Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Học tiếng trung qua tác phẩm Cố Hương Lỗ Tấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.04 KB, 21 trang )

CỐ HƯƠNG – LỖ TẤN
故乡 – 鲁迅 – 鲁迅
我冒着严寒,回到相隔二千余里,别了二十余年的故乡 – 鲁迅去。
Wǒ màozhe yánhán, huí dào xiānggé èrqiān yú lǐ, biéle èrshí nián de gùxiāng qù.
Tơi khơng quản trời lạnh giá, về thăm làng cũ, xa những hai ngàn dặm mà tôi đã từ
biệt hơn hai mươi năm nay.
时候既然是深冬;渐近故乡 – 鲁迅时,天气又阴晦了,冷风吹进船舱中,呜呜的响,
从篷隙向外一望,苍黄的天底下,远近横着几个萧索的荒村,没有一些活气。
我的心禁不住悲凉起来了。
Shíhịu jìrán shì shēn dōng; jiàn jìn gùxiāng shí, tiānqì u yīn hle, lěngfēng chuī
jìn chncāng zhōng, wū wū de xiǎng, cóng péng xì xiàng wài yīwàng, cānghng de
tiān dǐxia, yuǎnjìn héngzhe jǐ gè xiāosuǒ de huāngcūn, méiyǒu yīxiē hqì. Wǒ de
xīn jīnbuzhù bēiliáng qǐláile.
Đang độ giữa đông. Gần về đến làng, trời lại càng u ám. Gió lạnh lùa vào khoang
thuyền, vi vu. Nhìn qua các khe hở mui thuyền, thấy xa gần thấp thống mấy thơn
xóm tiêu điều, hoang vắng, nằm im lìm dưới vịm trời màu vàng úa, khơng nén được,
lịng tơi se lại.
阿!这不是我二十年来时时记得的故乡 – 鲁迅?
Ā! Zhè bùshì wǒ èrshí niánlái shíshí jìdé de gùxiāng?
A, đây thật có phải là làng cũ mà hai mươi năm trời nay tơi hằng ghi lấy hình ảnh
trong ký ức khơng?
我所记得的故乡 – 鲁迅全不如此。我的故乡 – 鲁迅好得多了。但要我记起他的美丽,说出他
的佳处来,却又没有影像,没有言辞了。仿佛也就如此。
Wǒ suǒ jìdé de gùxiāng quán bù rúcǐ. Wǒ de gùxiāng hǎo dé duōle. Dàn yào wǒ jì qǐ
tā dì měilì, shuō chū tā de jiā chù lái, q u méiyǒu yǐngxiàng, méiyǒu ncíle.
Fǎngfú yě jiù rúcǐ.
Hình ảnh làng cũ trong ký ức tôi không giống hẳn như thế này. Làng cũ tôi đẹp hơn
kia! Nhưng nếu phải nhớ rõ đẹp như thế nào, nói rõ đẹp ở chỗ nào thì thật khơng có
hình ảnh, ngơn ngữ nào diễn tả cho được. Phảng phất thì cũng có hơi giống đấy.
于是我自己解释说:故乡 – 鲁迅本也如此,——虽然没有进步,也未必有如我所感的
悲凉,这只是我自己心情的改变罢了,因为我这次回乡 – 鲁迅,本没有什么好心绪。


Yúshì wǒ zìjǐ jiěshì shuō: Gùxiāng běn yě rúcǐ,——suīrán méiyǒu jìnbù, yě wèibì
yǒurú wǒ suǒgǎn de bēiliáng, zhè zhǐshì wǒ zìjǐ xīnqíng de gǎibiàn bàle, yīnwèi wǒ
zhè cì h xiāng, běn méiyǒu shé me hǎo xīnxù.


Tơi nghĩ bụng: Hẳn làng cũ mình vốn chỉ như thế kia thôi, tuy chưa tiến bộ hơn xưa,
nhưng cũng vị tất đến nỗi thê lương như mình tưởng. Chẳng qua là tâm hồn mình đã
đổi khác, bởi vì về thăm chuyến này, lịng mình vốn đã khơng vui.
我这次是专为了别他而来的。我们多年聚族而居的老屋,已经公同卖给别姓了,
交屋的期限,只在本年,所以必须赶在正月初一以前,永别了熟识的老屋,而
且远离了熟识的故乡 – 鲁迅,搬家到我在谋食的异地去。
Wǒ zhè cì shì zhuān wèile bié tā ér lái de. Wǒmen duōnián jù zú ér jū de lǎo wū,
yǐjīng gōng tóng mài gěi bié xìngle, jiāo wū de qíxiàn, zhǐ zài běn nián, suǒyǐ bìxū
gǎn zài zhēngyuè chū yī yǐqián, yǒngbiéle shúshí de lǎo wū, érqiě yuǎnlíle shúshí de
gùxiāng, bānjiā dào wǒ zài móu shí de dì qù.
Về thăm chuyến này, ý định là để từ giã lần cuối cùng ngơi nhà cũ nơi cả đại gia đình
chúng tơi đời đời ở chung với nhau, mà chúng tôi đã phải đồng tình bán cho người ta
rồi, nội năm nay phải giao cho họ. Vì thế, tơi cần phải về trước Tết vĩnh biệt ngôi nhà
yêu dấu và từ giã làng cũ thân mến, đem gia đình đến nơi đất khách, nơi tơi đang làm
ăn, sinh sống.
第二日清早晨我到了我家的门口了。瓦楞上许多枯草的断茎当风抖着,正在说
明这老屋难免易主的原因。
Dì èr rì qīng zǎochén wǒ dàole wǒjiā de ménkǒule. Wǎléng shàng xǔduō kūcǎo de
duàn jīng dāng fēng dǒuzhe, zhèngzài shuōmíng zhè lǎo wū nánmiǎn zhǔ de
ynyīn.
Tinh mơ sáng hơm sau, tơi về tới cổng nhà. Trên mái ngói, mấy cọng tranh khơ phất
phơ trước gió. Đủ rõ nhà khơng đổi chủ khơng được.
几房的本家大约已经搬走了,所以很寂静。我到了自家的房外,我的母亲早已
迎着出来了,接着便飞出了八岁的侄儿宏儿。
Jǐ fáng de běnjiā dàyuē yǐjīng bān zǒule, suǒyǐ hěn jìjìng. Wǒ dàole zìjiā de fáng wài,

wǒ de mǔqīn zǎoyǐ ngzhe chūláile, jiēzhe biàn fēi chūle bā s de zhí er hóng er.
Những gia đình khác có lẽ đã dọn đi rồi cho nên cảnh tượng càng hiu quạnh. Tôi vừa
bước vào gian nhà chúng tơi ở thì mẹ tơi đã chạy ra đón. Hoằng, đứa cháu mới lên
tám tuổi, cũng chạy theo sau.
我的母亲很高兴,但也藏着许多凄凉的神情,教我坐下,歇息,喝茶,且不谈
搬家的事。宏儿没有见过我,远远的对面站着只是看。
Wǒ de mǔqīn hěn gāoxìng, dàn yě cángzhe xǔduō qīliáng de shénqíng, jiào wǒ z
xià, xiēxī, hē chá, qiě bù tán bānjiā de shì. Hóng er méiyǒu jiàng wǒ, yuǎn yuǎn de
dmiàn zhànzhe zhǐshì kàn.
Mẹ tơi rất mừng rỡ, nhưng nét mặt vẫn ẩn một nỗi buồn thầm kín. Mẹ tơi bảo tơi ngồi
xuống, nghỉ ngơi, uống trà, khơng đả động gì đến chuyện dọn nhà cả. Cháu Hoằng
chưa gặp tôi bao giờ chỉ dám đứng đằng xa nhìn tơi chịng chọc.


但我们终于谈到搬家的事。我说外间的寓所已经租定了,又买了几件家具,此
外须将家里所有的木器卖去,再去增添。
Dàn wǒmen zhōngyú tán dào bānjiā de shì. Wǒ shuō wàijiān de ýsuǒyǐjīng zū
dìngle, u mǎile jǐ jiàn jiājù, cǐwài xū jiāng jiālǐ suǒyǒu de mùqì mài qù, zài qù
zēngtiān.
Nhưng rồi chúng tôi cũng bàn đến chuyện dọn nhà. Tôi nói nhà trên kia đã thuê xong,
cũng đã sắm được ít đồ đạc, giờ hãy đem các thứ đồ gỗ ở nhà này bán đi hết lấy tiền
mua thêm sau.
母亲也说好,而且行李也略已齐集,木器不便搬运的,也小半卖去了,只是收
不起钱来。
Mǔqīn yě shuō hǎo, érqiě xínglǐ yě lüè yǐ qíjí, mùqì bùbiàn bānýn de, yě xiǎobàn
mài qùle, zhǐshì shōu bù qǐ qián lái.
Mẹ tôi cho cũng phải và bảo hành lý đã thu xếp gọn gàng đâu vào đấy cả rồi, đồ gỗ
không tiện chuyên chở nhưng tiền chưa thu vén được đủ.
“你休息一两天,去拜望亲戚本家一回,我们便可以走了。”母亲说。
“Nǐ xiūxí yī liǎng tiān, qù bàiwàng qīnqī běnjiā h, wǒmen biàn kěyǐ zǒule.”

Mǔqīn shuō.
Mẹ tơi nói: - Con hãy nghỉ ngơi vài hôm, đi thăm các nhà bà con một chút rồi mẹ con
mình lên đường.
“是的。”
“Shì de.”
- Vâng.
“还有闰土,他每到我家来时,总问起你,很想见你一回面。我已经将你到家
的大约日期通知他,他也许就要来了。”
“Hái yǒu rùn tǔ, tā měi dào wǒjiā lái shí, zǒng wèn qǐ nǐ, hěn xiǎngjiàn nǐ yī huí
miàn. Wǒ yǐjīng jiāng nǐ dàojiā de dàyuē rìqí tōngzhī tā, tā yěxǔ jiù yào láile.”
- Có anh Nhuận Thổ lần nào đến chơi cũng nhắc nhở đến con và rất mong có ngày
được gặp con. Mẹ đã nhắn tin cho anh ấy biết chừng ngày nào con về. Có lẽ anh ấy
cũng sắp đến thơi.
这时候,我的脑里忽然闪出一幅神异的图画来:深蓝的天空中挂着一轮金黄的
圆月,下面是海边的沙地,都种着一望无际的碧绿的西瓜,其间有一个十一二
岁的少年,项带银圈,手捏一柄钢叉,向一匹猹尽力的刺去,那猹却将身一扭,
反从他的胯下逃走了。
Zhè shíhịu, wǒ de nǎo lǐ hūrán shǎn chū yī fú shényì de túhuà lái: Shēnlán de
tiānkōng zhōng guàzhe yī lún jīnhuáng de yuán yuè, xiàmiàn shì hǎibiān de shā dì,
dōu zhǒngzhe yīwàngwújì de bìlǜ de xīguā, qíjiān yǒu yīgè shíyī'èr s de shàonián,


xiàng dài yín quān, shǒu niē yī bǐng gāng chā, xiàng yī pǐ chá jìnlì de cì qù, nà chá
què jiāng shēn yī niǔ, fǎn cóng tā de kuà xià táozǒule.
Lúc bấy giờ trong ký ức tôi bỗng hiện ra một cảnh tượng thần tiên, kỳ dị: Một vừng
trăng tròn vàng thắm treo lửng lơ trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ
biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn. Giữa ruộng dưa, một đứa bé
trạc mười một, mười hai tuổi, cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba, đang
cố sức đâm theo một con "tra".32 Con vật bỗng quay lại, luồn qua háng đứa bé, chạy
mất.

这少年便是闰土。我认识他时,也不过十多岁,离现在将有三十年了;那时我
的父亲还在世,家景也好,我正是一个少爷。那一年,我家是一件大祭祀的值
年。
Zhè shàonián biàn shì rùn tǔ. Wǒ rènshí tā shí, yě bùg shí duō s, lí xiànzài jiāng
yǒu sānshí niánle; nà shí wǒ de fùqīn hái zàishì, jiā jǐng yě hǎo, wǒ zhèng shì yīgè
shàoyé. Nà yī nián, wǒjiā shì yī jiàn dà jìsì de zhí nián.
Đứa bé ấy chính là Nhuận Thổ. Khi tôi quen Nhuận Thổ, cách đây khoảng chừng ba
mươi năm, Nhuận Thổ chỉ độ lên mười. Lúc đó thầy tơi hãy cịn, cảnh nhà sung túc,
tơi đàng hồng là một cậu ấm. Năm ấy là năm đến lượt nhà tôi lo giỗ tổ.
这祭祀,说是三十多年才能轮到一回,所以很郑重;正月里供祖像,供品很多,
祭器很讲究,拜的人也很多,祭器也很要防偷去。
Zhè jìsì, shuō shì sānshí duō nián cáinéng lún dào yī h, suǒ yǐ hěn zhèngzhịng;
zhēngy lǐ gōng zǔ xiàng, gịngpǐn hěnduō, jìqì hěn jiǎngjiù, bài de rén yě hěnduō,
jìqì yě hěn o fáng tōu qù.
Nghe nói thì cứ hơn ba mươi năm mới đến lượt lo giỗ này một lần, cho nên rất linh
đình. Giỗ vào tháng giêng; lễ vật rất nhiều, các đồ tế rất sang, người đến lễ cũng rất
đơng, vì thế phải đề phịng mất cắp.
我家只有一个忙月(我们这里给人做工的分三种:整年给一定人家做工的叫长
工;按日给人做工的叫短工;自己也种地,只在过年过节以及收租时候来给一
定人家做工的称忙月),忙不过来,他便对父亲说,可以叫他的儿子闰土来管
祭器的。
Wǒjiā zhǐyǒu yīgè máng yuè (wǒmen zhèlǐ jǐ rén zgōng de fēn sān zhǒng: Zhěng
nián gěi yīdìng rénjiā zgōng de jiào chánggōng; àn rì jǐ rén zgōng de jiào
duǎngōng; zìjǐ yě zhịng dì, zhǐ zài gnián gjié yǐjí shōu zū shíhịu lái gěi yīdìng
rénjiā zgōng de chēng máng y), máng bùg lái, tā biàn d fùqīn shuō, kěyǐ jiào
tā de érzi rùn tǔ lái guǎn jìqì de.
Nhà tơi chỉ nuôi một người ở tháng (địa phương tôi, người đi làm thuê chia làm ba
hạng, ở năm gọi là "trường niên", làm thuê từng ngày gọi là "đoản công", nhà mình
cũng có cày, chỉ giỗ tết, hay vụ thu tơ, đến làm mướn cho người ta thì gọi là "ở



tháng"). Người ở bận quá, làm không hết việc, liền xin thầy tôi cho gọi thằng con là
Nhuận Thổ đến để nó trơng coi các thứ đồ cho.
我的父亲允许了;我也很高兴,因为我早听到闰土这名字,而且知道他和我仿
佛年纪,闰月生的,五行缺土,所以他的父亲叫他闰土。他是能装弶捉小鸟雀
的。
Wǒ de fùqīn yǔnxǔle; wǒ yě hěn gāoxìng, yīnwèi wǒ zǎo tīng dào rùn tǔ zhè míngzì,
érqiě zhīdào tā hé wǒ fǎngfú niánjì, rùnyuè shēng de, wǔháng quē tǔ, suǒyǐ tā de
fùqīn jiào tā rùn tǔ. Tā shì néng zhuāng jiàng zhuō xiǎo niǎo q de.
Thầy tơi bằng lịng. Tơi cũng rất thích vì đã có nghe nói đến Nhuận Thổ, lại biết
Nhuận Thổ với tơi tuổi cũng st sốt bằng nhau. Hắn sinh tháng nhuận, ngũ hành
khuyết thổ33nên bố hắn đặt tên là Nhuận Thổ. Hắn bắt chim tước thì tài lắm.
我于是日日盼望新年,新年到,闰土也就到了。好容易到了年末,有一日,母
亲告诉我,闰土来了,我便飞跑的去看。
Wǒ yúshì rì rì pànwàng xīnnián, xīnnián dào, rùn tǔ yě jiù dàole. Hǎo róng dàole
niánmị, yǒuyī rì, mǔqīn gàosù wǒ, rùn tǔ láile, wǒ biàn fēi pǎo de qù kàn.
Vì vậy ngày nào tôi cũng mong cho mau đến năm mới. Năm mới đến thì Nhuận Thổ
cũng đến mà! Chờ mãi mới hết năm. Một hôm, mẹ tôi bảo: "Thằng Nhuận Thổ đến
rồi đấy!" Tôi liền chạy ra xem.
他正在厨房里,紫色的圆脸,头戴一顶小毡帽,颈上套一个明晃晃的银项圈,
这可见他的父亲十分爱他,怕他死去,所以在神佛面前许下愿心,用圈子将他
套住了。
Tā zhèngzài chúfáng lǐ, zǐsè de yuán liǎn, tóu dài yī dǐng xiǎo zhān mào, jǐng shàng
tào yīgè mínghuànghuǎng de yín xiàngquān, zhè kějiàn tā de fùqīn shífēn ài tā, pà tā
sǐqù, suǒyǐ zài shén fó miànqián xǔ xià ynxīn, ng quānzi jiāng tā tào zhùle.
Hắn đang đứng trong bếp, khuôn mặt trịn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lơng
chiên bé tí tẹo, cổ đeo vịng bạc sáng lống. Đủ biết bố hắn quý hắn như thế nào: sợ
hắn khó ni, bố hắn đã nguyện trước thần phật làm vịng xích, xích lại.
他见人很怕羞,只是不怕我,没有旁人的时候,便和我说话,于是不到半日,
我们便熟识了。

Tā jiàn rén hěn pàxiū, zhǐshì bùpà wǒ, méiyǒu pángrén de shíhịu, biàn hé wǒ
shuōh, shì bù dào bànrì, wǒmen biàn shúshíle.
Hắn thấy ai là bẽn lẽn, chỉ khơng bẽn lẽn với một mình tơi thơi. Khi vắng người, hắn
mới nói chuyện với tơi. Vì thế chưa đầy nửa ngày, chúng tơi đã thân nhau.
我们那时候不知道谈些什么,只记得闰土很高兴,说是上城之后,见了许多没
有见过的东西。
Wǒmen nà shíhịu bù zhīdào tán xiē shénme, zhǐ jìdé rùn tǔ hěn gāoxìng, shuō shì
shàng chéng zhīhịu, jiànle xǔduō méiyǒu jiàng de dōngxī.


Khơng biết bấy giờ chúng tơi nói với nhau những gì, chỉ nhớ rằng Nhuận Thổ thích
chí lắm. Hắn bảo lên tỉnh hắn mới được trông thấy những điều hắn chưa bao giờ
trơng thấy cả.
第二日,我便要他捕鸟。他说:
Dì èr rì, wǒ biàn o tā bǔ niǎo. Tā shuō:
Hôm sau, tôi rủ hắn bẫy chim. Hắn nói:
“这不能。须大雪下了才好。我们沙地上,下了雪,我扫出一块空地来,用短
棒支起一个大竹匾,撒下秕谷,看鸟雀来吃时,我远远地将缚在棒上的绳子只
一拉,那鸟雀就罩在竹匾下了。什么都有:稻鸡,角鸡,鹁鸪,蓝背……”……”
“Zhè bùnéng. Xū dàxuě xiàle cái hǎo. Wǒmen shā dìshàng, xiàle xuě, wǒ sǎo chū
yīki kịngdì lái, ng duǎn bàng zhī qǐ yīgè dàzhú biǎn, sā xià bǐ gǔ, kàn niǎo q
lái chī shí, wǒ yuǎn yuǎn dì jiāng fù zài bàng shàng de shéngzi zhǐ yī lā, nà niǎo què
jiù zhào zài zhú biǎn xiàle. Shénme dōu yǒu: Dào jī, jiǎo jī, bó gū, lán bèi……”
Khơng được đâu! Phải chờ tuyết xuống cho nhiều đã. Làng em toàn đất cát, hễ tuyết
xuống là em quét lấy một khoảng đất trống, dùng một cái que ngắn chống một cái
nong lớn, rắc ít lúa lép, thấy chim tước xuống ăn, đứng đằng xa giật mạnh sợi dây
buộc vào cái que, thế là chim bị chụp vào cái nong hết. Thứ nào cũng có: sẻ đồng,
chào mào, "bột cơ", sẻ xanh lưng.
我于是又很盼望下雪。
wǒ shì u hěn pànwàng xià xuě.

Vì thế, tơi lại càng chờ ngày tuyết xuống.
闰土又对我说:
Rùn tǔ u d wǒ shuō:
Nhuận Thổ lại nói:
“现在太冷,你夏天到我们这里来。我们日里到海边检贝壳去,红的绿的都有,
鬼见怕也有,观音手也有。晚上我和爹管西瓜去,你也去。”
“Xiànzài tài lěng, nǐ xiàtiān dào wǒmen zhèlǐ lái. Wǒmen rì lǐ dào hǎibiān jiǎn bèiké
qù, hóng de lǜ de dōu yǒu, guǐ jiàn pà yěyǒu, guānyīn shǒu yěyǒu. Wǎnshàng wǒ hé
diē guǎn xīguā qù, nǐ yě qù.”
Bây giờ trời đang rét lắm. Đến mùa hè, anh xuống nhà em chơi. Ban ngày, chúng
mình ra biển nhặt vỏ sị, màu đỏ có, màu xanh có, đủ cả. Có cả sị "mặt quỷ", sị "tay
phật". Tối đến, em và thầy em đi canh dưa thì anh cũng đi...
“管贼吗?”
“Guǎn zéi ma?”
Canh trộm à?


“不是。走路的人口渴了摘一个瓜吃,我们这里是不算偷的。要管的是獾猪,
刺猬,猹。月亮底下,你听,啦啦的响了,猹在咬瓜了。你便捏了胡叉,轻轻
地走去……”
“Bùshì. Zǒulù de rén kǒu kěle zhāi yīgè guā chī, wǒmen zhèlǐ shì bù suàn tōu de. Yào
guǎn de shì huān zhū, cìwèi, chá. Yuèliàng dǐxia, nǐ tīng, lā lā de xiǎngle, chá zài yǎo
guāle. Nǐ biàn niēle hú chā, qīng qīng de zǒu qù……”
Không phải. Ở làng em, người ta đi qua đường khát nước hái một quả dưa ăn, không
kể là lấy trộm. Canh là canh lợn rừng, nhím, tra. Này nhé! Sáng trăng. Có tiếng sột
soạt. Tra đang ngốn dưa đấy! Thế là cầm đinh ba khe khẽ tiến lên...
我那时并不知道这所谓猹的是怎么一件东西——便是现在也没有知道——只是
无端的觉得状如小狗而很凶猛。
wǒ nà shí bìng bù zhīdào zhè suǒwèi chá de shì zěnme yī jiàn dōngxī——biàn shì
xiànzài yě méiyǒu zhīdào——zhǐshì wúduān dì juédé zhuàng rú xiǎo gǒu ér hěn

xiōngměng.
Hồi đó - và cho đến cả bây giờ nữa -, tơi vẫn chưa biết con tra là con gì. Chẳng căn
cứ vào đâu, tơi cứ tưởng tượng hình thù nó như con chó con nhưng dữ tợn hơn.
“他不咬人么?”
“Tā bù yǎo rén me?”
Nó khơng cắn à?
“有胡叉呢。走到了,看见猹了,你便刺。这畜生很伶俐,倒向你奔来,反从
胯下窜了。他的皮毛是油一般的滑……”……”
“Yǒu hú chā ne. Zǒu dàole, kànjiàn chále, nǐ biàn cì. Zhè chùshēng hěn línglì, dǎo
xiàng nǐ bēn lái, fǎn cóng kuà xià cuànle. Tā de pímáo shì u yībān de h……”
Đã có đinh ba rồi. Tiến lên gần, thấy tra là đâm ngay. Giống ấy tinh khơn lắm. Nó
quay lại, đâm thẳng về phía mình rồi luồn qua háng mình, biến mất. Lơng, da nó trơn
như mỡ.
我素不知道天下有这许多新鲜事:海边有如许五色的贝壳;西瓜有这样危险的
经历,我先前单知道他在水果店里出卖罢了。
wǒ sù bù zhīdào tiānxià yǒu zhè xǔduō xīnxiān shì: Hǎibiān yǒu rúxǔ wǔsè de bèiké;
xīguā yǒu zhèyàng wéixiǎn de jīnglì, wǒ xiānqián dān zhīdào tā zài shuǐguǒ diàn lǐ
chūmài bàle.
Tơi chưa hề biết trên đời này có những chuyện mới lạ như vậy: bên bờ có những vỏ
sị đủ màu sắc như thế kia, và có được quả dưa hấu ăn cũng phải trải qua bao nhiêu là
nguy hiểm. Trước đây tôi chỉ biết quả dưa hấu bán ở hàng hoa quả mà thôi!
“我们沙地里,潮汛要来的时候,就有许多跳鱼儿只是跳,都有青蛙似的两个
脚……”……”


“Wǒmen shā dì lǐ, cháoxùn o lái de shíhịu, jiù yǒu xǔduō tiào yú er zhǐshì tiào,
dōu yǒu qīngwā shì de liǎng gè jiǎo……”
Ở đất cát chúng em, lúc thủy triều dâng lên, có rất nhiều những con "cá nhảy", cứ
nhảy lung tung, hai chân như chân nhái.
阿!闰土的心里有无穷无尽的稀奇的事,都是我往常的朋友所不知道的。他们

不知道一些事,闰土在海边时,他们都和我一样只看见院子里高墙上的四角的
天空。
ā! Rùn tǔ de xīn li yǒu wúqióng wújìn de xīqí de shì, dōu shì wǒ wǎngcháng de
péngyǒu suǒ bù zhīdào de. Tāmen bù zhīdào yīxiē shì, rùn tǔ zài hǎi biān shí, tāmen
dōu hé wǒ yīyàng zhǐ kànjiàn yuànzi lǐ gāo qiáng shàng de sìjiǎo de tiānkōng.
Trời ơi! Nhuận Thổ hắn biết nhiều chuyện lạ lùng lắm, kể khơng xiết! Những chuyện
đó, bạn bè tôi từ trước đến nay, không ai biết cả. Chúng nó khơng biết là vì trong khi
Nhuận Thổ sống bên bờ biển thì chúng nó, cũng như tơi, chỉ nhìn thấy một mảnh trời
vng trên bốn bức tường cao bao bọc lấy cái sân mà thơi!
可惜正月过去了,闰土须回家里去,我急得大哭,他也躲到厨房里,哭着不肯
出门,但终于被他父亲带走了。
Kěxí zhēngy gqùle, rùn tǔ xū huí jiā lǐ qù, wǒ jí dé dà kū, tā yě duǒ dào chúfáng
lǐ, kūzhe bù kěn chūmén, dàn zhōngyú bèi tā fùqīn dài zǒule.
Nhưng tiếc thay, đã hết tháng giêng. Nhuận Thổ phải về quê hắn. Lịng tơi rộn ràng,
tơi khóc to lên. Hắn lẩn trong bếp, cũng khóc mà khơng chịu về. Nhưng rồi bố hắn
cũng lơi hắn đi.
他后来还托他的父亲带给我一包贝壳和几支很好看的鸟毛,我也曾送他一两次
东西,但从此没有再见面。
Tā hịulái hái tuō tā de fùqīn dài gěi wǒ yī bāo bèiké hé jǐ zhī hěn hǎokàn de niǎo
máo, wǒ yě céng sòng tā yī liǎng cì dōngxī, dàn cóngcǐ méiyǒu zài jiànmiàn.
Sau đó, hắn có nhờ bố hắn mang lên cho tôi một bọc vỏ sị và mấy thứ lơng chim rất
đẹp. Tơi cũng có vài lần gửi cho hắn ít quà. Nhưng từ đấy chúng tôi không hề gặp
mặt nhau nữa.
现在我的母亲提起了他,我这儿时的记忆,忽而全都闪电似的苏生过来,似乎
看到了我的美丽的故乡 – 鲁迅了。我应声说:
Xiànzài wǒ de mǔqīn tíqǐle tā, wǒ zhè'er shí de jì, hū'ér qndōu shǎndiàn shì de sū
shēng glái, sìhū kàn dàole wǒ dì měilì de gùxiāngle. Wǒ ngshēng shuō:
Bây giờ mẹ tơi nhắc đến Nhuận Thổ, ký ức tôi bỗng dưng như bừng sáng lên trong
chốc lát. Tôi cảm thấy tựa hồ tơi đã tìm ra được q hương tơi đẹp ở chỗ nào rồi. Tôi
trả lời mẹ tôi:

“这好极!他,——怎样?……”


“Zhè hǎo jí! Tā,——zěnng?……”
Thế thì hay q! Anh ta... ra sao?
“他?……他景况也很不如意…………"母亲说着,便向房外看,"这些人又来了。说
是买木器,顺手也就随便拿走的,我得去看看。”
“Tā?……Tā jǐngkuàng yě hěn bùrúyì……"mǔqīn shuōzhe, biàn xiàng fáng wài
kàn,"zhèxiē rén u láile. Shuō shì mǎi mùqì, shùnshǒu yě jiù suíbiàn ná zǒu de, wǒ
dé qù kàn kàn.”
Anh ta ấy à? Tình cảnh cũng chẳng ra gì. - Mẹ tơi vừa nói vừa nhìn ra phía ngồi -...
Mấy người kia lại đến! Nói mua đồ gỗ nhưng cứ tiện tay, mang bừa đi. Mẹ phải ra
xem sao.
母亲站起身,出去了。门外有几个女人的声音。我便招宏儿走近面前,和他闲
话:问他可会写字,可愿意……出门。
Mǔqīn zhàn qǐshēn, chūqùle. Mén wài yǒu jǐ gè nǚrén de shēngyīn. Wǒ biàn zhāo
hóng er zǒu jìn miànqián, hé tā xiánh: Wèn tā kě h xiězì, kě yn chūmén.
Mẹ tơi đứng dậy, đi ra. Ngồi cửa có tiếng đàn bà đang hỏi chuyện. Tơi gọi cháu
Hoằng đến gần, hỏi vớ vẩn: hỏi nó đã biết viết chưa, có thích đi xa khơng.
“我们坐火车去么?”
“Wǒmen z huǒchē qù me?”
Chúng ta có đi tàu hỏa khơng, bác?
“我们坐火车去。”
“Wǒmen z huǒchē qù.”
Có, chúng ta đi tàu hỏa.
“船呢?”
“Chn ne?”
Thế có đi thuyền khơng, bác?
“先坐船,……”
“Xiān z chn,……”

Có, đi thuyền trước...
“哈!这模样了!胡子这么长了!”一种尖利的怪声突然大叫起来。
“hā! Zhè múyàngle! Húzi zhème zhǎngle!” Yī zhǒng jiānlì de guài shēng túrán dà
jiào qǐlái.
Bỗng có tiếng ai lạ, the thé nói to lên: - Thế này rồi kia à? Râu mọc dài thế này rồi kia
à?


我吃了一吓,赶忙抬起头,却见一个凸颧骨,薄嘴唇,五十岁上下的女人站在
我面前,两手搭在髀间,没有系裙,张着两脚……”,正像一个画图仪器里细脚……”伶仃
的圆规。
Wǒ chīle yī xià, gǎnmáng tái qǐtóu, què jiàn yīgè tū qn gǔ, báo zuǐchún, wǔshí s
shàngxià de nǚrén zhàn zài wǒ miànqián, liǎngshǒu dā zài bì jiān, méiyǒu xì qún,
zhāng zháo liǎng jiǎo, zhèng xiàng yīgè htú qì lǐ xì jiǎo língdīng de ynguī.
Tơi giật mình, vội ngửng đầu lên thì trơng thấy một người đàn bà, trên dưới năm
mươi tuổi, lưỡng quyền nhô ra, hai tay chống nạnh, không buộc thắt lưng, chân đứng
chạng ra, giống hệt cái compa trong bộ đồ vẽ, có hai chân bé tí.
我愕然了。
Wǒ èránle.
Tơi rất lấy làm ngạc nhiên.
“不认识了么?我还抱过你咧!”
“Bù rènshíle me? Wǒ hái bàog nǐ liě!”
Khơng nhận ra à? Ngày bé tơi vẫn bế anh đấy!
我愈加愕然了。幸而我的母亲也就进来,从旁说:
Wǒ ýjiā èránle. Xìng'ér wǒ de mǔqīn yě jiù jìnlái, cóng páng shuō:
Tơi lại càng ngạc nhiên hơn. May mà lúc đó mẹ tơi bước vào đỡ lời cho:
“他多年出门,统忘却了。你该记得罢,”便向着我说,“这是斜对门的杨二嫂,
……开豆腐店的。”
“Tā duōnián chūmén, tǒng wàngquèle. Nǐ gāi jìdé bà,” biàn xiàngzhe wǒ shuō,“zhè
shì xié dmén de ng'èrsǎo,……kāi dịufu diàn de.”

Cháu nó đi xa lâu ngày thành ra quên hết cả. Con nhớ nhá. Rồi ngoảnh về phía tơi
nói: Đây là thím Hai Dương ở xế cửa nhà ta đây mà! Thím mở hàng bán đậu phụ.
哦,我记得了。我孩子时候,在斜对门的豆腐店里确乎终日坐着一个杨二嫂,
人都叫伊“豆腐西施”。“豆腐西施”。”。
Ĩ, wǒ jìdéliǎo. Wǒ hái zǐ shíhịu, zài xié dmén de dịufu diàn lǐ qhū zhōngrì
zzhe yīgè ng'èrsǎo, rén dōu jiào yī “dịufu xīshī”.
À! Nhớ ra rồi. Hồi tơi cịn bé, quả có một chị Hai Dương vẫn ngồi trong quán bán
đậu phụ xế cửa nhà tôi, người ta gọi chị là "nàng Tây Thi đậu phụ".
但是擦着白粉,颧骨没有这么高,嘴唇也没有这么薄,而且终日坐着,我也从
没有见过这圆规式的姿势。
Dànshì cāzhe báifěn, quán gǔ méiyǒu zhème gāo, zuǐchún yě méiyǒu zhème báo,
érqiě zhōngrì zzhe, wǒ yě cóng méiyǒu jiàng zhè ynguī shì de zīshì.


Nhưng hồi đó, chị xoa phấn, lưỡng quyền khơng cao như thế này, môi cũng không
mỏng như bây giờ. Và chị cứ ngồi suốt buổi nên tôi cũng chưa hề được nhìn thấy cái
dáng điệu "compa" của chị.
那时人说:因为伊“豆腐西施”。,这豆腐店的买卖非常好。但这大约因为年龄的关系,我却
并未蒙着一毫感化,所以竟完全忘却了。
Nà shí rén shuō: Yīnwèi yī, zhè dòufu diàn de mǎimài fēicháng hǎo. Dàn zhè dàyuē
yīnwèi niánlíng de guānxì, wǒ q bìng wèi méngzhe yī háo gǎnh, suǒyǐ jìng
wánqn wàngqle.
Hồi đó người ta nói, sở dĩ hàng đậu phụ bán chạy là vì có chị ta. Song có lẽ vì tơi
khơng cùng lứa tuổi với chị, cũng chưa bao giờ bị chị ta làm cho đắm đuối, cho nên
mới quên bẵng đi.
然而圆规很不平,显出鄙夷的神色,仿佛嗤笑法国人不知道拿破仑,美国人不
知道华盛顿似的,冷笑说:
Rán'ér yuánguī hěn bùpíng, xiǎn chū bǐ de shénsè, fǎngfú chīxiào fàg rén bù
zhīdào nápịlún, měig rén bù zhīdào hshèngdùn shì de, lěngxiào shuō:
Nhưng cái "compa" kia lấy làm bất bình lắm, tỏ vẻ khinh bỉ, cười kháy tôi như cười

kháy một người Pháp không biết đến Nã Phá Luân,34 như một người Mỹ khơng biết
đến Hoa Thịnh Đốn35vậy! Rồi nói:
“忘了?这真是贵人眼高……”
“Wàngle? Zhè zhēnshi guìrén yǎn gāo……”
Quên à? Phải rồi, bây giờ cao sang rồi thì để ý đâu đến bọn chúng tơi nữa.
“那有这事……我……”我惶恐着,站起来说。
“nà yǒu zhè shì……wǒ……” wǒ hngkǒngzhe, zhàn qǐlái shuō.
Tơi hoảng hốt, đứng dậy, nói: - Đâu có phải thế! Tơi...
“那么,我对你说。迅哥儿,你阔了,搬动又笨重,你还要什么这些破烂木器,
让我拿去罢。我们小户人家,用得着。”
“Nàme, wǒ d nǐ shuō. Xùn gē er, nǐ kle, bān dịng u bènzhịng, nǐ hái o
shénme zhèxiē pịlàn mùqì, ràng wǒ ná qù bà. Wǒmen xiǎo hù rénjiā, yòng dézháo.”
Thế thì tơi nói anh nghe nhé! Anh Tấn này! Anh bây giờ sang trọng rồi, cịn cần qi
gì cái thứ đồ gỗ hư hỏng này nữa. Chuyên chở lại lịch kịch lắm. Cho chúng tôi khuân
đi thôi, chúng tôi nhà nghèo dùng được tất.
“我并没有阔哩。我须卖了这些,再去……”
“Wǒ bìng méiyǒu k lī. Wǒ xū màile zhèxiē, zài qù……”
Có gì đâu mà sang trọng! Chúng tôi cần phải bán các thứ này đi để...


“阿呀呀,你放了道台了,还说不阔?你现在有三房姨太太;出门便是八抬的
大轿,还说不阔?吓,什么都瞒不过我。”
“ā ya ya, nǐ fàngle dào táile, hái shuō bu k? Nǐ xiànzài yǒusān fáng tàitài;
chūmén biàn shì bā tái de dà jiào, hái shuō bu kuò? Xià, shénme dōu mán bùguò wǒ.”
Ái chà! Anh bây giờ làm quan rồi mà bảo là không sang trọng? Những ba nàng hầu.
Mỗi lần đi đâu là ngồi kiệu lớn tám người khiêng, cịn bảo là khơng sang trọng? Hừ!
Chẳng cái gì giấu nổi chúng tôi đâu!
我知道无话可说了,便闭了口,默默的站着。
Wǒ zhīdào wú huà kě shuōle, biàn bìle kǒu, mịmị de zhànzhe.
Tơi biết khơng thể nói làm sao được, đành ngậm miệng, đứng trầm ngâm.

“阿呀阿呀,真是愈有钱,便愈是一毫不肯放松,愈是一毫不肯放松,便愈有
钱……”圆规一面愤愤的回转身,一面絮絮的说,慢慢向外走,顺便将我母亲
的一副手套塞在裤腰里,出去了。
“Ā ya ā ya, zhēnshi ý yǒu qián, biàn ý shì yī háo bù kěn fàngsōng, ý shì yī háo bù
kěn fàngsōng, biàn yù yǒu qián……” yuánguī yīmiàn fènfèn de huí zhuǎnshēn,
yīmiàn xùxù de shuō, màn man xiàng wài zǒu, shùnbiàn jiāng wǒ mǔqīn de yī fù
shǒutào sāi zài kùyāo lǐ, chūqùle.
Ôi chào! Thật là càng giàu có càng khơng dám rời một đồng xu! Càng không dám rời
một đồng xu lại càng giàu có. Mụ "compa" tức giận, miệng lẩm bẩm quay gót thong
thả đi ra, tiện tay giật ln đơi bít tất tay của mẹ tôi giắt vào lưng quần, cút thẳng.
此后又有近处的本家和亲戚来访问我。我一面应酬,偷空便收拾些行李,这样
的过了三四天。
Cǐhịu u yǒu jìn chǔ de běnjiā hé qīnqī lái fǎngwèn wǒ. Wǒ yīmiàn ngchóu,
tōukịng biàn shōushí xiē xínglǐ, zhèng degle sānsì tiān.
Sau đó lại có mấy người bà con hàng xóm và mấy người thân thuộc đến thăm. Tơi
vừa tiếp khách vừa tìm chút thì giờ rảnh sửa soạn hành lý. Như thế mất ba, bốn ngày.
一日是天气很冷的午后,我吃过午饭,坐着喝茶,觉得外面有人进来了,便回
头去看。我看时,不由的非常出惊,慌忙站起身,迎着走去。
Yī rì shì tiānqì hěn lěng de wǔhịu, wǒ chīg wǔfàn, zzhe hē chá, jdé wàimiàn
yǒurén jìnláile, biàn htóu qù kàn. Wǒ kàn shí, bùu de fēicháng chū jīng,
huāngmáng zhàn qǐshēn, ngzhe zǒu qù.
Một hôm, trời rét lắm. Quá trưa, tôi vừa ăn cơm xong, đang ngồi uống trà, bỗng nghe
như có tiếng ai ở ngồi đi vào. Ngoảnh ra xem, tơi ngạc nhiên vơ cùng, vội vàng
đứng dậy ra đón.
这来的便是闰土。虽然我一见便知道是闰土,但又不是我这记忆上的闰土了。


Zhè lái de biàn shì rùn tǔ. Suīrán wǒ yī jiàn biàn zhīdào shì rùn tǔ, dàn u bùshì wǒ
zhè jìyì shàng de rùn tǔle.
Người đi vào là Nhuận Thổ. Tuy tôi nhận ra ngay là Nhuận Thổ, nhưng lại không

phải là Nhuận Thổ trong ký ức tôi.
他身材增加了一倍;先前的紫色的圆脸,已经变作灰黄,而且加上了很深的皱
纹;眼睛也像他父亲一样,周围都肿得通红,这我知道,在海边种地的人,终
日吹着海风,大抵是这样的。
Tā shēncái zēngjiāle yī bèi; xiānqián de zǐsè de yuán liǎn, yǐjīng biàn zuò huī huáng,
érqiě jiā shàngle hěn shēn de zhòuwén; yǎnjīng yě xiàng tā fùqīn yīyàng, zhōuwéi
dōu zhǒng dé tōnghóng, zhè wǒ zhīdào, zài hǎibiān zhịng dì de rén, zhōngrì chuīzhe
hǎifēng, dàdǐ shì zhèng de.
Anh cao gấp hai trước, khn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đổi
thành vàng sạm, lại có thêm những nếp nhăn sâu hóm. Cặp mắt giống hệt cặp mắt bố
anh ngày trước, mi mắt viền đỏ húp mọng lên. Tôi không lấy làm lạ: ở miền biển, gió
thổi suốt ngày, đại để ai cũng thế cả.
他头上是一顶破毡帽,身上只一件极薄的棉衣,浑身瑟索着;手里提着一个纸
包和一支长烟管,那手也不是我所记得的红活圆实的手,却又粗又笨而且开裂,
像是松树皮了。
Tā tóu shàng shì yī dǐng pị zhān mào, shēnshang zhǐ yī jiàn jí báo de miányī,
húnshēn sè suǒzhe; shǒu lǐ tízhe yīgè zhǐ bāo hé yī zhī zhǎng yān guǎn, nà shǒu yě
bùshì wǒ suǒ jìdé de hóng h yn shi de shǒu, q u cū u bèn érqiě kāiliè,
xiàng shì sōngshù píle.
Anh đội một cái mũ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người
co ro cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và một tẩu thuốc lá dài. Bàn tay này cũng
không phải là bàn tay tơi cịn nhớ, hồng hào, lanh lẹn, mập mạp, cứng rắn, mà vừa
thô kệch vừa nặng nề, lại nứt nẻ như vỏ cây thơng.
我这时很兴奋,但不知道怎么说才好,只是说:
Wǒ zhè shí hěn xīngfèn, dàn bù zhīdào zěnme shuō cái hǎo, zhǐshì shuō:
Lúc bấy giờ tôi mừng rỡ vô cùng, nhưng chưa biết nói thế nào cho phải, đành chỉ hỏi:
“阿!闰土哥,——你来了?……”
“Ā! Rùn tǔ gē,——nǐ láile?……”
À, anh Nhuận Thổ, anh đã đến đấy à?...
我接着便有许多话,想要连珠一般涌出:角鸡,跳鱼儿,贝壳,猹,……但又

总觉得被什么挡着似的,单在脑里面回旋,吐不出口外去。


Wǒ jiēzhe biàn yǒu xǔduō huà, xiǎng yào liánzhū yībān yǒng chū: Jiǎo jī, tiào yú er,
bèiké, chá,……dàn yòu zǒng jdé bèi shénme dǎngzhe shì de, dān zài nǎo lǐmiàn
hxn, tǔ bu chūkǒu wài qù.
Thật ra, tơi cịn có rất nhiều chuyện để nói tiếp, tưởng chừng có thể tn ra như nước
chảy: nào là chim chào mào, nào là cá nhảy, vỏ sị, tra..., nhưng khơng biết hình như
có cái gì chẹn lại, chỉ loanh quanh trong đầu óc, không thốt ra thành lời được.
他站住了,脸上现出欢喜和凄凉的神情;动着嘴唇,却没有作声。他的态度终
于恭敬起来了,分明的叫道:
Tā zhànzhùle, liǎn shàng xiàn chū huānxǐ hé qīliáng de shénqíng; dịngzhe zuǐchún,
q méiyǒu z shēng. Tā de tàidù zhōng gōngjìng qǐláile, fēnmíng de jiào dào:
Nhuận Thổ đứng dừng lại, nét mặt vừa hớn hở vừa thê lương, mơi mấp máy, nhưng
cũng nói khơng ra tiếng. Rồi bỗng anh lấy một dáng điệu cung kính, chào rất rành
mạch:
“老爷!……”
“Lǎo!……”
Bẩm ơng!
我似乎打了一个寒噤;我就知道,我们之间已经隔了一层可悲的厚障壁了。我
也说不出话。
Wǒ sìhū dǎle yīgè hánjìn; wǒ jiù zhīdào, wǒmen zhī jiān yǐjīng géle yī céng kěbēi de
hòu zhàngbìle. Wǒ yě shuō bu chū h.
Tơi như điếng người đi. Thơi đúng rồi! Giữa chúng tơi đã có một bức tường khá dày
ngăn cách. Thật là bi đát. Tôi cũng nói khơng nên lời.
他回过头去说,“水生,给老爷磕头。”
Tā h gtóu qù shuō,“shuǐshēng, gěi lǎoyé kētóu.”
Anh ta ngoảnh đầu lại gọi: Thủy Sinh. Con khơng lạy ơng đi kìa!
便拖出躲在背……”后的孩子来,这正是一个廿年前的闰土,只是黄瘦些,颈子上没
有银圈罢了。

Biàn tuō chū duǒ zài bèihịu de háizi lái, zhè zhèng shì yīgè niàn nián qián de rùn tǔ,
zhǐshì hng shịu xiē, jǐng zi shàng méiyǒu yín quān bàle.
Anh liền kéo đứa bé nấp sau lưng anh ra. Trơng nó giống hệt anh hai mươi năm về
trước, chỉ điều vàng vọt, gầy cịm hơn một tí, và cổ khơng đeo vịng bạc mà thơi.
“这是第五个孩子,没有见过世面,躲躲闪闪……”
“Zhè shì dì wǔ gè háizi, méiyǒu jiàng shìmiàn, duǒduoshǎnshǎn……”


Thưa, đây là cháu thứ năm đấy à! Chưa đi đâu bao giờ, cứ thấy ai là lẩn tránh...
母亲和宏儿下楼来了,他们大约也听到了声音。
mǔqīn héhóng er xià lóu láile, tāmen dàyuē yě tīng dàole shēngyīn.
Mẹ tôi và cháu Hoằng chừng đã nghe thấy tiếng, từ trên gác đi xuống.
“老太太。信是早收到了。我实在喜欢的不得了,知道老爷回来……”闰土说。
“Lǎo tàitài. Xìn shì zǎo shōu dàole. Wǒ shízài xǐhuān de bùdéle, zhīdào lǎoyé
huílái……” rùn tǔ shuō.
Anh Nhuận Thổ nói: - Lạy cụ ạ! Thư cụ con đã nhận được, biết ơng có về chơi, thật
mừng q!
“阿,你怎的这样客气起来。你们先前不是哥弟称呼么?还是照旧:迅哥儿。”
母亲高兴的说。
“Ā, nǐ zěn di zhèyàng kèqì qǐlái. Nǐmen xiānqián bùshì gē dì chēnghu me? Háishì
zhàojiù: Xùn gē er.” Mǔqīn gāoxìng de shuō.
Mẹ tơi vui vẻ nói: - Ấy, sao lại khách tình thế? Chẳng phải là trước kia, vẫn gọi nhau
bằng anh em cơ mà? Cứ gọi là anh Tấn như trước thôi!
“阿呀,老太太真是……这成什么规矩。那时是孩子,不懂事……”闰土说着,
又叫水生上来打拱,那孩子却害羞,紧紧的只贴在他背……”后。
“Ā ya, lǎo tàitài zhēnshi……zhè chéng shénme guījǔ. Nà shí shì háizi, bù
dǒngshì……” rùn tǔ shuōzhe, u jiào shuǐshēng shànglái dǎ gǒng, nà háizi què
hàixiū, jǐn jǐn de zhǐ tiē zài tā bèihòu.
Ái chà! Cụ thật là... Như thế cịn ra thể thống nào nữa. Hồi đó, cịn nhỏ dại, chưa
hiểu... Anh Nhuận Thổ vừa nói vừa gọi Thủy Sinh lại chào, nhưng thằng bé bẽn lẽn,

bám sát vào lưng bố.
“他就是水生?第五个?都是生人,怕生也难怪的;还是宏儿和他去走走。”母
亲说。
“Tā jiùshì shuǐshēng? Dì wǔ gè? Dōu shì shēng rén, pàshēng yě nángi de; háishì
hóng er hé tā qù zǒu zǒu.” Mǔqīn shuō.
Mẹ tơi nói: - Cháu Thủy Sinh đấy à? Cháu thứ năm phải khơng nhỉ? Tồn là người lạ,
chả trách rụt rè là phải. Hoằng đâu, dẫn em ra chơi đi!
宏儿听得这话,便来招水生,水生却松松爽爽同他一路出去了。母亲叫闰土坐,
他迟疑了一回,终于就了坐,将长烟管靠在桌旁,递过纸包来,说:
Hóng er tīng dé zhè huà, biàn lái zhāo shuǐshēng, shuǐshēng què sōng sōng shuǎng
shuǎng tóng tā yīlù chūqùle. Mǔqīn jiào rùn tǔ z, tā chíle yī h, zhōng jiùle
z, jiāng zhǎng yān guǎn kào zài zhuō páng, dìg zhǐ bāo lái, shuō:


Hoằng nghe nói liền gọi Thủy Sinh. Thủy Sinh nhẹ nhàng, khoan khối cùng Hoằng
đi ra. Mẹ tơi bảo Nhuận Thổ ngồi. Anh ngập ngừng một lát rồi cũng ngồi xuống, để
cái tẩu thuốc dựa vào mé bàn, đưa cái gói giấy ra nói:
“冬天没有什么东西了。这一点干青豆倒是自家晒在那里的,请老爷……”
“Dōngtiān méiyǒu shé me dōngxīle. Zhè yīdiǎn gàn qīngdịu dǎoshì zìjiā shài zài nàlǐ
de, qǐng lǎo……”
Ngày đơng tháng giá chẳng có gì. Đây chỉ là ít đậu xanh của nhà phơi khô, xin ông...
我问问他的景况。他只是摇头。
wǒ wèn wèn tā de jǐngkng. Tā zhǐshì otóu.
Tơi hỏi thăm gia đình anh. Anh chỉ lắc đầu.
“非常难。第六个孩子也会帮忙了,却总是吃不够……又不太平……什么地方……又不太平……什么地方
都要钱,没有规定……收成又坏。种出东西来,挑去卖,总要捐几回钱,折了
本;不去卖,又只能烂掉……”……”
“Fēicháng nán. Dì liù gè háizi yě h bāngmángle, q zǒng shì chī bùgịu……u
bù tàipíng……shénme dìfāng dōu o qián, méiyǒu guīdìng……shōuchéng u hi.
Zhǒng chū dōngxī lái, tiāo qù mài, zǒng yào juān jǐ huí qián, zhéle běn; bù qù mài,

yòu zhǐ néng làn diào……”
Bẩm, vất vả lắm! Cháu thứ sáu cũng đã giúp được việc, nhưng nhà vẫn khơng đủ ăn,
lại có được sống n ổn đâu!... Chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả. Mùa lại
mất. Trồng được gì là gánh đi bán tất. Chỉ đóng thuế chợ là đã cụt vốn rồi. Khơng
đem bán thì lại thối mục hết.
他只是摇头;脸上虽然刻着许多皱纹,却全然不动,仿佛石像一般。他大约只
是觉得苦,却又形容不出,沉默了片时,便拿起烟管来默默的吸烟了。
Tā zhǐshì otóu; liǎn shàng suīrán kèzhe xǔduō zhịuwén, q qnrán bù dịng,
fǎngfú shíxiàng yībān. Tā dàyuē zhǐshì jdé kǔ, q u xíngróng bù chū, chénmịle
piàn shí, biàn ná qǐ yān guǎn lái mịmị de xīyānle.
Anh cứ lắc đầu. Những nếp dăn khắc sâu trên mặt anh tuyệt nhiên không động đậy.
Trông anh phảng phất như một pho tượng đá. Có lẽ anh chỉ cảm thấy khổ nhưng
khơng nói ra được hết, ngồi trầm ngâm một lúc, rồi cầm lấy dọc tẩu, lặng lẽ hút
thuốc.
母亲问他,知道他的家里事务忙,明天便得回去;又没有吃过午饭,便叫他自
己到厨下炒饭吃去。
Mǔqīn wèn tā, zhīdào tā de jiālǐ shìwù máng, míngtiān biàn dé hqù; u méiyǒu
chīg wǔfàn, biàn jiào tā zìjǐ dào chú xià chǎofàn chī qù.
Mẹ tôi hỏi chuyện anh, biết nhà anh bận lắm việc, ngày mai phải về, lại chưa ăn cơm
trưa, liền bảo anh xuống bếp rang cơm ăn.


他出去了;母亲和我都叹息他的景况:多子,饥荒,苛税,兵,匪,官,绅,
都苦得他像一个木偶人了。母亲对我说,凡是不必搬走的东西,尽可以送他,
可以听他自己去拣择。
Tā chūqùle; mǔqīn hé wǒ dū tànxí tā de jǐngkuàng: Duō zi, jīhuang, kē shuì, bīng, fěi,
guān, shēn, dōu kǔ dé tā xiàng yīgè mù'ǒu rénle. Mǔqīn duì wǒ shuō, fánshì bùbì bān
zǒu de dōngxī, jǐn kěyǐ sịng tā, kěyǐ tīng tā zìjǐ qù jiǎnzé.
Anh đi ra. Mẹ tơi và tôi đều than thở, buồn cho cảnh nhà anh: con đơng, mất mùa,
thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào, đầy đọa thân anh khiến anh trở

thành đần độn, mụ mẫm đi! Mẹ tôi bàn với tôi: - Cái gì khơng cần chở đi thì cho anh
ta hết. Cứ để cho tùy ý chọn, lấy cái nào thì lấy.
下午,他拣好了几件东西:两条长桌,四个椅子,一副香炉和烛台,一杆抬秤。
他又要所有的草灰(我们这里煮饭是烧稻草的,那灰,可以做沙地的肥料),
待我们启程的时候,他用船来载去。
Xiàwǔ, tā jiǎn hǎole jǐ jiàn dōngxī: Liǎng tiáo cháng zhuō, sì gè yǐzi, yī fù xiānglú hé
zhútái, yī gǎn tái chèng. Tā yòu yào suǒyǒu de cǎohuī (wǒmen zhèlǐ zhǔ fàn shì shāo
dàocǎo de, nà huī, kěyǐ z shā dì de féiliào), dài wǒmen qǐchéng de shíhịu, tā ng
chn lái zài qù.
Đến chiều anh chọn xong mấy thứ: một đôi bàn dài, bốn chiếc ghế dựa, một bộ tam
sự và một cái cân. Anh lại xin tất cả các đống tro (ở quê tôi người ta nấu bằng rơm,
rạ, tro có thể dùng bón đất cát), chờ khi nào chúng tơi lên đường là đem thuyền đến
chở.
夜间,我们又谈些闲天,都是无关紧要的话;第二天早晨,他就领了水生回去
了。
jiān, wǒmen u tán xiē xián tiān, dōu shì wúguān jǐnyào dehuà; dì èr tiān
zǎochén, tā jiù lǐngle shuǐshēng hqùle.
Đêm đến chúng tơi cũng nói vài ba câu chuyện phiếm, tồn là những chuyện chẳng
quan trọng gì. Sáng hơm sau, anh đem Thủy Sinh về.
又过了九日,是我们启程的日期。闰土早晨便到了,水生没有同来,却只带着
一个五岁的女儿管船只。我们终日很忙碌,再没有谈天的工夫。
ugle jiǔ rì, shì wǒmen qǐchéng de rìqí. Rùn tǔ zǎochén biàn dàole, shuǐshēng
méiyǒu tóng lái, què zhǐ dàizhe yīgè wǔ suì de nǚ'ér guǎn chuánzhī. Wǒmen zhōngrì
hěn mánglù, zài méiyǒu tántiān de gōngfū.
Chín ngày sau, chúng tơi lên đường. Sáng sớm, Nhuận Thổ đã đến rồi. Thủy Sinh
không đi theo. Anh chỉ đem theo một đứa cháu gái năm tuổi để trông thuyền. Chúng
tôi bận rộn suốt ngày, khơng có thì giờ trị chuyện.
来客也不少,有送行的,有拿东西的,有送行兼拿东西的。待到傍晚我们上船
的时候,这老屋里的所有破旧大小粗细东西,已经一扫而空了。



Láikè yě bù shǎo, yǒu sịngxíng de, yǒu ná dōngxī de, yǒu sịngxíng jiān ná dōngxī
de. Dài dào bàngwǎn wǒmen shàng chn de shíhịu, zhè lǎo wū li de suǒyǒu pịjiù
dàxiǎo cūxì dōngxī, yǐjīng yī sǎo ér kōngle.
Khách khứa cũng nhiều. Kẻ đến đưa chân, người đến lấy đồ đạc. Có kẻ vừa đưa chân
vừa lấy đồ đạc. Gần tối, chúng tơi xuống thuyền thì tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ,
hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét.
我们的船向前走,两岸的青山在黄昏中,都装成了深黛颜色,连着退向船后梢
去。
Wǒmen de chuán xiàng qián zǒu, liǎng'àn de qīngshān zài huánghūn zhōng, dōu
zhuāng chéngle shēn dài nsè, liánzhe t xiàng chn hịu shāo qù.
Thuyền chúng tơi thẳng tiến. Trong hồng hơn, những dãy núi xanh hai bên bờ sông
đen sẫm lại, nối tiếp nhau chạy lùi về phía sau lái.
宏儿和我靠着船窗,同看外面模糊的风景,他忽然问道:
Hóng er hé wǒ kàozhe chn chuāng, tóng kàn wàimiàn móhú de fēngjǐng, tā hūrán
wèn dào:
Tơi và cháu Hoằng ngồi tựa cửa thuyền, cùng nhìn phong cảnh mờ ảo bên ngồi.
Bỗng cháu Hoằng hỏi:
“大伯!我们什么时候回来?”
“Dàbó! Wǒmen shénme shíhịu huílái?”
Bác này! Lúc nào chúng ta lại trở về nhỉ?
“回来?你怎么还没有走就想回来了。”
“Huílái? Nǐ zěnme hái méiyǒu zǒu jiù xiǎng huíláile.”
Trở về? Sao cháu chưa đi đã nghĩ đến chuyện trở về?
“可是,水生约我到他家玩去咧……”他睁着大的黑眼睛,痴痴的想。
“Kěshì, shuǐshēng yuē wǒ dào tā jiā wán qù liě……” tā zhēngzhe dà de hēi yǎnjīng,
chī chī de xiǎng.
Nhưng mà thằng Thủy Sinh nó hẹn cháu đến nhà nó chơi cơ mà! Hoằng giương to
đơi mắt đen nháy nhìn tơi, ngây người suy nghĩ.
我和母亲也都有些惘然,于是又提起闰土来。

Wǒ hé mǔqīn yě dū yǒuxiē wǎngrán, shì u tíqǐ rùn tǔ lái.
Tơi và mẹ tơi cũng đều có ý buồn, vì thế mà lại nhắc đến Nhuận Thổ.
母亲说,那豆腐西施”。的杨二嫂,自从我家收拾行李以来,本是每日必到的,前
天伊“豆腐西施”。在灰堆里,掏出十多个碗碟来,议论之后,便定说是闰土埋着的,他可以
在运灰的时候,一齐搬回家里去;


Mǔqīn shuō, nà dịufu xīshī de ng'èrsǎo, zìcóng wǒjiā shōushí xínglǐ yǐlái, běn shì
měi rì bì dào de, qiántiān yī zài huī duī lǐ, tāo chū shí duō gè wǎn dié lái, lùn
zhīhịu, biàn dìng shuō shì rùn tǔ máizhe de, tā kěyǐ zài ýn huī de shíhịu, yīqí bān
h jiā lǐ qù;
Mẹ tơi nói: Cái chị Hai Dương, "nàng Tây Thi đậu phụ" ấy mà! Từ khi nhà ta bắt đầu
sửa soạn hành lý, chẳng ngày nào là chị ta không đến. Hôm trước, chị ta đứng cạnh
đống tro, moi ra hơn mười chiếc, cả bát lẫn đĩa, bàn tán một hồi rồi nói quyết rằng
Nhuận Thổ vùi vào đấy để khi nào xúc tro là mang đi luôn.
杨二嫂发见了这件事,自己很以为功,便拿了那狗气杀(这是我们这里养鸡的
器具,木盘上面有着栅栏,内盛食料,鸡可以伸进颈子去啄,狗却不能,只能
看着气死),飞也似的跑了,亏伊“豆腐西施”。装着这么高底的小脚……”,竟跑得这样快。
yáng'èrsǎo fā jiànle zhè jiàn shì, zìjǐ hěn yǐwéi gōng, biàn nále nàgǒu qì shā (zhè shì
wǒmen zhèlǐ yǎng jī de qìjù, mù pán shàngmiàn yǒuzhe zhàlán, nèi shèng shíliào, jī
kěyǐ shēn jìn jǐng zi qù zh, gǒu q bùnéng, zhǐ néng kànzhe qì sǐ), fēi yě shì de
pǎole, kuī yī zhuāngzhe zhème gāo dǐ de xiǎojiǎo, jìng pǎo dé zhèyàng ki.
Chị ta khám phá ra việc đó, tự cho mình là có cơng, liền lấy ngay cái "cẩu khí sát",
(một dụng cụ ở quê tôi người ta dùng nuôi gà, làm bằng một tấm ván, trên có song
song, trong đựng thức ăn, gà chỉ việc thò cổ vào mổ, còn chó thì đứng nhìn, chịu
chết), rồi chạy biến. Tuy nhiên chị ta lùn và chân bé tí tẹo thế mà chạy cũng nhanh
đáo để!
老屋离我愈远了;故乡 – 鲁迅的山水也都渐渐远离了我,但我却并不感到怎样的留恋。
Lǎo wū lí wǒ ý yuǎnle; gùxiāng de shānshuǐ yě dū jiànjiàn yuǎnlíle wǒ, dàn wǒ q
bìng bù gǎndào zěnng de liúliàn.

Ngơi nhà cũ xa dần, phong cảnh làng cũ cũng mờ dần, nhưng lòng tơi khơng chút lưu
luyến.
我只觉得我四面有看不见的高墙,将我隔成孤身,使我非常气闷;那西瓜地上
的银项圈的小英雄的影像,我本来十分清楚,现在却忽地模糊了,又使我非常
的悲哀。
Wǒ zhǐ jdé wǒ sìmiàn yǒu kàn bùjiàn de gāo qiáng, jiāng wǒ gé chéng gūshēn, shǐ
wǒ fēicháng qì mèn; nà xīguā dìshàng de n xiàngquān de xiǎo yīngxióng de
yǐngxiàng, wǒ běnlái shífēn qīngchǔ, xiànzài q hūdì móhúle, u shǐ wǒ fēicháng
de bēi'āi.
Tơi chỉ cảm thấy xung quanh tơi là bốn bức tường vơ hình, nhưng rất cao, làm cho tơi
vơ cùng lẻ loi, sầu muộn. Hình ảnh đứa bé oai hùng, cổ đeo vòng bạc, đứng giữa
ruộng dưa hấu, tôi vốn nhớ rõ lắm, nhưng bây giờ bỗng nhiên cũng mờ nhạt đi, khiến
tôi lại càng thêm ảo não.
母亲和宏儿都睡着了。
Mǔqīn héhóng er dōu shzhele.


Mẹ tôi và cháu Hoằng đã ngủ rồi.
我躺着,听船底潺潺的水声,知道我在走我的路。我想:我竟与闰土隔绝到这
地步了,但我们的后辈还是一气,宏儿不是正在想念水生么。
Wǒ tǎngzhe, tīng chuándǐ chánchán de shuǐshēng, zhīdào wǒ zài zǒu wǒ de lù. Wǒ
xiǎng: Wǒ jìng yǔ rùn tǔ géjué dào zhè dìbùle, dàn wǒmen de hịubèi háishì yīqì,
hóng er bu shì zhèngzài xiǎngniàn shuǐ shēng me.
Tơi nằm xuống, nghe nước róc rách vỗ vào mạn thuyền, biết là tôi đang đi theo con
đường của tôi. Tôi nghĩ bụng: Tôi và Nhuận Thổ, tuy cách bức đến như thế này,
nhưng con cháu chúng tơi vẫn cịn thân thiết với nhau. Chẳng phải là cháu Hoằng
đang tưởng nhớ đến Thủy Sinh đó ư?
我希望他们不再像我,又大家隔膜起来……然而我又不愿意……他们因为要一气,
都如我的辛苦展转而生活,也不愿意……他们都如闰土的辛苦麻木而生活,也不愿
意……都如别人的辛苦恣睢而生活。

Wǒ xīwàng tāmen bù zài xiàng wǒ, u dàjiā gémó qǐlái……rán'ér wǒ u bù yn
tāmen yīnwèi o yīqì, dōu rú wǒ de xīnkǔ zhǎnzhuǎn ér shēngh, yě bù yn
tāmen dōu rú rùn tǔ de xīnkǔ mámù ér shēngh, yě bù yn dōu rú biérén de
xīnkǔ zìsuī ér shēngh.
Tơi mong ước chúng nó sẽ khơng giống chúng tơi, khơng bao giờ phải cách bức nhau
cả... Nhưng tơi cũng khơng muốn chúng nó vì thân thiết với nhau mà phải vất vả,
chạy vạy như tơi, cũng khơng muốn chúng nó phải khốn khổ mà đần độn như Nhuận
Thổ; cũng khơng muốn chúng nó phải khốn khổ mà tàn nhẫn như bao nhiêu người
khác.
他们应该有新的生活,为我们所未经生活过的。
Tāmen yīnggāi yǒu xīn de shēnghuó, wèi wǒmen suǒ wèi jīng shēnghg de.
Chúng nó cần phải sống một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng
được sống.
我想到希望,忽然害怕起来了。闰土要香炉和烛台的时候,我还暗地里笑他,
以为他总是崇拜偶像,什么时候都不忘却。
Wǒ xiǎngdào xīwàng, hūrán hàipà qǐláile. Rùn tǔ yào xiānglú hé zhútái de shíhịu, wǒ
hái àndìlǐ xiào tā, yǐwéi tā zǒng shì chóngbài ǒuxiàng, shénme shíhịu dōu bù
wàngq.
Tơi nghĩ đến những niềm hy vọng, bỗng nhiên hoảng sợ. Khi Nhuận Thổ xin chiếc lư
hương và đôi đèn nến, tôi cười thầm, cho rằng anh ta lúc nào cũng không quên sùng
bái tượng gỗ.
现在我所谓希望,不也是我自己手制的偶像么?只是他的愿望切近,我的愿望
茫远罢了。



×