Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Độ tắt khúc xạ pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.29 KB, 15 trang )

1. ĐẠI CƯƠNG:
Thị lực là chức năng chủ yếu của mắt. Thị lực chỉ có giá trị sau khi đã được điều chỉnh tật
khúc xạ. Do vậy sự hiểu biết về tật khúc xạ và lão thị là điều rất cơ bản của ngành nhãn
khoa.
2. DỊCH TỂ:
Theo nhiều cuộc điều tra của ngành nhãn khoa nước ta thì người bị tật khúc xạ chiếm
7.5% trong đó: cận thị đơn thuần là 3.5% dân số, cận thị bệnh lý 0.2%, viễn thị 1.5%,
loạn thị 2.3%. Nếu kể cả số người lão thị, nghĩa là những người cần đeo kính thì số lượng
kính được sử dụng ở nước ta lên tới hàng chục triệu đôi.
3. SINH LÝ CON MẮT VỀ QUANG HỌC:
Mắt có thể coi như một máy ảnh. Khi chụp ảnh, muốn được kiểu ảnh rõ, thì người thợ
ảnh phải điều chỉnh ống kính (đối với mắt là hệ thống khúc xạ và lực điều tiết) và tùy
theo chụp ở chỗ sáng nhiều hay ít mà vặn lại cái chế quang to nhỏ cho thích hợp (giống
như đồng tử của mắt), v.v… Nhưng mắt là một máy ảnh “sống” có tri giác, biết thích
nghi với ngoại cảnh để nhìn được rõ nhất. Ta lần lượt đi vào một số chức năng chủ yếu
của mắt.
3.1 Thị lực:
Thị lực thể hiện độ tinh của mắt. Trên võng mạc, chỉ có vùng hoàng điểm mới có khả
năng phân tích và nhìn thấy rõ nhất các vật. Điểm A cách điểm B. Nếu A cứ chuyển dần
lại B thì đến một giới hạn nào đó ta còn phân biệt được 2 điểm, nhưng gần hơn nữa thì ta
trông 2 điểm đó như hợp thành một. Giới hạn càng nhỏ mà mắt vẫn phân biệt được thì thị
lực càng tốt. Người ta đánh giá thị lực tốt, xấu bằng góc nhìn của mắt đối với vật, gọi là
góc thị giác. Khi góc thị giác là 1 phút thì thị lực là 10/10. Khi thử thị lực bệnh nhân
đứng cách bảng thử 5 mét, nếu đọc được hàng thứ 10 thị lực là 10/10, nếu chỉ đọc được
hàng thứ nhất thì thị lực là 1/10.
Ánh sáng càng mạnh, thị lực càng tăng, nhưng đến một mức tối đa thì không tăng nữa.
Đo thị lực rất quan trọng, vì nó cho phép đánh giá chức năng chủ yếu của mắt.
Bởi vậy nó rất cần thiết trong việc chẩn đoán, theo dõi các bệnh về mắt, đánh giá khả
năng của mắt đối với từng loại lao động, từng loại công tác…
3.2 Lực điều tiết:
Đối với con mắt bình thường trên người trẻ tuổi thì khi nhìn một vật ở xa (viễn điểm, đối


với mắt là 5 mét trở lên) thấy rõ vì ảnh của vật hiện đúng trên võng mạc. Nếu vật cứ tiến
lại gần, lẽ ra người đó sẽ nhìn mờ đi vì ảnh tiến ra sau võng mạc, nhưng thực tế nhìn vẫn
rõ và còn rõ hơn nữa do vật càng gần ảnh càng to. Có hiện tượng trên là nhờ vào sự điều
tiết của thể thủy tinh. Nhưng nếu vật cứ tiến gần đến sát mắt thì một lúc nào đó mắt nhìn
không rõ vật nữa: ảnh đã ra sau võng mạc, mắt đã điều tiết tối đa. Điểm gần nhất mà mắt
còn thấy rõ gọi là cận điểm. Khoảng không gian từ cận điểm đến viễn điểm gọi là quãng
đường điều tiết là khoảng mà mắt nhìn rõ. Khả năng điều tiết tối đa của mắt còn gọi là
biên độ điều tiết. Càng lớn tuổi, khả năng điều tiết càng giảm. Độ 40 tuổi, khả năng này
giảm đi rất nhiều (lão thị) và mất hẳn ở tuổi 60. Ở những người này nếu không đeo kính
lão thì không thể nhìn gần được.
1. Mắt chính thị trên người 20 tuổi với biên độ điều tiết là 10D.
2. Mắt cận thị 2D trên người 20 tuổi với biên độ điều tiết là 10D.
3. Mắt viễn thị 2D trên người 20 tuổi với biên độ điều tiết là 10D.
3.3 Hệ thống khúc xạ của mắt
Tia sáng muốn lọt vào võng mạc, phải lần lượt đi qua giác mạc, thủy dịch, thể dịch, thể
thủy tinh và thể pha lê. Giác mạc và thể thủy tinh hợp thành hệ thống khúc xạ của mắt
với công suất qui tụ khoảng 60 điốp (điốp là đơn vị khúc xạ viết tắt là D), với quang tâm
N và trục thị giác XM.
4. NHỮNG BẤT THƯỜNG CỦA KHÚC XẠ
Muốn hiểu các tật khúc xạ thì trước hết phải biết khúc xạ của mắt bình thường.
Con mắt bình thường ở trạng thái nghỉ ngơi, nghĩa là không điều tiết, giống như máy ảnh
với buồng tối, vật kính ở trước và phim ảnh ở sau.
Một chấm sáng ở vô cực cho một chùm tia sáng song song, sau khi đi qua vật kính, sẽ tạo
thành một chùm sáng hội tụ trên bản phim, điểm này rất rõ, đó là ảnh của chấm sáng ở vô
cực.
Sự tạo ảnh của một vật cũng vậy, ảnh của vật được tạo nên bởi rất nhiều điểm liền nhau
trên bản phim.
Nhưng nếu chúng ta xê dịch bản phim gần về phía trước, nghĩa là thu ngắn chiều dài
trước – sau của máy thì tất cả sẽ thay đổi. Bản phim sẽ không còn nằm ở tiêu điểm của
vật kính, mà ở bên trong. Đỉnh của chùm sáng hội tụ nằm ở sau bản phim. Còn ở trên bản

phim ta thấy không phải là một điểm rõ mà một quầng sáng mờ. Cũng vậy, một vật ở vô
cực sẽ cho một ảnh mờ trên bản phim. Hiện tượng này xảy ra trên con mắt quá ngắn: mắt
viễn thị.
Ngược lại, ta đẩy bản phim ra phía sau, xa vật kính, nghĩa là tăng chiều dài trước – sau
của máy. Sẽ xảy ra hiện tượng gì?
Bản phim không ở đúng tiêu điểm của vật kính mà ra sau. Đỉnh của chùm tia hội tụ nằm
ở trước bản phim. Còn trên bản phim không phải là một điểm rõ mà là một quầng sáng
mờ. Cũng vậy, một vật ở vô cực sẽ cho một ảnh mờ trên bản phim. Hiện tượng này xảy ra
trên con mắt quá dài: mắt cận thị.
Mắt hoàn toàn giống như máy ảnh mà ta vừa nói trên. Buồng tối đáng lẽ là hình hộp thì là
hình cầu, bản phim ở đây là võng mạc, vật kính của mắt gồm giác mạc và thể thủy tinh.
4.1 Viễn thị
4.1.1 Định nghĩa
Là sự sai lệch về khúc xạ khiến khi mắt ở trong trạng thái nghỉ ngơi, các tia sáng tới song
song vào mắt sẽ hội tụ ở phía sau võng mạc.
Muốn thấy rõ, mắt phải điều tiết để đưa ảnh từ sau về đúng trên võng mạc.
Ở trẻ em khoảng 3 tuổi, mắt thường bị viễn thị trung bình + 2D.
Nhưng, song song với quá trình phát triển của trẻ, trục nhãn cầu cũng dài ra, con mắt có
kích thước bình thường và trở thành chính thị vào khoảng 15 tuổi. Bởi vậy, viễn thị cũng
là một giai đoạn phát triển của mắt trước khi thành chính thị.
Ở một số người thì sự phát triển này ngừng lại, con mắt bị ngắn, đó là nguyên nhân chính
của viễn thị, gọi là viễn thị do trục chiếm hơn 90% tổng số viễn thị.
Ngoài ra viễn thị còn do những nguyên nhân khác như khi mổ lấy thể thủy tinh bị đục,
giác mạc bị dẹt do sẹo, v.v… Những loại này chiếm tỉ lệ ít.
4.1.2 Triệu chứng:
Người trẻ bị viễn thị, vì có lực điều tiết tốt, viễn thị không gây nên sự khó chịu nào, nhìn
vẫn rất tốt. Khi tuổi lớn dần, lực điều tiết kém đi, nhìn mới thấy khó khăn. Hiện tượng
này phụ thuộc vào mức độ viễn thị, viễn thị càng cao thì thị lực càng bị giảm sút nhanh
chóng. Những người có độ viễn thị +1D hoặc +2D chỉ thấy mắt kém vào tuổi gần 40,
trong khi người có độ viễn thị lớn hơn thấy mắt kém sớm hơn.

Có khá nhiều biểu hiện chủ quan của mắt viễn thị, phổ biến nhất là mỏi mắt. Người viễn
thị đầu tiên cảm thấy nhìn gần khó khăn, trong khi nhìn xa còn rất tốt.
Làm việc lâu bằng mắt sẽ rất mỏi, bắt buộc phải ngưng lại. Sau khi nghỉ ngơi một lát, hết
mỏi, làm việc trở lại được và ít lâu sau mỏi mắt lại tái diễn.
Viễn thị cũng hay gây ra cảm giác nặng ở trán, đau ở thái dương, đôi khi nhức đầu thực
sự, và muốn nhìn rõ, mắt phải cố gắng điều tiết, như vậy thường kèm theo sự co kéo các
cơ trán, lông mày và mi, khiến cho mắt người viễn thị có những nếp nhăn tạo nên một
dạng riêng gọi là “bộ mặt viễn thị”.
Mắt viễn thị luôn luôn có xu hướng quay vào trong, rất “hoạt động” cho ta một cảm giác
là đôi mắt rất tinh.
Nếu khám sâu vào trong đáy mắt, tuyệt đại đa số không có tổn hại gì, riêng ở gai thị có
khi có hình thái như bị viêm, nên được gọi là “viêm gai thị giả của viễn thị”.
Các triệu chứng mờ mắt, nhức đầu, thị lực giảm đã làm nhiều người lo sợ nghĩ đến một
bệnh cấp diễn và tức thời đi khám mắt. Đó là ý thức rất tốt. Nhưng có trường hợp được
chẩn đoán là glôcôm, được theo dõi nhãn áp và làm các xét nghiệm chuyên khoa rất “chu
đáo” mà vẫn không xác định được “bệnh”.
Có người khác thì được nghĩ tới mờ mắt, nhức đầu là do viêm xoang, suy nhược thần
kinh… được chụp xoang, chụp sọ… Dĩ nhiên là tốn thuốc, tốn công vô ích và “bệnh” chỉ
khỏi với một cặp kính hội tụ thích hợp.
Điều đáng lưu ý là một số không nhỏ mắt viễn thị, khi dùng kính, thị lực không tăng lên
tới mức bình thường (10/10) là vì như trên chúng ta đã biết, viễn thị là con mắt phát triển
chưa hoàn thiện.
Bên cạnh những biểu hiện của mắt viễn thị như chúng tôi đã kể ở trên thì hậu quả rất
thường gặp là lé, bao giờ cũng là lé trong.
Sau hết là bệnh glôcôm rất thường thấy trên những người viễn thị. Người ta cho là do thể
mi to, tiền phòng hẹp trong mắt viễn thị là điều kiện thuận lợi để phát sinh bệnh này.
4.1.3 Thử kính mắt viễn thị
Bệnh nhân đứng cách xa bảng thị lực 5m, đặt trước từng mắt kính +1D. Nếu không viễn
thị, mắt sẽ mờ hơn; nếu viễn thị, thị lực sẽ tăng lên. Ta tiếp tục cho những kính hội tụ cao
số hơn, thị lực sẽ tăng tối đa. Rồi đến một số kính nào đó mắt sẽ mờ đi. Ta hãy ngừng lại.

Viễn thị đã điều chỉnh quá số. Độ viễn thị là: kính hội tụ có số lớn nhất, cho thị lực nhìn
xa cao nhất.
Thí dụ, một mắt có độ viễn thị +4D. Những kính hội tụ 1, 2, 3 rồi 4 vẫn làm thị lực tăng.
Bỗng với kính +5D làm thị lực sụt đột ngột. Kính số 4 là kính đo độ viễn thị; đó là kính
phù hợp với mắt viễn thị.
Nhưng, thực ra xác định độ viễn thị bằng phương pháp chủ quan không phải bao giờ
cũng giản đơn như vậy.
Một điều hết sức quan trọng là ở những người trẻ bị viễn thị, ngay cả những lúc mắt nghỉ
ngơi, vì trước đó đã điều tiết quá nhiều, nên thể thủy tinh phồng lên không được “nhả” ra
hết, gây nên một thứ viễn thị ẩn, làm cho người thầy thuốc rất dễ sai lầm trong khi khám
khúc xạ. Muốn phát hiện được viễn thị ẩn phải làm hoàn toàn liệt điều tiết bằng thuốc
nhỏ mắt Atropin 0.5 – 1% tra nhiều lần trong mấy ngày liền trước khi khám.
Người ta gọi viễn thị toàn phần là viễn thị ẩn + viễn thị thể hiện. Ta có VTtp = Vta +
VTth. Đến khoảng 60 tuổi, mắt không còn khả năng điều tiết nữa, viễn thị ẩn sẽ hiện ra
hoàn toàn; lúc bấy giờ thì viễn thị toàn phần cũng là viễn thị thể hiện: VTtp = VTth.
__________________
4.1.4 Nguyên tắc điều chỉnh viễn thị bằng kính
Như ta đã biết: VTtp = VTa + VTth.
Điều chỉnh viễn thị bằng kính là nhằm làm mất phần viễn thị thể hiện, khiến cho con mắt
trở thành chính thị về mặt thực tế. Do đó:
- Ở người trẻ, nghĩa là lực điều tiết tốt, độ viễn thị vừa phải sẽ không ảnh hưởng đến thị
lực, khi đó không cần dùng kính.
- Ngược lại, đối với viễn thị nặng thì cần đeo kính ngay từ nhỏ, và càng cần hơn khi viễn
thị có phối hợp với lé trong. Cho đơn kính phải dựa vào sự khám xét bằng phương pháp
khách quan (soi bóng đồng tử) và phương pháp chủ quan của bệnh nhân.
- Ở người lớn, thực tế người ta dựa theo khám xét chủ quan để xác định loại kính hội tụ
thích hợp: “Kính hội tụ có số lớn nhất mà bệnh nhân đeo được, cho thị lực nhìn xa cao
nhất là kính thích hợp nhất”.
Phải thử cả kính nhìn xa và nhìn gần và có thể dùng kính 2 tiêu điểm.
Nhiều trường hợp sau khi dùng kính, thấy có hiện tượng tăng số khá nhanh, thường vào

khoảng trên 40 tuổi. Hiện tượng này là do lực điều tiết giảm đi, nên chỉ còn điều chỉnh
được một phần nhỏ của viễn thị.
Từ 50 tuổi, điều chỉnh viễn thị rất dễ. Lực điều tiết không còn đáng kể. Muốn nhìn xa rõ
cần phải dùng kính, nhìn gần dùng kính vừa cho viễn thị và lão thị. Tốt nhất là dùng kính
2 tiêu điểm.
4.1.5 Điều trị:
Người ta cũng đã nêu ra nhiều cách, nhưng tất cả đều như vô hiệu. Điều chỉnh bằng kính
là phương pháp tốt nhất, hợp lý nhất làm cho thị lực tăng.
4.2 Cận thị
4.2.1 Định nghĩa
Là sự sai lệch về khúc xạ khiến các tia sáng tới song song vào mắt sẽ hội tụ ở phía trước
võng mạc.
4.2.2 Cận thị đơn thuần:
Có độ cận thị thường dưới 6D và không có tổn thương đáy mắt. Loại cận thị này hay bắt
đầu ở tuổi đi học.
Sự phát triển nhanh hay chậm của cận thị là tùy thuộc vào lứa tuổi bắt đầu bị cận. Nếu
dưới 8 tuổi bị cận thì mỗi năm sẽ tăng lên 1D. Nếu từ 8 đến 10 tuổi mới bắt đầu bị cận thì
mỗi năm nặng thêm 0.7D. Trong những mắt cận bắt đầu từ sau 10 tuổi thì cứ 3 năm phát
triển thêm 1D. Dù cận thị bắt đầu ở lứa tuổi nào, cũng phát triển trong vòng 3 hoặc 4 năm
thì ngừng, nhưng sau đó, có thể có những đợt phát triển mới làm cho mắt càng nặng, như
trong thời kỳ thai nghén, khi mắc một bệnh nặng như lao, thương tật…
Cận thị biểu hiện chủ yếu bằng thị lực giảm khi nhìn xa, còn nhìn gần vẫn bình thường.
Một người cận thị cảm thấy không còn đọc rõ chữ trên bảng nữa, đi xem chiếu bóng
trông hình ảnh rất mờ, khám mắt thấy thị lực nhìn xa giảm sút trầm trọng. Thật vậy, với
mỗi mức độ cận thị sẽ tương ứng với một thị lực khoảng
Độ cận thị -0.5D có thị lực 4/10
Độ cận thị -1D có thị lực 2/10
Độ cận thị -1.5D có thị lực 1/10
Độ cận thị >2D có thị lực <1/10
Muốn nhìn rõ hơn, người cận thị luôn luôn nheo mắt. Tật nheo mắt này cho phép chẩn

đoán dễ dàng tật cận thị. Ngược với nhìn xa, người cận thị nhẹ nhìn gần rất tốt, họ đọc
sách với chữ rất nhỏ mà không cần mang kính, miễn sao có khoảng cách đúng tầm.
Nguyên nhân:
Cho đến nay vẫn còn một số người cho rằng làm việc phải nhìn gần nhiều sẽ dễ bị cận
thị. Dẫn chứng là đối với học sinh thì cấp 3 nhiều cận thị hơn cấp 2, cấp 2 nhiều hơn cấp
1. Một dẫn chứng khác là ở người lao động trí óc hay ở những người làm việc phải nhìn
gần (thợ đồng hồ, công nhân in…) thì tỉ lệ cận thị cao hơn nhiều so với những người
khác.
Tuy vậy nhưng càng ngày càng có nhiều người không thừa nhận những nguyên nhân như
trên. Họ cho rằng nếu các em ở cấp 3 cận thị nhiều hơn cấp 2 và cấp 2 nhiều hơn cấp 1 là
vì cận thị thường bắt đầu xuất hiện sau 10 tuổi. Nói cận thị học đường, chính là ý nói cận
thị phát sinh trong tuổi đương đi học, là tuổi phát triển của các em, mà không có nghĩa
học đường là nguyên nhân của cận thị. Mặt khác, chúng ta cũng thấy có những trường
hợp cận thị bắt đầu rất sớm (trước 8 tuổi) và phát triển đến 11 tuổi thì ngừng.
Ngày nay, người ta có xu hướng nhấn mạnh đến yếu tố di truyền; người ta có nhận xét là
tỷ lệ cận thị rất thay đổi tùy theo giống người. Tỷ dụ như người Anhđiêng ở Mêhicô
không bao giờ bị cận thị, dân tộc Palinêgrít ở Châu Phi tỷ lệ bị cận thị rất thấp (0.14%).
Ngược lại, các giống người Anhđu (Châu Á), Đức (Châu Âu) bị cận thị khá nhiều.
Thử kính mắt cận thị
Bệnh nhân cũng đứng cách bảng thị lực 5m, đặt trước từng mắt, kính -1D. Nếu mắt chính
thị hay viễn thị có lực điều tiết tốt (ở người trẻ) thì thị lực gần như không bị ảnh hưởng,
chỉ giảm đi khi lực điều tiết kém (người lớn tuổi). Nhưng nếu là cận thị thì thị lực sẽ tăng
rõ. Ta lần lượt cho những kính phân kỳ có số cao dần, thị lực sẽ tăng mãi cho đến mức tối
đa (có thể 10/10 hay hơn nữa). Nếu ta cứ tiếp tục tăng số kính lên thì có thể thị lực vẫn
cao như vậy ở vài số tiếp sau, rồi sẽ tụt xuống. Độ cận thị là: kính phân kỳ có số nhỏ nhất
cho thị lực nhìn xa cao nhất.
Thí dụ: Một mắt có độ cận thị là -4D, ta lần lượt cho các số kính từ -1, -2, -3 rồi -4. Với
kính -4D sẽ cho thị lực cao nhất tới 10/10. Nếu ta tăng số kính lên nữa như -5, -6 thị lực
có thể vẫn 10/10, như vậy là ta đã biến con mắt cận thị trở thành viễn thị, nhưng nhờ có
sức điều tiết tốt, nên mắt vẫn nhìn rõ. Vậy số kính đo độ cận thị đúng là -4D.

Tuy vậy, phương pháp trên vẫn dựa vào sự nhận thức chủ quan của bệnh nhân là chính.
Muốn xác định thật chính xác mức độ cận thị, người thầy thuốc phải soi bóng đồng tử sau
khi đã tra thuốc nhỏ mắt Atropin 0.5 – 1% nhiều lần, nhất là đối với trẻ em.
Nguyên tắc điều chỉnh cận thị bằng kính
- Không mang kính có làm cho cận thị nặng thêm không?
Rõ ràng là không. Nhiều trường hợp mang kính thường xuyên, nhưng không hề làm
ngừng quá trình phát triển của cận thị và ngược lại những trường hợp khác không đeo
kính, nhưng cận thị vẫn ổn định.
- Mang kính có làm cận thị nặng lên không?
Không. Chỉ khi nào dùng kính không thích hợp thì khi bỏ kính, mắt sẽ có cảm giác như
nặng lên.
Tóm lại, kính không có tác dụng gì đối với sự tiến triển của cận thị. Nhưng kính lại rất
cần thiết cho sự phát triển hài hòa của thị giác 2 mắt và sự phối hợp động tác điều tiết –
quy tụ. Bởi vậy, rất nên và phải dùng kính đối với mắt cận thị. Nhưng không nên đeo
thường xuyên. Đối với trẻ em, chỉ cần đeo kính trong lớp học để dễ dàng nhìn bảng và
khi nhìn gần là lúc tập luyện cho động tác phối hợp giữa điều tiết và quy tụ. Đối với
người lớn thì phải xét đến công việc cụ thể của từng người mà sử dụng kính cho thích
hợp. Một điều cần phải hết sức chú ý là không được đeo kính quá số, vì như vậy sẽ gây ra
một sự co kéo thường xuyên của cơ thể mi để trung hòa phần kính quá số, sẽ gây mỏi
mắt, nhức đầu.
4.2.3 Cận thị bệnh
Cận thị bệnh thường >-7D, có khi tới -20 hoặc -30D và nhất là có tổn hại ở đáy mắt.
Thị lực rất thấp khi chưa điều chỉnh bằng kính. Dù với kính thích hợp nhất, thị lực
thường chỉ đạt tới 4 – 5/10, có khi chỉ 1 hoặc 2/10.
Do nhãn cầu dài nên mắt hơi lồi, nhận thấy rất rõ khi cận thị 1 bên.
Cận thị bệnh tiến triển theo từng đợt cấp diễn xen giữa những giai đoạn dài ổn định. Khi
bệnh nặng lên nhanh chóng, người ta gọi là cận thị ác tính. Cận thị tăng lên từng năm, đôi
khi khó xác định là chỉ do cận thị hay còn có sự tham gia của thể thủy tinh bị xơ cứng.
Thị lực giảm dần đi và càng ngày càng khó điều chỉnh bằng kính. Các chức năng khác
của mắt cũng suy giảm rất sớm; thị trường bị tổn hại rất nhiều, mắt thích nghi trong tối

rất kém.
Ở đáy mắt có nhiều đám thoái hóa hắc võng mạc rất điển hình, những đám này tròn trắng
hay nhiều vòng. Đó là củng mạc được nhìn qua võng và hắc mạc đã bị teo. Lúc đầu,
những đám này nhỏ, sau tập trung lên thành một mảng rộng. Thường gặp những tổn hại
này ở cực sau, hình thái khá giống với một sẹo của viêm hắc mạc. Vì vậy người ta thường
hay gọi là viêm hắc võng mạc cận thị.
Trong khi tiến triển, cận thị còn kèm theo chảy máu, nhất là ở vùng hoàng điểm. Vết máu
rút đi nhanh chóng và để lại một vệt đen gọi là vệt Fuchs.
Về biến chứng thì thường gặp nhất và cũng khốc liệt nhất là bong võng mạc, nếu không
xử trí kịp thời và đúng sẽ mù vĩnh viễn. Một điều cần hết sức lưu ý là bệnh glô-côm phát
triển ở trên những mắt này rất dễ bị bỏ qua vì sự mềm giãn của củng mạc làm cho nhãn
áp như không cao, đến khi mắt mù mà vẫn tưởng nguyên nhân chỉ là cận thị.
4.3 Loạn thị:
Phải nói đến kính trụ trước khi nói đến loạn thị.
4.3.1 Kính trụ
4.3.1.1 Định nghĩa:
Kính trụ là những kính có một mặt phẳng và một mặt hình trụ. Một kính trụ có thể coi
như một sự chồng khít của rất nhiều thấu kính hội tụ (kính trụ hội tụ) hay phân kỳ (kính
trụ phân kỳ).
Tính chất
Một chùm sáng song song chiếu thẳng góc vào mặt phẳng của kính trụ, sau khi qua kính
trụ sẽ tạo thành một tiêu tuyến song song với trục của kính trụ.
Mắt nhìn qua một kính trụ: một vật vuông ABCD được nhìn qua một kính trụ đứng dọc;
nhìn như rộng ra nếu qua một kính trụ hội tụ và nhìn như hẹp lại nếu qua kính trụ phân
kỳ. Nếu vật là tròn, nhìn hình sẽ là bầu dục.
Muốn trung hòa tác dụng của một kính trụ:
Có 2 phương pháp:
- Gắn vào một kính trụ có cùng công suất nhưng khác dấu, có trụ song song (hệ thống
này trở thành một tấm phẳng).
- Gắn vào một kính trụ có cùng dấu và công suất, trục thẳng góc (hệ thống trở thành một

kính cầu). Vấn đề này có tầm quan trọng hàng đầu để điều chỉnh loạn thị.
Trong một hệ cầu - trụ nghĩa là tạo nên bởi sự phối hợp một kính trụ và một kính cầu,
những kinh tuyến không cùng một độ cong và do đó không cùng một công suất. Người ta
gọi “những kinh tuyến chính” là những kinh tuyến thẳng góc với nhau, trong đó độ cong,
có cái tối đa, có cái tối thiểu.
4.3.2 Định nghĩa của loạn thị:
Một hệ quang học loạn thị cho ảnh của một điểm không phải là một điểm, mà là hai
đường thẳng gọi là tiêu tuyến. Khoảng cách của hai tiêu tuyến xác định độ loạn thị. Tiêu
tuyến trước tạo bởi kinh tuyến
có triết quang cao nhất và tiêu tuyến sau bởi kinh tuyến có triết quang thấp nhất. Mỗi tiêu
tuyến đều thẳng góc với kinh tuyến gốc. Về lý thuyết, không có mắt nào là hoàn toàn
không loạn thị, nhưng trong thực tế người ta gọi là loạn thị khi có rối loạn về chức năng
thị giác kiểu loạn thị mà bệnh nhân nhận thức được.
4.3.3 Loạn thị do giác mạc
Loạn thị hầu hết là do giác mạc. Giác mạc ở đây không còn là một chỏm cầu với tất cả
mọi kinh tuyến đều có cùng một bán kính cong mà nó thay đổi tùy theo kinh tuyến.
Thực ra giác mạc bình thường cũng không phải hoàn toàn là một phần của hình cầu. Kinh
tuyến ngang có bán kính cong là 7,8 mm và dọc là 7,7mm. Như vậy là có loạn thị giác
mạc sinh lý. Độ loạn thị này được bù bằng độ loạn thị ngược lại của thể thủy tinh, nên có
sự cân bằng khúc xạ và mắt được chính thị hóa.
Người ta chia ra loạn thị đều và không đều.
4.3.3.1 Loạn thị đều
Trong loạn thị đều, các kinh tuyến thay đổi dần dần từ kinh tuyến có triết quang cao nhất
đến kinh tuyến có triết quang thấp nhất.
4.3.3.1.1 Vị trí tiêu tuyến so với giác mạc:
- Nếu kinh tuyến có triết quang cao nhất là dọc, loạn thì gọi là thuận. Thường gặp nhất,
tiêu tuyến trước nằm ngang.
- Nếu kinh tuyến có triết quang cao nhất là ngang, loạn thị gọi là nghịch. Tiêu tuyến trước
đứng dọc.
Khi những kinh tuyến chính không ở vị trí dọc và ngang, loạn thị gọi là chéo. Những tiêu

tuyến bấy giờ cũng chéo.
4.3.3.1.2 Vị trí tiêu tuyến so với võng mạc:
- Nếu một tiêu tuyến nằm trên võng mạc, loạn thị gọi là đơn, còn tiêu tuyến kia ở trước
(loạn thị đơn cận) hay ở sau (loạn thị đơn viễn).
- Nếu cả hai tiêu tuyến đều ở một phía võng mạc, loạn thị gọi là kép (kép cận nếu chúng
ở trước; kép viễn nếu chúng ở sau).
- Nếu một tiêu tuyến ở trước, tiêu tuyến kia ở sau, loạn thị gọi là hỗn hợp.
Vấn đề càng phức tạp nếu có sự tham gia của thể thủy tinh.
Mắt loạn thị nhìn kém, nhưng có thể khá hơn nếu một tiêu tuyến nằm ở võng mạc, đặc
biệt nếu là tiêu tuyến dọc. Không có một cơ chế nào có thể tác động trên tiêu tuyến ở
trước võng mạc; ngược lại tiêu tuyến nằm sau võng mạc, lại ở trên người có điều tiết tốt,
thì có thể được đưa về võng mạc. Bởi vậy khi tiêu tuyến dọc tương ứng với một kinh
tuyến viễn thị thì sẽ xuất hiện sự co quắp điều tiết để kéo tiêu tuyến dọc về võng mạc.
Kết quả là tiêu tuyến ngang bị kéo quá ra trước, trở thành cận thị. Loạn thị viễn mà khám
vội vàng thường nhầm với loạn thị cận và điều chỉnh theo như vậy. Điều chỉnh kiểu này
đôi khi hoàn toàn tốt đối với người bệnh trong một số năm, nhưng khi lực điều tiết bắt
đầu giảm sút sẽ xuất hiện mỏi mắt. Có khi lực điều tiết giảm sút sớm, trước 40 tuổi, hay
nhân dịp một bệnh hay một sang chấn, thì việc điều chỉnh loạn thị cận từ trước đến bây
giờ trở thành không phù hợp nữa.
Đối với loạn thị thì sự rối loạn về thị giác rất khác nhau tùy từng người, nhất là ở người
trẻ loạn thị +1 hay +2D đôi khi không cảm thấy gì và thị lực hoàn toàn bình thường.
Trong những trường hợp như thế, thường loạn thị có tiêu tuyến dọc ở trên võng mạc (loạn
thị thuận).
4.3.3.1.3 Những dấu hiệu thường thấy khiến người bệnh đi khám là:
- Song thị: hay gặp trong loạn thị nghịch hay loạn thị mất điều chỉnh. Loạn thị là nguyên
nhân hay gặp nhất đối với song thị một mắt. Cần phải khám kỹ khi có hiện tượng trên.
- Quáng mắt: ánh sáng mặt trời làm mắt khó chịu là dấu hiệu khá điển hình và cần phải
tìm xem có loạn thị không. Tất cả những rối loạn trên đều được giải thích theo kiểu nhìn
của người loạn thị. Thật vậy, họ nhìn khá rõ những ảnh nằm trên tiêu tuyến gần võng mạc
nhất. Đặt trước họ một mặt đồng hồ Parent, họ sẽ thấy rõ đường dọc hay các đường

ngang.
4.3.3.1.4 Các kiểu loạn thị
a. Loạn thị cận:
- Loạn thị cận đơn thuận. Tiêu tuyến trước nằm ngang trước võng mạc, tiêu tuyến sau
đứng dọc trên võng mạc. Thị lực không điều chỉnh cũng vẫn khá tốt.
Cần phải cảnh giác để không nhầm loại loạn thị này với loạn thị viễn có dạng trên do điều
tiết.
Ở trẻ em, nhất thiết phải khám kỹ sau khi đã nhỏ atropin để làm liệt điều tiết.
Điều chỉnh loạn thị cận đơn thuận khá đơn giản bằng một kính trụ phân kỳ trục nằm
ngang.
- Loạn thị cận đơn nghịch, tiêu tuyến dọc ở trước võng mạc. Điều chỉnh dễ dàng bằng
một kính trụ phân kỳ trục đứng dọc.
- Loạn thị cận đơn chéo: làm thị lực giảm rất nhiều và thường gây mỏi mắt. Điều chỉnh
bằng kính trụ phân kỳ trục chéo.
- Loạn thị cận kép, thuận, nghịch, chéo. Phải điều chỉnh kép: Điều chỉnh cận thị bằng
cách đưa một tiêu tuyến vào đúng trên võng mạc, rồi đưa tiêu tuyến thứ hai về nằm trên
tiêu tuyến thứ nhất. Điều chỉnh đôi khi khá tinh tế, người ta thường có xu hướng điều
chỉnh quá mức tật cận thị.
b. Loạn thị viễn:
- Loạn thị viễn đơn thuận. Tiêu tuyến dọc ở sau và tiêu tuyến ngang nằm trên võng mạc.
Bệnh nhân có xu hướng là điều tiết để nhìn rõ, như vậy là tiêu tuyến sau được đưa về
võng mạc, thị lực được tăng lên. Tiêu tuyến ngang ra trước võng mạc gây nên loạn thị
cận giả. Điều chỉnh bằng kính trụ hội tụ trục dọc.
- Loạn thị viễn đơn nghịch. Tiêu tuyến dọc nằm trên võng mạc, tiêu tuyến ngang ở sau.
Điều chỉnh bằng kính trụ hội tụ trục ngang.
- Loạn thị viễn đơn chéo: điều chỉnh bằng kính trụ hội tụ trục chéo.
- Loạn thị viễn kép thuận hay nghịch: cả hai tiêu tuyến đều ở sau võng mạc, người trẻ sẽ
điều tiết để đưa tiêu tuyến dọc nằm trên võng mạc. Nếu loạn thị viễn kép thuận tiêu tuyến
dọc ở sau và đưa về nằm trên võng mạc, thì tiêu tuyến trước ngang phải ở trước võng
mạc, như vậy sẽ gây nên loạn thị cận giả. Nếu loạn thị viễn nghịch tiêu tuyến trước dọc

được đưa về nằm trên võng mạc, còn tiêu tuyến sau ngang vẫn nằm sau võng mạc.
Điều chỉnh thường gồm một kính trụ hội tụ và kính cầu hội tụ.
c. Loạn thị hỗn hợp:
Có một tiêu tuyến ở trước võng mạc, còn tiêu tuyến kia ở sau. Nếu loạn thị thuận, tiêu
tuyến trước ngang, tiêu tuyến sau dọc. Người trẻ điều tiết để đưa tiêu tuyến dọc về trên
võng mạc. Như vậy giống như loạn thị cận đơn thuận.
Nếu loạn thị nghịch tiêu tuyến trước dọc và bệnh nhân không thể làm di chuyển nó được;
tiêu tuyến sau ngang. Điều chỉnh gồm một kính trụ và một kính cầu có dấu ngược nhau.
Sự phối hợp có thể hoặc là một kính trụ phân kỳ và một kính cầu hội tụ, hoặc ngược lại.
4.3.3.1.5 Đo loạn thị:
Người ta sử dụng máy Javal cho phép như chúng ta đã biết xem nó chồng lên nhau mấy
bậc thang, chứng tỏ có sự khác nhau của độ cong các đường kinh tuyến chính. Nó không
cho biết là loạn thị cận hay viễn. Cần phải nhắc lại rằng mắt chính thị cũng có loạn thị
giác mạc là 3/4D; một sự chồng lên nhau 3/4 bậc thang là mắt bình thường.
Soi bóng đồng tử cho phép đánh giá chẩn đoán kiểu cận hay viễn và độ loạn thị. Tuy
nhiên, soi bóng đồng tử chỉ ước lượng trục loạn thị một cách tương đối.
Trong mọi trường hợp cần phải hết sức lưu ý đến yếu tố điều tiết. Soi bóng đồng tử thật
chu đáo trước khi thử kính là rất cần thiết. Như vậy sẽ tránh được nhiều sai sót.
4.3.3.1.6 Điều chỉnh loạn thị:
Điều chỉnh loạn thị, nhất là loạn thị kép là một trong những vấn đề khó nhất của tật khúc
xạ.
Điều chỉnh với bảng thị lực. Dựa vào soi bóng đồng tử và máy Javal, người ta cho kính
điều chỉnh rồi lấy thị lực. Sau đó tăng hoặc giảm số kính trụ, rồi kính cầu xem thị lực có
khá hơn không. Kiểm tra lại trục của kính bằng cách di chuyển từ từ cứ 50 một về hai
phía của trục, như vậy cho đến khi thị lực tăng lên.
Phương pháp này tương đối đơn giản cho phép đạt tới một sự điều chỉnh hoàn hảo trong
đa số trường hợp. Tuy vậy có những trường hợp thật khó để tìm một cách chính xác trục
của kính nếu chỉ căn cứ vào bảng thị lực. Bởi vậy người ta dùng hai phương pháp sau
đây: sử dụng đồng hồ Parent hay Green và kính trụ chéo Jackson.
Đồng hồ Parent hay Green cho bệnh nhân thấy những kinh tuyến với những hướng khác

nhau. Người loạn thị sẽ nhìn các đường, có đường rõ, có đường mờ. Sau khi được điều
chỉnh tốt sẽ nhìn các đường rõ như nhau.
Kính trụ chéo Jackson là một dụng cụ có độ chính xác cao. Nó gồm hai kính trụ +0.25 và
-0.25D hoặc +0.50D và -0.50D đặt thẳng góc với nhau. Hai gạch trắng và đỏ đánh dấu
loại kính, số kính và trục kính. Thí dụ ta đặt kính trụ +0.25 thẳng đứng, tác dụng của hệ
thống sẽ là +0.25 từ phải sang trái và -0.25 từ trên xuống dưới. Nó có cùng công suất như
một hệ kính ghép (900 +0.50) -0.25 và ở vị trí ngược lại nó sẽ là (900-0.50)+0.25.
Khi đặt một hệ thống như vậy trước mắt chính thị hay mắt loạn thị đã được điều chỉnh
hoàn toàn thì dù ở vị trí này hay vị trí khác, nó sẽ gây nên loạn thị hỗn hợp, một tiêu
tuyến ở trước còn tiêu tuyến kia ở sau võng mạc, thị lực giảm.
Nếu loạn thị điều chỉnh chưa hoàn toàn thì ở một trong hai vị trí kính trụ sẽ làm cho tiêu
tuyến dọc lại gần võng mạc và thị lực sẽ tăng, nếu ra xa thị lực sẽ giảm.
4.3.3.1.7 Kết quả điều chỉnh loạn thị
Điều chỉnh loạn thị thường khó. Cần biết một số điểm sau đây: không thể đạt được một
thị lực bình thường ở những bệnh nhân bị loạn thị nặng, nói chung là 6 đến 7/10.
Sự không tương xứng giữa kết quả của việc khám xét khách quan và sự điều chỉnh chủ
quan không phải là ít gặp. Một số bệnh nhân bị loạn thị tới 2-3D (với máy Javal) nhưng
thị lực vẫn là 10/10 và không thấy có gì khó chịu. Được vậy là nhờ điều tiết đã đưa tiêu
tuyến dọc về trên võng mạc. Nhưng đến khoảng 40 tuổi việc tự điều chỉnh này sẽ trở nên
rất khó khăn vì lực điều tiết giảm sút đi nhiều.
Ngược lại, một số bệnh nhân không bị loạn thị giác mạc, nhưng đeo kính trụ, thị lực cũng
tăng, đó là có loạn thị do thể thủy tinh.
Sau hết là sự điều chỉnh kính ở một số bệnh nhân có thể thấy khác nhiều so với sự khám
xét bằng máy Javal và soi bóng đồng tử. Như vậy là có thể có sự không tương ứng giữa
trục lý thuyết và trục thực tế. Bởi vậy khi điều chỉnh kính trụ, chúng ta phải dò dẫm để đi
đến kết quả thực tế tốt nhất.
4.3.3.2 Loạn thị không đều:
Thường do hậu quả của một dị dạng giác mạc như giác mạc hình chóp, do sẹo sau khi
ghép giác mạc. Trong mọi trường hợp, khám với máy Javal cho thấy hai tiêu tuyến không
thể chồng lên nhau.

Điều chỉnh rất khó. Phương pháp tốt nhất là dùng kính có khe cho mắt cần điều chỉnh và
bảo người bệnh tự tìm một vị trí bất kỳ của khe sao cho thị lực tốt nhất. Vị trí này tương
ứng với trục của kính trụ cần đeo rồi dần dần từng bước xác định công suất và dấu của
kính trụ.
Trong các loạn thị không đều, một loại đặc biệt hay gặp là giác mạc hình chóp. Ở giai
đoạn đầu, chẩn đoán không phải dễ dàng, phải khám bằng đĩa Placido mới phát hiện
được. Vào những giai đoạn sau, chẩn đoán khá dễ, loạn thị rất nặng, đỉnh giác mạc rất
mỏng.
Điều chỉnh rất khó, nếu còn kín đáo ở cả hai mắt và không tiến triển: có thể cho đeo kính.
Nếu nặng ở cả hai mắt hoặc một mắt thì cho đeo kính tiếp xúc. Kính tiếp xúc còn có tác
dụng làm ngừng quá trình phát triển của loạn thị không đều.
Ngày nay người ta thường điều chỉnh giác mạc hình chóp bằng kính củng mạc.
4.3.4 Loạn thị không do giác mạc:
Rất quan trọng, có thể:
- Loạn thị do thể thủy tinh – lệch thể thủy tinh. Hiếm hơn nữa là loạn thị do độ cong của
thể thủy tinh hay do chiết suất.
- Loạn thị do võng mạc. Trên những người cận thị nặng, cực sau của nhãn cầu, đáng lẽ
nằm trên mặt phẳng trước sau, lại bị lệch sang một bên (phình nhãn cầu về phía sau)
5. LÃO THỊ
5.1 Định nghĩa
Lão thị là một biểu hiện của mắt bị mờ khi nhìn gần, có tính sinh lý, thường từ tuổi 40, do
giảm sút lực điều tiết.
5.2 Triệu chứng
Người bị lão thị, thường đến khám với lý do mờ mắt khi nhìn gần: đọc sách, khâu vá…
Khi đọc sách, người đó không nhìn rõ các chữ nhỏ, hoặc sau một thời gian đọc thấy các
chữ nhòa, nhìn không rõ, phải ngừng đọc một lúc, sau đó lại tiếp tục đọc rõ như trước.
Muốn nhìn rõ, phải tăng thêm ánh sáng hoặc phải đưa sách ra xa mắt, nhưng chữ nhìn
càng xa, góc thị giác càng nhỏ, đọc càng khó khăn.
5.3 Thử kính
5.3.1 Thử kính từng mắt: bịt một mắt, trước mắt kia lần lượt để kính cầu hội tụ, với cự ly

thích hợp; khi đọc rõ được các hàng chữ nhỏ, đọc nhanh và mắt có cảm giác thoải mái,
nhẹ nhàng là được.
Về lý thuyết đối với mắt chính thị, căn cứ vào tuổi, ta có thể chọn kính đọc sách một cách
ước lượng như sau:
45 tuổi kính +1.0D
50 tuổi kính +1.5D
55 tuổi kính +2.0D
60 tuổi kính +3.0D
65 tuổi kính +3.5D
Nhưng nhất thiết phải thử trên thực tế.
5.3.2 Thử kính hai mắt: sau khi thử từng mắt, nên cho bệnh nhân đeo số kính thích hợp cả
hai mắt và để bệnh nhân đọc sách trong thời gian chừng 15 – 30 phút. Sau thời gian đó,
nếu bệnh nhân có cảm giác thoải mái, nhẹ nhàng, mắt không mỏi, không lóa, tức là kính
thích hợp.
GIẢI THÍCH TỪ CHUYÊN MÔN
- Điều tiết (accommodation): sự điều chỉnh của mắt sao cho nhìn rõ ở những khoảng cách
khác nhau do thể thủy tinh thực hiện dưới tác động của cơ thể mi.
- Thể mi (ciliary body): phần bồ đào mạc ở giữa mống và hắc mạc. Nó gồm nếp thể mi và
cơ thể mi.
- Kính phân kỳ (concave lens): kính có khả năng làm phân kỳ tia sáng khi qua nó. Ký
hiệu bằng (-).
- Kính hội tụ (convex lens): kính có khả năng làm hội tụ tia sáng khi qua nó vào một tiêu
điểm. Ký hiệu (+).
- Diop (diopter): đơn vị đo lường công suất khúc xạ.
__________________

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×