USD
2006 2007 2008 2009 2010
ADB 2009.66 2421.22 2623.58 3860.99 4174.44
IBRD 700
IDA 3593.14 4608.97 4863.11 6441.29 6930.41
IFAD 77.04 90.94 95.49 115.96 128.38

IMF 188.54 170.58 135.58 92.78 50.01
NDF 14.07 16.63 17.22 31.97 30.77
NIB 184.12 204.79 231.88 241.15 223.16
OPEC 33.55 37.69 40.15 46.12 52.71
EIB 48.09 68.62 131.33
Tổng 6100.11 7550.82 8048.07 10898.98 12421.25
Qua bảng trên ta thấy nợ song phương và đa phương của Việt Nam qua các năm đều
tăng lên đáng kể. Nhật Bản và IDA là hai chủ nợ lớn nhất của Việt Nam.
2.1.2.5. Hiệu quả sử dụng nợ vay.
Trong những năm qua, nhiều dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA đã hoàn thành và
được đưa vào sử dụng góp phần nâng cao, phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, tạo điều
kiện tăng trưởng kinh tế. Về mặt xã hội các dự án góp phần xóa đói, giảm nghèo, gia tăng
công ăn việc làm cho xã hội, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân. Các dự án điển
hình: Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ, Nhà máy Thủy điện sông Hinh, một số dự án giao
thông quan trọng như Quốc lộ 5, Quốc lộ 1A, cầu Mỹ Thuận… nhiều trường tiểu học đã
được xây mới, cải tạo tại hầu hết các tỉnh, một số bệnh viện ở các thành phố, thị xã
như bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Chợ Rẫy, nhiều trạm y tế đã được cải tạo hoặc xây
mới, các hệ thống cấp nước sinh hoạt ở nhiều tỉnh, thành phố cũng như ở nông thôn,
vùng núi.Các chương trình dân số và phát triển,chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, tiêm
chủng mở rộng được thực hiện một cách có hiệu quả.
Trong vấn đề sử dụng nợ, một điều đáng quan tâm là mục đích sử dụng nợ lại là
yếu tố dẫn đến nợ vay không được sử dụng một cách có hiệu quả. Vấn đề đặt ra là trên
thực tế khi tiến hành huy động vốn cần phải xây dựng các kế hoạch chi tiết về vay, sử
dụng và trả nợ nhưng sử dụng vốn vay như thế nào lại liên quan đến tình hình thực tế.
Điều đó dẫn đến nguồn vốn khi huy động thì rất nhanh, trong một thời gian ngắn có thể
đáp ứng nhu cầu về vốn, nhưng tốc độ giải ngân thì chậm, ảnh hướng đến việc sử dụng
vốn sao cho vừa đúng mục đích vừa thoả mãn nhu cầu cầu về vốn vừa làm cho đồng
vốn sinh lời để trả nợ. Với đồng vốn giải ngân chậm mà không được đưa đồng vốn giải
ngân vào sử dụng cho mục đích khác đã làm cho hiệu quả của nợ vay giảm rất nhiều.
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), hiện nay tốc độ giải ngân của

Việt Nam chỉ đạt khoảng 50%/năm. Thanh toán nợ của Việt Nam chỉ chiếm 28%
GDP. Đây chính là một trong những vấn đề mà các nhà tài trợ mong muốn Việt Nam
cần quan tâm cải thiện. Việc chậm giải ngân đồng nghĩa với tiến trình thực hiện chậm,
vì thế lợi ích thu được hạn chế, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
2.2. Tình hình quản lý nợ nước ngoài tại Việt Nam.
Ở Việt Nam hiện nay có 3 cơ quan tham gia quản lý nợ nước ngoài là Bộ tài chính,
Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng nhà nước.
Bộ Tài chính mà cụ thể là Vụ Tài chính đối ngoại và Quỹ Hỗ trợ phát triển. Thực
hiện các chức năng như đàm phán các hiệp định vay nợ, ký kết hiệp định, theo dõi giải
ngân và chuyển các đề nghị thanh toán chi trả nợ cho Kho bạc nhà nước và chuẩn bị các
báo cáo nợ trên cơ sở các thông tin được đăng ký khác và các báo cáo này về các khoản
vay nợ trực tiếp, được bảo lãnh và cho vay lại
Ngân hàng nhà nước : thay mặt Chính phủ, đàm phán các khoản nợ đa phương với
3 tổ chức tài chính quốc tế (IFI) là ADB, IMF, WB và chuyển các hiệp định chính thức đã
ký sang Bộ Tài chính; quản lý vay, trả nợ của các doanh nghiệp.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư : sẽ lập dự thảo nhu cầu hàng năm về vay ODA, xây dựng
danh mục các dự án chương trình được phê duyệt, đàm phán và ký kết các hiệp định khung
về ODA và chuyển cho Bộ Tài chính để dàn xếp các hiệp định vay nợ cụ thể. Theo dõi
đánh giá việc sử dụng ODA và tiến hành báo cáo về ODA.
Hiện tại nợ nước ngoài của Việt Nam chủ yếu vẫn là vay ODA và vay từ IDA theo
điều kiện ưu đãi. Tới đây, Việt Nam vẫn có thể còn được tiếp tục vay ưu đãi thêm một số
năm nữa. Do vậy, trong thời gian tình hình vay, trả nợ của Việt Nam còn chưa thực sự diễn
ra phức tạp, nhưng không có nghĩa là Việt Nam không cần có các hệ thống quản lý nợ hữu
hiệu. Bởi các khoản dự nợ song phương hiện hành có thể không hẳn đã là ưu đãi vì lãi suất
trên thế giới cũng đã giảm nhiều. Ngay bây giờ, cần phải đánh giá các rủi ro về đồng tiền
vay và lãi suất của các khoản vay hiện tại và các khoản vay mới trong tương lai từ nguồn
ODA. Việc tìm ra các phương pháp mới về tài trợ thâm hụt là một nhu cầu cấp bách. Hiện
tại cần xây dựng hệ thống quản lý nợ để có thể đáp ứng được các thách thức trong tương
lai gần.
2.2.1.Những thành tựu nổi bật của công tác quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam.

2.2.1.1.Quản lý nợ nước ngoài đã góp phần quan trọng vào phát triển
kinh tế và thu hút nguồn vốn ODA.
Nền kinh tế tăng trưởng nhanh, trong đó nổi bật là các ngành xuất khẩu, đã tạo điều
kiện rất thuận lợi cho Việt Nam trong việc thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) từ các nước công nghiệp phát triển. Cùng với chiến lược tăng trưởng và chủ động
hội nhập, Chính phủ đã có những chính sách có hiệu quả trong việc thu hút nguồn
vốn ưu đãi, mà kết quả là những cam kết hỗ trợ ngày càng tăng của các nhà tài
trợ. Những hoạt động của Chính phủ trong việc thực hiện cải cách hành chính,
đặc biệt là những nỗ lực trong việc xây dựng chiến lược toàn diện về tăng trưởng và
xoá đói giảm nghèo, đã khẳng định năng lực làm chủ sở hữu và sử dụng nguồn vốn một
cách có hiệu quả của Việt Nam.
2.2.1.2. Khung thể chế quản lý nợ nước ngoài đã được từng bước hoàn thiện
Trong vài năm gần đây, khung thể chế về quản lý nợ nước ngoài đã liên tục được
đổi mới nhằm đáp ứng nhu cầu tốt hơn về quản lý nợ nước ngoài của quốc gia và phù hợp
hơn với thực tiễn quốc tế. Năm 2002, Quốc hội ban hành Luật Ngân sách Nhà nước, đây là
lần đầu tiên quản lý nợ được đề cập trong một văn bản có tính pháp quy dưới hình thức
luật. Nghị định 134/2005 ban hành Quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài đã tạo
ra một khuôn khổ pháp lý toàn diện và rõ ràng hơn về quản lý nợ nước ngoài.
Tiếp đó, một loạt các Quy chế và Quyết định mới được ban hành trong năm 2006 chứng tỏ
quyết tâm thể chế hoá các lĩnh vực quản lý nợ nước ngoài để tăng cường hiệu quả quản lý
nhà nước toàn diện trong lĩnh vực này.
2.2.1.3.Hệ thống tổ chức quản lý nợ nước ngoài đã hoàn thiện và từng bước
được cải thiện.
Việc xác định Bộ Tài chính là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm về tổng thể nợ
nước ngoài là một sựch uyển dịch quan trọng để đi tới hoàn thiện hệ thống
quản lý nợ quốc gia. Đây cũng là một hướng chuyển đổi chức năng quản
lý nợ phù hợp với thực tiễn quốc tế. Việc gắn khâu hoạch định chiến lược, kế
hoạch vay vốn nước ngoài với trách nhiệm trả nợ vào một đơn vị là Bộ Tài chính, giúp
tăng cường sự điều phối sử dụng vốn vay nước ngoài và các hoạt động giám sát nhằm đảm
bảo hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.

2.2.1.4. Nâng lực cán bộ đang từng bước được nâng cao.
Lực lượng cán bộ quản lý nợ nước ngoài, đặc biệt là các cán bộ Vụ Tài
chính Đối ngoại (Bộ Tài chính) cũng đã được đào tạo nâng cao năng lực thông qua các
khoá bồi dưỡng, các hoạt động của các dự án xây dựng năng lực quản lý nợ nước
ngoài. Nâng lực cán bộ được nâng cao thể hiện rất rõ trong việc ban hành các
văn bản pháp quy có chất lượng hơn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và thực
tiễn hoạtđộng của nền kinh tế, tạo thuận lợi cho những đối tượng phải tuân thủ và những
người thực thi, giám sát.
2.2.2.Một số tồn tại trong vấn đề nợ nước ngoài hiện nay
2.2.2.1.Tồn tại trong vấn đề vĩ mô
Về mặt kinh tế vĩ mô, nền tài chính chưa hoàn toàn thoát khỏi tình trạng
ức chế, thể hiện ở việc tín dụng vẫn chủ yếu “rót” vào các doanh nghiệp nhà
nước theo các điều kiện ưu đãi, trong khi các doanh nghiệp tư nhân chỉ được
tiếp cận một cách hạn chế; lãi suất thực bị giữ ở mức quá thấp. Nền tài khoá
thâm hụt thường xuyên và phần nào phụ thuộc vào phần thu từ dầu mỏ. Cơ chế cấp bảo
lãnh và cho vay lại nguồn vốn ODA của Chính phủ nói chung vẫn có xu hướng
tập trung tín dụng ưu đãi vào các doanh nghiệp nhà nước, trong khi chưa có
những dấu hiệu đáng kể cho thấy rằng hiệu quả của các dự án tài trợ đã được thẩm
định một cách nghiêm ngặt, với chất lượng cao và do các cơ quan thẩm định. Việc phân bổ
các nguồn tín dụng như vậy có khả năng gây tác động cản trở quá trình cải cách doanh
nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả hoạt động. Thêm vào
đó, việc ưu đãi cho các doanh nghiệp nhà nước như vậy vi phạm các quy định của WTO
mà nay nước ta đã là thành viên chính thức. Một tác động tiêu cực nữa của chính
sách này, đó là hạn chế khả năng tiếp cận với nguồn vốn vay nước ngoài của các doanh
nghiệp tư nhân nói chung, qua đó làm hạn chế tiềm năng phát triển kinh tế đất nước.
2.2.2.2. Tồn tại trong các chính sách về việc quản lý nợ nước ngoài
Mặc dù đã có nhiều biện pháp cải cách và hoàn thiện, song khung thể chế quản lý
nợ nước ngoài vẫn đang trong quá trình chuyển đổi và xây dựng.Hiện nay có quá
nhiều quy định, quy chế, thông tư khác nhau quy định các nội dung về quản lý nợ
nước ngoài: Luật Ngân sách (2002) có những quy định về quản lý nợ nước

ngoài; Quy chế Quản lý vay trả nợ nước ngoài (2005) đưa ra những quy định
chi tiết về việc quản lý vay, trả nợ nước ngoài; Quy chế Xây dựng và Quản lý
hệ thống chỉ tiêu đánh giá, giám sát tình trạng nợ nước ngoài của Quốc gia (2006) đưa
ra hệ thống chỉ tiêu đánh giá, giám sát tình trạng nợ nước ngoài và quy định trách
nhiệm của các bộ, ngành trong việc đánh giá nợ nước ngoài ; Quy chế Cấp và Quản
lý bảo lãnh Chính phủ đối với các khoản vay nước ngoài (2006) đưa ra các quy định về cấp
bảo lãnh đối với các khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước, Thông tư số
94/2004/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn việc vay và trả
nợ nước ngoài của doanh nghiệp… Đây là một bất cập lớn, nó làm khung
pháp lý quản lý nợ nước ngoài trở nên rườm rà, khó theo dõi và thực hiện. Tình
trạng này làm tăng chi phí của các tổ chức, doanh nghiệp - đối tượng phải tuân
thủ, cũng như chi phí của các cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, giám sát và
tuân thủ.
2.2.2.3. Tồn tại trong việc đánh giá giám sát hiệu quả nợ nước ngoài
Phân công trách nhiệm quản lý nợ còn nhiều điểm bất hợp lý Việt Nam hiện nay
do chưa có một cơ quan chuyên biệt về quản lý nợ. Nhiệm vụ quản lý nợ được
giao cho nhiều cơ quan khác nhau tùy theo chuyên môn chức năng của họ như Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Quỹ Hỗ trợ Phát triển - nay
là Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Tuy nhiên sự phân công trách nhiệm còn phân tán và
còn nhiều điểm bất hợp lý. Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành chưa được quy định rõ
ràng.
Do đó dẫn đến còn khá nhiều sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của hai bộ kinh tế
chủ chốt này, đặc biệt là trong các lĩnh vực lập kế hoạch tập trung, chính sách, thu thập
thông tin, giám sát và đánh giá hiệu quả vốn vay nước ngoài. Việc này gây lãng phí nguồn
lực không cần thiết và phức tạp trong quản lý nợ.
2.2.2.4. Tồn tại trong việc thống kê đúng và đủ về việc thực hiện nguồn vốn được
cấp từ nợ nước ngoài.
Cơ sở dữ liệu về nợ nước ngoài hiện còn đang trong quá trình hình thành.
Mặc dù Chính phủ đã có Quy chế về thu thập, tổng hợp, báo cáo và công bố
thông tin về nợ nước ngoài (ban hành năm 2006), song việc xây dựng một cơ sở dữ

liệu về nợ nước ngoài và quy trình thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp và báo cáo
còn đòi hỏi thời gian. Để đảm bảo hoàn thành được công tác này, đòi hỏi phải
đầu tư nhiều vào việc nâng cao năng lực cán bộ, nguồn lực tổ chức, xây dựng phương tiện
và các quy trình thực hiện. Cảnh báo và quản lý rủi ro còn hạn chế: Cũng
theo Quy chế Quản lý vay và Trả nợ nước ngoài (2005), NHNN sẽ phải
thiết lập được hệ thống cảnh báo sớm về rủi ro từ nợ của khu vực doanh nghiệp.
Cho đến nay, quy định này mới chỉ là mong muốn của Chính phủ. Sự cần thiết phải đánh
giá rủi ro tự việc vay nợ thương mại sẽ tăng lên nhanh chóng khi Việt Nam hội
nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu về sự hiện diện của các tổ chức tín dụng quốc tế
trên thị trường trong nước.
2.3. Nguyên nhân
2.3.1. Yếu tố lịch sử .
Quản lý nợ nước ngoài trong nền kinh tế thị trường chỉ mới được triển khai ở
nước ta từ những năm 1995, khi mà các dự án vay nợ ODA của các ngân hàng
đa phương lớn bắt đầu giải ngân đáng kể. Kinh nghiệm và thực tiễn quản lý nợ
nước ngoài trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam chưa có nhiều và hệ
thống quản lý nợ nước ngoài còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện.
Thêm vào đó, về nhận thức vẫn còn tồn tại cách hiểu chưa đúng thực chất về nợ
ODA. Quan niệm ODA như các khoản viện trợ không hoàn lại nên không tính
toán kỹ khả năng hoàn vốn, dẫn đến lãng phí và tham nhũng.
2.3.2. Thiếu hụt kinh nghiệm quản lý nợ .
Cho đến nay, vay nợ thương mại nước ngoài của Việt Nam cũng còn rất ít
ỏi, do vậy kinh nghiệm quản lý và kiểm soát nợ thương mại còn khá hạn chế. Nhiều
phương pháp phân tích, các chỉ số, các mô hình nợ, quy trình thu thập số liệu và báo cáo,
hệ thống tổ chức… đều là mới. Quá trình học hỏi, tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm
cũng như xây dựng thể chế và cơ chế quản lý đòi hỏi thời gian và kinh
nghiệm. Một số biểu hiện kém thích ứng với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong cách
thức quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam có thể nói là tất yếu.
2.3.3. Nhiều văn bản cùng điều chỉnh một đối tượng quản lý.
Phân tích về tồn tại trong khuôn khổ tổ chức quản lý nợ cho thấy việc phân công

trách nhiệm quản lý còn nhiều trùng lặp và mâu thuẫn trong các văn bản pháp quy
cũng như trong thực tiễn thực hành các quy định. Nguyên nhân của các sự việc trên
là do có nhiều văn bản cùng điều chỉnh một đối tượng quản lý. Một nguyên nhân sâu xa
hơn nằm trong phân chia quyền lực của các cơ quan Chính phủ, trong đó có những “tồn tại
lịch sử” rất khó thay đổi nếu không có những quyết định chính trị mạnh mẽ ở cấp trên.
2.3.4. Thiếu hụt đối ngũ cán bộ chuyên môn.
Sự thiếu hụt về đội ngũ cán bộ chuyên môn là một trong những nguyên nhân đáng
kể dẫn đến những hạn chế của hệ thống quản lý nợ quốc gia. Trước đây ngành
giáo dục Việt Nam chưa đào tạo chuyên ngành quản lý nợ nước ngoài và các
chuyên ngành tài chính quốc tế dù đã được tổ chức đào tạo nhưng trên thực tế
chưa đủ cập nhật về kiến thức và kỹ năng quản lý nợ nước ngoài. Đội ngũ cán bộ của các
cơ quan quản lý nợ nước ngoài chủ yếu vừa làm vừa học. Các khoá đào tạo và
tập huấn ngắn hạn chủ yếudo các dự án ODA cung cấp, không thể đủ để giúp
hình thành một lực lượng chuyên gia đảm bảo thu thập thông tin, phân tích và dự
báo cũng như tổ chức các hoạt động nghiệp vụ một cách thích đáng.
2.3.5. Hệ thống và quy trình kiểm định các dự án đầu tư còn yếu kém.
Quản lý nợ nước ngoài bền vững có liên quan rất chặt chẽ với việc thẩm
định và đảm bảo hiệu quả đầu tư. Từ phương diện này, những điểm yếu của hệ
thống và quy trình thẩm định, quản lý các dự án đầu tư, vốn đã là thực tiễn
nhiều năm của nước ta, đã có tác động đến công tác quản lý nợ nước
ngoài. Nguồn vốn vay nước ngoài trên thực tế cũng được phân bổ cho các
chương trình, dự án ưu tiên nhưnguồn vốn ngân sách. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả
quản lý nợ nước ngoài trong dài hạn thì cái gốc vẫn là phải nâng cao hiệu quả đầu tư công
cộng nói chung.
2.3.6. Ứng dụng công nghệ thông tin còn yếu kém.
Phần mềm quản lý nợ nước ngoài đang sử dụng tại Bộ TC và NHNN chưa
được hỗ trợ đầy đủ các ứng dụng như chuẩn tiếng Việt Unicode, chuẩn trao đổi
dữ liệu điện tử… Việc ứng dụng công nghệ thông tin ở cấp địa phương còn yếu hơn
nhiều, yếu cả về trang bị hệ thống máy tính, phần mềm quản lý và năng lực chuyên môn
của cán bộ.


PHẦN 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VAY
VÀ QUẢN LÝ CÁC KHOẢN VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM
3.1. Các giải pháp đảm bảo khả năng tiếp nhận nợ vay nước ngoài.
3.1.1.Đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững
Để có thể đảm bảo an toàn tín dụng, nền kinh tế phải có tăng trưởng kinh tế cao để
đảm bảo lãi vay nợ không vượt quá khả năng sinh lời của nó. Ở nước ta trong những năm
gần đây, mặc dù mức GDP vẫn tăng, nhưng hệ số ICOR lại tăng liên tục cho
thấy hiệu quả
sử dụng vốn thấp
. Để có thể đạt được hệ số ICOR = 4 thì trong tương lai ta phải nâng cao
tốc độ tăng trưởng kinh tế trong khi vẩn giảm được tỷ lệ đầu tư/GDP. Điều này có nghĩa là
vẫn gia tăng mức đầu tư trong đó mức gia tăng của GDP phải nhanh hơn. Hay nói cách
khác, ta phải mở rộng quy mô của nền kinh tế một cách có hiệu quả. Nếu trong giai đoạn
2000 - 2010, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng là 7,5 - 8%/năm thì đòi hỏi đầu
tư/GDP là 30 - 32%. Nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn này là 135 - 140 tỷ USD giai đoạn 2000 -
2010 và 250 - 280 tỷ USD trong giai đoạn 2010 - 2020 thì quy mô nền kinh tế trong hai
giai đoạn trên phải đạt được là 450 - 534 tỷ USD và 782 - 934 tỷ USD. Để đạt được quy mô
như vậy, Việt Nam phải nổ lực rất nhiều. Xuất khẩu là nguồn cung duy nhất cho trả nợ vay
nước ngoài, vì vậy muốn nâng cao năng lực trả nợ và hạn chế những rủi ro tác động từ
bên
ngoài đòi hỏi xuất khẩu phải tăng trưởng cao, đa dạng hoá về cơ cấu và chủng
loại.
3.1.2.Lựa chọn danh mục vay nợ hợp lý
Nhằm đảm bảo cơ cấu nợ bền vững, cần đánh giá cẩn thận từng món vay mới, đặc biệt
quan tâm đến việc duy trì cơ cấu nợ theo thời gian hợp lý.
Nếu không có cơ chế
kiểm soát kịp thời và thích hợp thì luồng vốn ngắn hạn này
sẽ trở thành một trong những rủi ro trong quản lý nợ tại Việt Nam trong thời gian sắp

×