Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Nsnn và thực trạng thâm hụt ngân sách nhà nước ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.47 KB, 25 trang )

Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng th¶o

LỜI NĨI ĐẦU
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại, vai trị quản lý và điều
tiết vĩ mơ nền kinh tế – xã hội của nhà nước được đề cao hơn bao giờ hết. Để
đảm trách vai trò này, nhà nước phải nắm bắt các công cụ tài chính – tiền tệ,
trong đó cân đối NSNN được xem là một trong những công cụ sắc bén để
nhà nước can thiệp tồn diện vào nền kinh tế.
Nói đến NSNN thì khơng thể khơng nĩi đến tình trạng thm hụt NS – căn
bện kinh niên của mọi nhà nước
Nói đến NSNN thì khơng thể khơng nói đến tình trạng thâm hụt NS –
căn bện kinh niên của mọi nhà nước
. Ngay cả Hoa Kỳ - một trong những cường quốc có nền kinh tế đứng
hàng đầu thế giới hiện nay cũng phải đối mặt với vấn đề này, Việt Nam cũng
không ngoại lệ.
Mức độ thâm hụt ngân sách ở nước ta đang có xu hướng gia tăng và
ngày càng tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân cũng như tồn bộ nền
kinh tế. Nói cách khác, đây chính là một trong những nguy cơ làm khủng
hoảng nền kinh tế, gây khó khăn cho chính phủ trong việc thực hiện các
chính sách tài khóa và tiền tệ.
Vậy ngân sách nhà nước là gì ? thâm hụt ngân sách là gì? Thực trạng
vấn đề thâm hụt ngân sách ở Việt Nam thế nào? Giải pháp để hạn chế và
khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước ra sao?
Trong bài tiểu luận này, chúng tơi sẽ lần lượt tìm hiểu và làm rõ những
vấn
đề trên – vấn đề “NSNN và thực trạng Thâm hụt ngân sách nhà
nước ở Việt Nam”.

SV: Phạm Minh Dơng



1

Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng thảo

Mục lục

Mục lục.......................................................................................................................................................1
Chơng 1: Ngân sách nhà nớc và thâm hụt ngân sách nhà nớc.......................................3

1.1. Ngân sách Nhà nớc........................................................................................................................3
1.2. Khái niệm và cách tính bội chi ngân sách nhà nớc...........................................................10
Chơng 2: Thực trạng thâm hụt ngân sách ở Việt Nam...............................................14
Chơng 3: Giải pháp cho vấn đề thâm hụt ngân sách ë ViƯt Nam...........................20

3.1. Biện ph¸p "tn ph¸p "tăng thu, giảm chi"m chi"..............................................................................................20
3.2. Vay nợ trong n trong nước (Vay d©n) c (Vay d©n) :...............................................................................................22
3.3. Vay nợ trong n nước (Vay d©n) c ngồi:i:...................................................................................................................23
3.4. Sử dụng dự trữ ngoại tệ: dụng dự trữ ngoại tệ:ng dự trữ ngoại tệ: trữ ngoại t: ngoi t:i tn pháp "t:.........................................................................................................24
3.5. Vay ngân hi:ng (in tin)n)............................................................................................................24
Tài liệu tham khảo...........................................................................................................................24

SV: Phạm Minh Dơng

2


Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng thảo

Chơng 1:
Ngân sách nhà nớc và thâm hụt ngân sách nhµ níc

1. Ngân sách nhà nước
1.1. Bản chất của ngân sách nhà nước:
Trong tiến trình lịch sử, ngân sách nhà nước (NSNN) với tư cách là một
phạm trù kinh tế đã ra đời và tồn tại từ lâu. Là một cơng cụ Tài chính quan trọng
của Nhà nước, NSNN xuất hiện dựa trên cơ sở hai tiền đề khách quan là tiền đề
Nhà nước và tiền đề kinh tế hàng hố- tiền tệ.
Trong lịch sử lồi người, Nhà nước xuất hiện là kết quả của cuộc đấu tranh
giai cấp trong xã hội. Nhà nước ra đời tất yếu kéo theo nhu cầu tập trung nguồn lực
tài chính vào trong tay Nhà nước để làm phương tiện vật chất trang trải cho các chi
phí ni sống bộ máy Nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội của
Nhà nước. Bằng quyền lực của mình, Nhà nước tham gia vào quá trình phân phối
tổng sản phẩm xã hội. Trong điều kiện kinh tế hàng hố- tiền tệ, các hình thức tiền
tệ trong phân phối như: thuế bằng tiền, vay nợ…được Nhà nước sử dụng để tạo lập
quỹ tền tệ riêng có: NSNN. Như vậy, NSNN là ngân sách của Nhà nước, hay Nhà
nước là chủ thể của ngân sách đó.
NSNN là khái niệm quen thuộc theo nghĩa rộng mà bất kỳ người dân nào
cũng biết được, song lại có rất nhiều định nghĩa khác nhau về NSNN:
Theo quan điểm của Nga: NSNN là bảng thống kê các khoản thu và chi bằng
tiền của Nhà nước trong một giai đoạn nhất định.

Một cách hiểu tương tự, người Pháp cho rằng: NSNN là tồn bộ tài liệu kế
tốn mơ tả và trình bày các khoản thu và kinh phí của Nhà nước trong một năm.
Có thể thấy rằng các quan điểm trên đều cho thấy biểu hiện bên ngoài của
NSNN và mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước và NSNN.
Trong hệ thống tài chính, NSNN là khâu chủ đạo, đóng vai trị hết sức quan
trọng trong việc duy trì sự tồn tại của bộ máy quyền lực Nhà nước. Tại Việt nam,
định nghĩa về NSNN được nêu rõ trong luật NSNN (20/3/1996): NSNN là toàn bộ
các khoản thu và chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.(Điều1- luật NSNN).
Trong thực tiễn, hoạt động NSNN là hoạt động thu (tạo lập) và chi tiêu (sử
dụng) quỹ tiền tệ của Nhà nước, làm cho nguồn tài chính vận động giữa một bên là
các chủ thể kinh tế, xã hội trong quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân dưới
hình thức giá trị và một bên là Nhà nước. Đó chính là bản chất kinh t ca NSNN.
SV: Phạm Minh Dơng

3

Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng th¶o

Đứng sau các hoạt động thu, chi là mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ
thể kinh tế, xã hội. Nói cách khác, NSNN phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước với các chủ thể trong phân phối tổng sản phẩm xã hội, thông qua việc tạo
lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, chuyển dịch một bộ phận thu nhập
bằng tiền của các chủ thể đó thành thu nhập của Nhà nước và Nhà nước chuyển

dịch thu nhập đó đến các chủ thể được thực hiện để thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước.
1.2. Đặc điểm của ngân sách Nhà nước:
Để hiểu thế nào là ngân sách Nhà nước thì có rất nhiều quan niệm khác nhau,
hiện nay có hai quan niệm phổ biến về ngân sách Nhà nước. Quan niệm thứ nhất
cho rằng: ngân sách Nhà nước là bản dự tốn thu chi tài chính của Nhà nước trong
một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Quan niệm thứ hai cho rằng:
ngân sách Nhà nước là quỹ tiền tệ của Nhà nước. Các quan niệm trên về ngân sách
Nhà nước đã kootj tả được mặt cụ thể, mặt vật chất của ngân sách Nhà nước,
nhưng lại chưa thể hiện được nội dung kinh tế xã hội của ngân sách Nhà nước.
Trịn thực tế, nhìn bề ngồi hoạt động ngân sách Nhà nước là hoạt động thu chi tài
chính của Nhà nước. Hoạt động đó được biểu hiện một cách đa dạng và phong
phú, được tiến hành hầu hết trên các lĩnh vực văn hóa, chính trị xã hơi, kinh tế….
nó tác động đến mọi chủ thể kinh tế xã hội. Tuy vậy, nhưng chúng có những đặc
điểm chung sau:
Thứ nhất, việc tạo lập và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước luôn gắn liền với
quyền lực của Nhà nước và phuc vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà
nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở luật định. Đây cũng chính là điểm khác
biệt gũa ngân sách Nhà nước với các khoản tìa chính khác. Các khoản thu NSNN
đều mang tính chất pháp lý, cịn chi ngân sách Nhà nước mang tính chất cấp phát “
khơng hồn trả trực tiếp”. Do nhu cầu chi tiêu của mình để thực hiện nhiệm vụ
kinh tế - xã hội Nhà nước đã sử dụng để quy định hệ thống pháp luật tài chính,
buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải nộp một phần thu nhập của mình cho Nhà
nước với tư cách là một chủ thể. Các hoạt động thu chi NSNN đều tiến hành theo
cơ sở nhất định đó là các luật thuế, cế độ thu chi…do Nhà nước ban hành, đồng
thời các hoạt động luôn chịu sự kiểm tra của các cơ quan Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước nó ln ln chứa đựng nhựng lợi ích về mặt kinh tế,
chính trị, ngoại giao, xã hội… Nhưng lợi ích quốc gia, lợi ích tổng thể bao giờ
cũng phải được đặt lên hàng đầu và chi phối các lợi ích khác.
Thứ hai, ngân sách Nhà nước ln gắn chặt vơi Nhà nước chưa đụng những

lợi ích chung và công, hoạt động thu chi của ngân sách Nhà nước là thể hiện qua
các mặt kinh tế - xã hội của Nhà nướcNgân sách Nhà nước là quỹ tin t tp trung

SV: Phạm Minh Dơng

4

Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng th¶o

của Nhà nước được chia ra làm nhiều quỹ nhỏ, mỗi một quỹ nhỏ có những tác
dụng riêng rồi sau đó mới được chia dung cho những mục đích.
Thứ ba, cũng như các quỹ tiền tệ khác ngân sách Nhà nước cũng có đặc điểm
riêng của một quỹ tiền tệ, nó là quỹ tiền tệ tập chung của Nhà nước được chia ra
thành nhiều quỹ nhỏ. Mỗi quỹ có tác dụng riêng rồi sau đó mới được chia dung
cho những mục đích.
Thứ tư, hoạt động thu cho ngân sách Nhà nước được thể hiện theo ngun tắc
khơng hồn trả lại trực tiêp đối với người có thu nhập cao nhằm mục đích rútruts
ngắn khoản thời gian giữa người giàu và người nghèo nhằm cơng bằng cho xã hội.
ví dụ: xây dựng đường xá, an ninh quốc phòng…” người chịu thuế sẽ được hưởng
lợi từ hàng hóa này nhưng hồn trả một cách trực tiếp. Bên cạnh đó ngân sách cịn
chi cho các quỹ chính sách, trợ cấp thiên tai…
1.3. Vai trò ngân sách nhà nước:
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa – tiền tệ phát triển ở giai đoạn cao; tức
là khi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ
hoá, các yếu tố của sản xuất như: đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật

chất, sức lao động, công nghệ và quản lý, các sản phẩm dịch vụ tạo ra, chất xám
đều là đối tượng mua - bán và hàng hoá. Sự vận hành của nền kinh tế chịu sự tác
động của các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu,
quy luật lưu thông tiền tệ, ….đã bộc lộ những ưu thế cũng như khuyết tật của nền
kinh tế thị trường, đó là:
Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh tốn,
khơng chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội.
Kinh tế thị trường, đặt lợi nhuận lên hàng đầu , cái gì có lãi thì làm, khơng có
lãi thì thơi nên nó khơng giải quyết được cái gọi là “hàng hố cơng cộng” (đường
xá, các cơng trình văn hố, y tế và giáo dục .v.v.)
Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo
nhiều, bất công xã hội.
Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại khơng chỉ có tiến
bộ mà cịn cả suy thối, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần phải có sự can
thiệp của Nhà nước.
Để hạn chế và khắc phục những khuyết tật đó của nền kinh tế thị trường, Nhà
nước can thiệp vào quá trình vần hành của nền kinh tế. Sự can thiệp của Nhà nước
sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường được ổn định, nhằm tối đa hoá
hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của sự phát triển kinh tế, sửa chữa
khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường, tạo ra những công cụ
quan trọng để điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô. Bằng cách ú Nh nc mi cú th
SV: Phạm Minh Dơng

5

Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ


GV:ths đoàn phơng th¶o

kiềm chế tính tự phát của kinh tế thị trường, đồng thời kính thích đối với sản xuất
thơng qua trao đổi hàng hố dưới hình thức thương mại… Sự can thiệp đó của Nhà
nước vào nền kinh tế thị trường là sụ can thiệp gián tiếp thông qua các công cụ chủ
yếu như: pháp luật, kế hoạch, tổ chức tài chính tiền tệ,… trong đó ngân sách Nhà
nước được coi là là công cụ quan trọng nhất của Nhà nước. Vài trị quan trọng đó
của ngân sách Nhà nước được thể hiện trên các mặt sau đây:
a. Ngân sách Nhà nước là cơng cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Đây là vai trò truyền thống của ngân sách Nhà nước trong mọi mơ hình kinh
tế, nó gắn chặt với các chi phí của Nhà nước trong q trình tồn tại và thực hiện
nhiệm vụ của mình. Ngân sách Nhà nước cung cấp nguồn kinh phí để Nhà nước
đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, sản kinh doanh, tạo tư liệu sản xuất…
Nhà nước huy động nguồn tài thông qua cơng cụ như thuế, lệ phí, lợi tức của
Nhà nước, các khoản vay trong nước hoặc nước ngoài, viên trợ từ các nước tổ
chức trên thế giới,…
b. Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Vai trò này xuất phát từ yêu cầu khắc phục những khuyết tật vốn có của nền
kinh tế thị trường. Vai trò này được thể hiện trên các mặt sau:
+ Thứ nhất, ngân sách Nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu
kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
Để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, Nhà nước phải
hướng những hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà Nhà
nước đã hoạch định, để hình thành nên cơ cấu kinh tế tố ưu, tạo điều kiện cho nền
kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Thông qua công cụ là ngân sách Nhà nước
đảm bảo cung cấp kinh phí để Nhà nước đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình
thành các doanh nghiệp thuộc các nghành then chốt, trên cơ sở đó tạo điều kiện
thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế. Mặt khác, trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí ngân sách cũng có thể

được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo cho tính
ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu kinh tế mới hợp
lý hơn.
Bằng việc huy động nguồn tài chính thơng thơng qua các khoản thuế và chính
sách thuế sẽ đảm bảo vai trị định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất
kinh doanh. Việc đặt ra các loại thuế với thuế suất ưu đãi, các quy định miễn thuế,
giảm thuế... có tác dụng kích thích mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp. Một chính
sách thuế có lợi sẽ thu hút được doanh nghiệp bỏ vốn đầu t vo ni cn thit;

SV: Phạm Minh Dơng

6

Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng th¶o

ngược lại, một chính sách thuế khắt khe sẽ giảm bớt luồng di chuyển vốn vào nơi
cần hạn chế sản xuất kinh doanh
Độc quyền, trong kinh tế học, độc quyền là trạng thái thị trường chỉ có duy
nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm khơng có sản phẩm thay thế gần gũi.
Đây là một trong những dạng của thất bại thị trường, là trường hợp cực đoan của
thị trường thiếu tính cạnh tranh. Mực dù trên thực tế hầu như khơng thể tìm được
trường hợp đáp ứng hoàn hảo hai tiêu chuẩn của độc quyền và do đó độc quyền
thuần túy có thể coi là khơng tồn tại nhưng những dạng độc quyền không thuần túy
đều dẫn đến sự phi hiệu quả của lợi ích xã hội. Độc quyền được phân loại theo
nhiều tiêu thức: mức độ độc quyền, nguyên nhân của độc quyền, cấu trúc của độc

quyền... Độc quyền gây ra rất nhiều tổn thất phúc lợi cho xã hội vì vậy, việc cấp
vốn hình thành các doanh nghiệp là một trong những biện pháp căn bản để chống
độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh khơng hồn
hảo, một trong những nguyên nhân kìm hãm phát triển nền kinh tế
+ Thứ hai, ngân sách Nhà nước có vai trị quan trọng trong việc điều tiết thị
trường, bình ổn giá cả và chống lạm phát.
Trong nền kinh tế thị trường, sự biến động khơng ngừng của giá cả có
ngun nhân từ sự mất cân đối giữa cung và cầu. Bằng công cụ thuế, phí, lệ phí,
vay và chính sách chi tiêu của ngân sách Nhà nước, Nhà nước có tác động vào khía
cạnh cung hoặc cầu để bình ổn giá cả. Đặc biệt sự hình thành quỹ dự phịng trong
ngân sách Nhà nước để đối phó với với sự biến động của thị trường đóng vai trị
quan trọng để bình ổn giá cả:
Đối với thị trường hàng hoá: hoạt động điều tiết của Chính phủ được thực
hiện thơng qua việc sử dụng các quỹ dự trữ nhà nước ( bằng tiền, bằng ngoại tệ,
các loại hàng hoá, vật tư chiến lược,...) được hình thành từ nguồn thu ngân sách.
Đối với thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động... hoạt động
điều tiết của Chính phủ thơng qua việc thực hiện một cách đồng bộ giữa các công
cụ tài chính, tiền tệ, giá cả... trong đó cơng cụ ngân sách với các biện pháp như
phát hành công trái, chi trả nợ, các biện pháp tiêu dùng của Chính phủ cho toàn xã
hội, đào tạo...
Mặt khác, hoạt động thu chi của ngân sách Nhà nước có mối quan hệ chặt
chẽ với vấn đề lạm phát. Lạm phát là căn bệnh nguy hiểm đối với nền kinh tế và
chống lạm phát là một nội dung quan trọng trong quá trình điều chỉnh thị trường.
Lạm phát (trong kinh tế học) là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung
của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay
giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là
sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thơng thường
theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi
SV: Phạm Minh Dơng


7

Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng th¶o

nền kinh tế của một quốc gia, cịn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát
của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai
thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô.
Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số
dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn định giá cả. Lạm phát gây ra rất nhiều
hiệu ứng tiêu cực cho đất nước nói chung và cho nền kinh tế nói chung.Nguyên
nhân gây ra và thúc đẩy lạm phát có rất nhiều và xuất phát từ nhiều lĩnh vực, như:
Lạm phát cho chi phí đẩy, lạm phát do cơ cấu đẩy, lạm phát do xuất nhập khẩu,
lạm phát do tiền tệ… trong đó có lĩnh vực thu chi tài chính của Nhà nước. Do đó,
bằng các biện pháp đúng đắn, trong các quá trình thu chi của ngân sách Nhà nước
như: thắt chặt và nâng cao hiệu quả hiệu quả của các khoản chi tiêu của ngân sách
Nhà nước, tăng thuế tiêu dung, giảm thuế đối với đầu tư, thắt chặt chi tiêu của
ngân sách Nhà nước... Ngồi ra, để kiềm chế lạm phát, nhà nước có thể tăng cường
các khoản vay trong dân góp phần làm giảm lượng tiền mặt trong nền kinh tế; triệt
để không phát hành tiền tệ để bù đắp thiếu hụt ngân sách..., Nhà nước có thể hạn
chế và kiểm sốt lạm phát.
c. Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết thu nhập giữa các thành phần
kinh tế và các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo công bằng xã hội.
Từ năm 1968 nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi cơ chế kế hoạch hoá tập trung
bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước với muạc tiêu xây
dựng một xã hội thịnh vượng, công bằng và văn minh. Nhưng nền kinh tế thị

trường với những khuyết tật vốn có của nó là phân hố giai cấp, phân hố giàu
nghèo, bất cơng bằng xã hội... . Do vậy, Nhà nước phải sử dụng công cụ ngân sách
Nhà nước để điều tiết thu nhập, giảm bớt khoảng cách về thu nhập giữa các tầng
lớp trong xã hội. Việc điều tiết này được thực hiện thông qua hoạt động thu chi của
ngân sách.
Thông qua hoạt động thu ngân sách, dưới hình thức kết hợp thuế giảm thu và
thuế trực thu Nhà nước điều tiết bớt một phần thu nhập của tầng lớp có thu nhập
cao trong xã hội, hướng dẫn tiêu dung hợp lý, tiết kiệm, đảm bảo thu nhập chính
đáng của người lao động. Mặt khác, thơng qua hoạt động chi ngân sách dưới các
hình thức chứng khốn cấp phát, trợ cấp trong các chính sách về dân số kế hốch
hóa gia đình về bảo trợ xã hội, việc làm... Nhà nước hỗ trợ để nâng cao đời sống
của từng lớp người nghèo trong xã hội.
1.4. Hệ thống ngân sách nhà nước
Luật NSNN ra đời là sự phản ánh pháp lý cơ chế quản lý NSNN ở nước ta,
thể chế hoá những chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng từ Đại hội VI, VII,
VIII, là công cụ pháp lý để quản lý NSNN có hiệu lực và hiệu quả, góp phần hồn
thiện hệ thống pháp luật tài chính. Hệ thống NSNN và phân cấp quản lý NSNN l
SV: Phạm Minh Dơng

8

Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng th¶o

nội dung cốt lõi trong mối quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương đã được phản ánh rõ ràng trong luật dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà

nước ta: tăng cường tính tập trung, thống nhất, tính liên tục của điều hành vĩ mơ,
lãnh đạo tập trung đi đôi với việc mở rộng trách nhiệm và quyền hạn, phát huy tính
chủ động, sáng tạo của địa phương đối với những vấn đề mà các địa phương có
khả năng xử lý có hiệu quả.
Hệ thống NSNN được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ hữu
cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân sách.
Tại nước ta, tổ chức hệ thống NSNN gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức bộ máy
Nhà nước và vai trị, vị trí của bộ máy đó trong q trình phát triển kinh tế xã hội
của đất nước theo Hiến pháp. Mỗi cấp chính quyền có một cấp ngân sách riêng
cung cấp phương tiện vật chất cho cấp chính quyền đó thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình trên vùng lãnh thổ.Việc hình thành hệ thống chính quyền Nhà nước
các cấp là một tất yếu khách quan nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước trên mọi vùng lãnh thổ của đất nước. Chính sự ra đời của hệ thống chính
quyền Nhà nước nhiều cấp đó là tiền đề cần thiết để tổ chức hệ thống ngân sách
nhà nước nhiều cấp.
Cấp ngân sách được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền Nhà nước, phù
hợp với mơ hình tổ chức hệ thống chính quyền Nhà nước ta hiện nay, hệ thống
ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương:
* Ngân sách trung ương phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo ngành và giữ vai
trò chủ đạo trong hệ thống ngân sách nhà nước. Nó bắt nguồn từ vị trí, vai trị của
chính quyền trung ương được Hiến pháp quy định đối với việc thực hiện các nhiệm
vụ kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Ngân sách trung ương cấp phát kinh phí
cho yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trung ương (sự nghiệp
văn hoá, sự nghiệp an ninh quốc phịng, trật tự an tồn xã hội, đầu tư phát triển…).
Nó cịn là trung tâm điều hồ hoạt động ngân sách của địa phương. Trên thực tế,
ngân sách trung ương là ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận nguồn tài
chính quốc gia và đảm bảo các nhiệm vụ chi tiêu có tính chất huyết mạch của cả
nước. ngân sách trung ương bao gồm các đơn vị dự toán của cấp này, mỗi bộ, mỗi
cơ quan trung ương là một đơn vị dự toán của ngân sách trung ương.Ngân sách
trung ương bao gồm: Một là ngân sách cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung

ương (gọi chung là ngân sách cấp tỉnh), hai là ngân sách cấp huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp huyện), ba là ngân sách cấp xã,
phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).
* Ngân sách địa phương là tên chung để chỉ các cấp ngân sách của các cấp
chính quyền bên dưới phù hợp với địa giới hành chính các cấp. Ngồi ngân sỏch xó
SV: Phạm Minh Dơng

9

Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng th¶o

chưa có đơn vị dự tốn, các cấp ngân sách khác đều bao gồm một số đơn vị dự
toán của cấp ấy hợp thành.
+ Ngân sách cấp tỉnh phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ, đảm bảo
thực hiện các nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế, xã hội của chính quyền
cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Chính quyền cấp tỉnh cần chủ động,
sáng tạo trong việc động viên khai thác các thế mạnh trên địa bàn tỉnh để tăng
nguồn thu, đảm bảo chi và thực hiện cân đối ngân sách cấp mình.
+ Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cơ sở có tầm quan
trọng đặc biệt và cũng có đặc thù riêng: nguồn thu được khai thác trực tiếp trên địa
bàn và nhiệm vụ chi cũng được bố tríđể phục vụ cho mục đích trực tiếp của cộng
đồng dân cư trong xã mà không thông qua một khâu trung gian nào. Ngân sách xã
là cấp ngân sách cơ sở trong hệ thống NSNN, đảm bảo điều kiện tài chính để chính
quyền xã chủ động khai thác các thế mạnh về đất đai, phát triển kinh tế, xã hội, xây
dựng nơng thơn mới, thực hiện các chính sách xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự trên

địa bàn.
Trong hệ thống ngân sách Nhà nước ta, ngân sách trung ương chi phối phần
lớn các khoản thu và chi quan trọng, còn ngân sách địa phương chỉ được giao
nhiệm vụ đảm nhận các khoản thu và chi có tính chất địa phương. Quan hệ giữa
các cấp ngân sách được thực hiện theo nguyên tắc sau:
Ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương được
phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể.Thực hiện việc bổ sung từ ngân sách
cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các
vùng, các địa phương. Số bổ sung này là khoản thu của ngân sách cấp dưới.Trường
hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan quản lý Nhà nước
cấp dưới thực hiện nhiệm vị chi thuộc chức năng của mình, thì phải chuyển kinh
phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó.Ngồi
việc bổ sung nguồn thu và uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ chi, không được dùng
ngân sách cấp này để chi cho nhiệm vụ của ngân sách cấp khác trừ trường hợp đặc
biệt theo quy định của Chính phủ.
2. Khái niệm và cách tính bội chi ngân sách nhà nước.
Bội chi ngân sách nhà nước trong một năm là số chênh lệch giữa chi lớn hơn
thu của năm đó.
Một vấn đề hình như rất đơn giản, nhưng thật ra lại rất phức tạp là: Khi tính
bội chi ngân ngân sách nhà nước thì thu bao gồm những khoản gì, chi gồm những
mục nào?
Xét trên phương diện lý luận, số thu trong cơng thức tính bội chi ngân sách
Nhà nước hàng năm không thể bao gồm các khoản vay nợ, bởi vì các khoản vay
phải có trách nhiệm hon tr.
SV: Phạm Minh Dơng

1
0

Lớp: TCDN48B



Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng th¶o

Viện trợ khơng hồn lại hàng năm từ các chính phủ và tổ chức quốc tế có tác
dụng làm giảm bội chi ngân ngân sách nhà nước. Nhưng, các khoản viện trợ
thường khơng có kế hoạch trước, khơng ổn định, việc dự kiến các khoản chi được
tài trợ bằng nguồn viện trợ có thể tác động tiêu cực đến dự tốn ngân sách nhà
nước, có thể phải điều chỉnh lớn trong tương lai.
Vì vậy, chỉ nên coi các nguồn viện trợ là để bù đắp bội chi ngân ngân sách
nhà nước.
Việc thu hồi hàng năm tiền nợ Nhà nước đã cho vay khơng được tính là một
khoản thu của ngân sách nhà nước. Vì vậy, trong cơng thức tính bội chi ngân sách
nhà nước, số chi không thể bao gồm toàn bộ doanh số cho vay của Nhà nước, mà
chỉ gồm số cho vay ròng. Cho vay ròng hàng năm của Nhà nước là chênh lệch giữa
số cho vay ra và số đã thu hồi nợ trong năm.
Đến đây chúng ta có thể đưa ra một cách tóm tắt báo cáo về ngân sách nhà
nước hàng năm như sau:
Dựa trên sự phân tích nói trên, có thể đưa ra cơng thức tính bội chi ngân sách
nhà nước theo thơng lệ quốc tế của một năm như sau:
Bội chi ngân sách = Tổng chi - Tổng thu = (D + E + F) - (A + B) = C (1)

Công thức (1) ở trên cho thấy bức tranh tổng quát về tình hình ngân sách nhà
nước. Kết quả của nó có thể dùng để phân tích tác động của bội chi ngân sách nhà
nước đến tình hình tiền tệ, cầu trong nước và cán cân thanh tốn. Tuy vậy, cách
tính của cơng thức (1) cũng cịn có hạn chế. Những mức bội chi như nhau là kết
quả của công thức (1) có thể gây ra những tác động hồn tồn khác nhau, vì chúng
cịn phụ thuộc nhiều vào cơ cấu thu, chi; nguồn bù đắp bội chi.

Đi liền với mức bội chi tuyệt đối, cần xác định chỉ tiêu tỷ lệ phần trăm bội chi
so với GDP. Đây là chỉ số tổng hợp về tình hình ngân sách nhà nước và là chỉ số
được sử dụng rộng rãi để phản ánh tình hình ngân sách nhà nước của một quốc gia.
Có nhiều cách tính khác nhau để đo lường (gần đúng) hiện tượng bội chi ngân sách
nhà nước. Nhưng dù dùng cách tính nào, cũng phải xem xét kết hợp với cơ cấu thu,
chi của ngân sách nhà nước. Có như vậy mới thấy được tác động của bội chi ngân
sách nhà nước đối với nền kinh tế xã hội.
2.1. Nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước và nguồn bù đắp.
Có hai nhóm nguyên nhân gây ra bội chi ngân sách nhà nước:
* Nhóm nguyên nhân khách quan:
Tác động của chu kỳ kinh doanh là nguyên nhân cơ bản nhất trong số các
nguyên nhân khách quan gây ra bội chi ngân sách nhà nước. Khủng hoảng làm cho
thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên (để giải quyết những
khó khăn mới về kinh tế và xã hội). Điều đó làm cho mức bội chi ngõn sỏch nh
SV: Phạm Minh Dơng

1
1

Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng th¶o

nước tăng lên. ở giai đoạn kinh tế thịnh vượng, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong
khi chi không phải tăng tương ứng.
Điều đó làm giảm mức bội chi ngân sách nhà nước.
Những nguyên nhân khách quan khác có thể kể ra như thiên tai, địch hoạ

v.v... Nếu gây tác hại lớn cho nền kinh tế thì chúng sẽ là những nguyên nhân làm
giảm thu, tăng chi và dẫn tới bội chi ngân sách nhà nước
* Nhóm nguyên nhân chủ quan:
Tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước là nguyên nhân cơ bản
nhất trong số các nguyên nhân chủ quan gây ra bội chi ngân sách nhà nước. Khi
Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng
mức bội chi ngân sách nhà nước. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và
tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội chi ngân sách nhà nước sẽ giảm bớt.
Những nguyên nhân chủ quan khác như sai lầm trong chính sách, trong cơng
tác quản lý kinh tế - tài chính v.v... làm cho nền kinh tế trì trệ cũng có thể dẫn tới
bội chi ngân sách nhà nước.
Trong điều kiện bình thường (khơng có chiến tranh, khơng có thiên tai
lớn,...), tổng hợp của bội chi do chu kỳ và bội chi do cơ cấu sẽ là bội chi ngân sách
nhà nước.
Bội chi ngân sách nhà nước tác động đến kinh tế vĩ mô phụ thuộc nhiều vào
cách bù đắp bội chi.Mỗi cách bù đắp đều làm ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô.
Nếu Nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi ngân sách
nhà nước sẽ kéo theo lạm phát.
Nếu vay nước ngoài quá nhiều sẽ kéo theo vấn đề phụ thuộc nước ngoài.
Nếu giảm dự trữ ngoại hối quá nhiều, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến
khủng hoảng tỷ giá.
Nếu vay quá nhiều trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ - trả lãi bội chi sẽ làm tăng mạnh các khoản nợ công chúng.
Hiện nay, Nhà nước ta kiên quyết không phát hành thêm tiền để bù đắp bội
chi ngân sách nhà nước.
Vay nợ (trong nước, ngoài nước) được xem là giải pháp bù đắp bội chi ngân
sách nhà nước một cách hữu hiệu. Kinh nghiệm mấy chục năm cải cách của Trung
Quốc cho hay tỷ lệ giữa nợ trong nước và nước ngoài nên ở mức 1,4 :1.Tuy vậy,
mức độ nợ phải nằm trong giới hạn hợp lý.
2.2. Phân loại thâm hụt ngân sách
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm hụt

cơ cấu và thâm hụt chu kỳ.
SV: Phạm Minh Dơng

1
2

Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng th¶o

a. Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính
sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay
quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,...
b. Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ
kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví
dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế
giảm xuống trong khi chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính tốn
như sau:
Ngân sách thực có: Liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền
trong một giai đoạn nhất định (thường là một q hoặc một năm).
Ngân sách cơ cấu: tính tốn thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao
nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
Ngân sách chu kỳ: Là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách
cơ cấu.
Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác
nhau giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định

tự động.
Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc
đánh giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách tài
chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế nào
giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong từng
giai on ca chu k kinh t.

SV: Phạm Minh Dơng

1
3

Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng thảo

CHƯƠNG 2:
THựC TRạNG THÂM HụT NGÂN SáCH ở VIệT NAM

Giai đoạn trước năm 1986, tình hình tài chính nước ta trong tình trạng yếu
kém, thu khơng đủ chi thường xun, thâm hụt NSNN cao quá mức, chi tiêu Chính
phủ chủ yếu nhờ vào sự viện trợ của nước ngoài là chính. Đến giai đoạn từ năm
1986-1990, trước tình hình khó khăn về kinh tế và chính trị, Liên Xơ và các nước
XHCN Đông Âu đã cắt giảm dần viện trợ của họ cho nước ta. Trước tình hình khó
khăn đó, Đảng ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng
XHCN. Với những bước đi chập chững ban đầu, chính sách tài chính đã có đổi

mới một bước. Tuy nhiên, thu NSNN càng không đủ chi và bù đắp thâm hụt
NSNN khơng chỉ phải vay trong và ngồi nước mà cịn phải lấy từ nguồn tiền
phát hành.
Chính yếu kém về NSNN nêu trên, là một yếu tố quan trọng gây nên lạm
phát trong thập kỉ 80 của thế kỉ XX. Chi NSNN đã tăng cao tới mức bùng nổ ở
trong những năm 1985-1988, đã gây ra thâm hụt NSNN trầm trọng vì khơng có sự
tăng lên tương ứng về số thu. Giai đoạn từ năm 1986 - 1990, khi mà tỷ lệ tích luỹ
nội bộ nền kinh tế rất thấp (có thể nói là khơng đáng kể), làm khơng đủ ăn thì tỷ lệ
chi đầu tư phát triển như ở đồ thị 1 là quá lớn và nguồn bù đắp cho thâm hụt
NSNN lại chủ yếu do tiền phát hành thì lạm phát cao là điều khó tránh khỏi.
Đồ thị 1: Tổng bội chi NSNN và tiền phát hành bự p bi chi NSNN
(1985 - 1990)
2500
2000
1500
1000
500
0
1986

1987

1988

1989

1990

Tiền phát hành đề bù đáp bội chi NSNN
Thâm hụt NSNN


(Ngun: B K hoạch và Đầu tư)

Trong thời gian 5 năm 1986 - 1990, 59,7% mức thâm hụt này được hệ thống
Ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền. Năm 1984, phát hành tiền để bù
đắp thâm hụt ngân sách là 0,4 tỷ đồng, năm 1985: 9,3 tỷ đồng, năm 1986: 22,9 t
SV: Phạm Minh Dơng

1
4

Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng th¶o

đồng, năm 1987: 89,1 tỷ đồng, năm 1988: 450 tỷ đồng, năm 1989: 1655 tỷ đồng và
năm 1990 là 1200 tỷ đồng. Số còn lại được bù đắp bằng các khoản vay nợ và viện
trợ của nước ngoài (so với bội chi, khoản vay và viện trợ năm 1984 là 71,3%, năm
1985 là 40,8%, năm 1986: 38,4%, năm 1987: 32,1%, năm 1988: 32,6%, năm 1989:
24,9%, năm 1990 là 46,7%) và một số nhỏ do các khoản thu từ bán công trái
trong nước.
Mặc dù có nhiều cố gắng đáng kể trong năm 1989, nhưng tình trạng thiếu hụt
NSNN vẫn trầm trọng. Tổng chi đã tăng gấp đôi so với năm 1988, một phần do
lạm phát chuyển từ năm 1988 sang và đã làm tăng giá đáng kể một số mặt hàng và
dịch vụ thiết yếu do Nhà nước cung cấp. Tất cả những phân tích ở trên cho thấy, có
nhiều ngun nhân gây ra lạm phát cao trong giai đoạn từ năm 1986-1990, trong
đó có việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng sự phát hành tiền như ở đồ thị 1.

Bước vào giai đoạn từ năm 1991-1995, tình hình đất nước đã có nhiều
chuyển biến tích cực, sản xuất và lưu thơng hàng hố đã có động lực mới, tình
trạng thiếu lương thực đã được giải quyết căn bản, lạm phát siêu mã đã được đẩy
lùi, nhưng lạm phát cao vẫn còn. Cơ cấu chi NSNN đã dần dần thay đổi theo
hướng tích cực. Nguồn thu trong nước đã đủ cho chi thường xuyên, tình trạng đi
vay hoặc dựa vào phát hành cho chi thường xuyên đã chấm dứt. Trong giai đoạn
này, chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội được đặt
ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt NSNN đã giảm dần qua từng năm và
được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài. Trong giai đoạn từ năm 19911995, tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP chỉ ở mức 1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%,
1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994: 2,2% và năm 1995 là 4,17%). Như vậy, có thể thấy
bội chi NSNN trong những năm 1991-1995 là rất thấp, thể hiện chính sách thắt
chặt chi tiêu của Chính phủ trong thời kỳ này và đây cũng là yếu tố rất quan trọng
góp phần kiềm chế lạm phát.
Giai đoạn từ năm 1996-2000, tình hình thu chi NSNN đã có nhiều chuyển
biến tích cực, thu khơng những đủ chi thường xun mà còn cho đầu tư phát triển,
thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, giai đoạn từ năm 19962000, do tác động của khủng hoảng tài chính ở các nước Đơng Nam Á nên nền
kinh tế có gặp khơng ít khó khăn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm dần từ năm
1996 đến năm 1999 và đến năm 2000, tốc độ này mới tăng lên chút ít, chặn đứng
đà giảm sút. Trong những năm này, tỷ lệ bội chi NSNN ở mức từ 3,0% GDP năm
1996 lên 4,95% GDP năm 2000 (năm 1996: 3%, năm 1997: 4,05%, năm 1998:
2,49%, năm 1999: 4,37%, năm 2000: 4,95%). Tỷ lệ bội chi bình quân 5 năm là
3,87% GDP, cao hơn mức bình qn năm 1991-1995 (2,63%). Năm 2000 có mức
bội chi cao nhất là 4,95% GDP và năm 1998 có mc bi chi thp nht l 2,49%.
SV: Phạm Minh Dơng

1
5

Lớp: TCDN48B



Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng th¶o

Đây là thời kỳ suy thối và thiểu phát, nên mức bội chi NSNN như trên không tác
động gây ra lạm phát mà có tác động làm cho nền kinh tế chuyển sang giai đoạn
đi lên.
Giai đoạn từ năm 2001-2007, NSNN cũng đã có chuyển biến đáng kể. Tốc độ
tăng thu hằng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi bình quân hằng năm đạt
18,5%. Bội chi NSNN trong giai đoạn này về cơ bản đuợc cân đối ở mức 5% GDP
và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP. Nếu chỉ xét ở tỷ lệ so với GDP, cũng thấy bội
chi NSNN trong 7 năm trở lại đây tăng cao hơn các năm trước đó khá nhiều (bình
qn khoảng 4,95% GDP) vì giai đoạn năm 1991-1995, mức bội chi NSNN so với
GDP chỉ ở mức 2,63% và giai đoạn từ năm 1996-2000 ở mức 3,87% so với GDP.
(Xem đồ thị 2)
Đồ thị 2: Bội chi NSNN so với GDPĐồ thị 2: Bội chi NSNN so với GDP
6
5
4
3
2
1
0
91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 01 02 03 04 05 06 07
19 19 19 19 19 19 19 19 19 20 20 20 20 20 20 20 20
Béi chi NSNN/GDP

(Nguồn: Bộ Tài chính)


Nếu chỉ xem xét bội chi NSNN so với GDP thì chưa thấy hết sự tăng lên của
nó trong những năm gần đây; đặc biệt những năm gần đây, ngồi NSNN được cân
đối, đã có một lượng vốn lớn được đưa ra đầu tư các cơng trình giao thơng và thuỷ
lợi thơng qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ khơng cân đối vào NSNN.
Ngồi ra, phải kể đến lượng công trái giáo dục được phát hành để thu hút tiền cho
đầu tư kiên cố hoá trường lớp học cũng là một lượng tiền lớn cân đối ngoài
NSNN. Nếu cộng cả hai loại trên vào cân đối NSNN, bội chi NSNN trong những
năm qua không phải chỉ 5% GDP mà cao hơn (khoảng 5,8-6,2% GDP).

SV: Ph¹m Minh D¬ng

1
6

Líp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

Nm

GV:ths đoàn phơng th¶o

Bội chi NSNN

Tăng
GDP

2001


25.855

6.89

2002

25.597

7.08

2003

29.936

7.26

2004

34.703

7.7

2005

40.746

8.4

2006


48500

8.17

2007

56500

8.44

2008

66200

6.18

trưởng

(Xem đồ thị 3)

Đồ thị 3: Bội chi NSNN so vi GDP
25
20
15
10
5
0
2001

2002


2003

2004

2005

Tốc độ tăng bội chi NSNN

2006

Tốc độ tăng GDP

2007
CPI

(Ngun: B ti chớnh, Tng cc Thng kờ v tác giả tính tốn)

Thực tế trong 8 năm qua, từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng bội chi NSNN là
khá cao, ở mức 17-18%/ năm. Tốc độ này nếu trừ đi yếu tố tăng trưởng thì cịn cao
hơn tỷ lệ lạm phát hằng năm (năm 2001: 0,2%; năm 2002: 1,6%; năm 2003: 9,7%;
năm 2004: 8,1%; năm 2005: 9,0%; năm 2006: 11,1%; năm 2007: 7,8%).
Thực tế trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát bội chi
NSNN từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép tăng tiền cung
ứng thêm ra thị trường là khơng có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính phủ cho
tiêu dùng thường xuyên và cho đầu t l tng lờn.
(Xem th 4)

SV: Phạm Minh Dơng


1
7

Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng th¶o

Đồ thị 4: Bội chi NSNN từ 1996 -2008
70
60
50
40
30
20
10
0
19

96 997 998 999 000 001 002 003 004 005 006 007 008
1
1
1
2
2
2
2
2

2
2
2
2

Béi chi NSNN

(Nguồn: Bộ Tài chính)

Có thể thấy, chính sách tài khố trong những năm qua có phần nới lỏng như
những năm chúng ta đang phải kích cầu đầu tư. Nếu so sánh tổng chi NSNN so với
GDP trong những năm qua cho thấy, NSNN đã chi một khối lượng lớn tiền tệ
không chỉ ở số tuyệt đối mà cả ở số tương đối.
Như trên đã phân tích, bội chi NSNN tăng cao thể hiện chính sách tài khố
lỏng lẻo, nói lên sự chi tiêu của Chính phủ cho đầu tư và thường xuyên vượt quá
mức có thể của nền kinh tế. Nếu như bù đắp bội chi NSNN bằng phát hành thêm
tiền thì trực tiếp tác động gây ra lạm phát, vì đã làm tăng cung tiền tệ nhiều hơn
cầu tiền tệ trên thị trường như giai đoạn từ năm 1986-1990. Tuy nhiên, việc bù đắp
thâm hụt NSNN bằng nguồn huy động từ bên ngoài và từ trong nước về cơ bản,
cũng tăng cung tiền vào thị trường trong nước. Điều này, có thể giải thích là do
phần huy động từ vay nước ngoài đã làm tăng cung lượng tiền vào thị trường trong
nước, vì số tiền vay nước ngoài về để bù đắp thâm hụt NSNN phải đổi ra VND để
chi tiêu trên cơ sở bán cho NHNN là chính, mà NHNN lại phát hành tiền ra để mua
ngoại tệ là cơ bản. Đây chính là phần làm cho lạm phát tăng lên nếu lượng vay từ
bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN quá lớn. Thực tế trong những năm qua,
lượng vay tiền từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN chiếm khoảng 1/3 số thâm
hụt, tức là khoảng 1,5%-1,7% so với GDP. Nếu cộng thêm cả phần vay về cho vay
lại, lượng tiền từ bên ngoài vào nền kinh tế nước ta qua bù đắp thâm hụt NSNN
khoảng 2%-2,5% GDP. Đây chính là một nguyên nhân gây ra lạm phát cao của
nước ta trong năm 2007 và các tháng đầu năm 2008. Qua đồ thị 5 cho thấy, chi

NSNN đã tăng từ 27% GDP năm 2001 lên 40,4% năm 2007 là một con số khá ln
trong chi tiờu ca Chớnh ph.

SV: Phạm Minh Dơng

1
8

Lớp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng th¶o

Đồ thị 5: Chi NSNN so với GDP từ 2001 – 2007
45
40
35
30
25
20
15
10
5
0
2001

2002


2003

2004

2005

2006

2007

Tổng chi NSNN (bao gồm TPCP, SXKT, CTGD)
Chi µêìu tû/GDP
Chi thường xun/GDP

(Nguồn: Bộ Tài chính)

Cịn phần bù đắp thâm hụt NSNN từ nguồn vay trong dân về cơ bản, chỉ thu
tiền từ trong lưu thông vào NSNN và sau đó, lại chuyển ra lưu thơng nên khơng
làm tăng lượng tiền cơ bản trên thị trường mà chỉ làm cho vịng quay tiền tệ có thể
tăng nhanh hơn, tạo ra hệ số nở tiền cao hơn mức cần thiết. Điều này, cũng tạo ra
tăng cung tiền tệ do vòng quay tiền tệ lớn, có tạo ra tác động một phần gây ra lạm
phát, nhưng không lớn bằng trực tiếp phát hành tiền ra và vay vốn từ bên ngoài để
bù đắp thâm hụt NSNN.
Nhìn lại quá trình những năm trước đây có thể thấy, chúng ta đã thực hiện
một chính sách tài khoá lỏng lẻo thể hiện tỷ lệ bội chi NSNN bằng khoảng 5%
GDP hằng năm, cộng với đó là phát hành trái phiếu, công trái giáo dục cho đầu tư.
Hơn nữa, chúng ta cũng đã có lúc phát hành tiền ra để kích cầu đầu tư, đầu tư cho
một số cơng trình lớn, phát hành tiền cho một số cơng việc… mà chưa thống kê
hết. Đây chính là sự tích tụ tiền tệ các năm trước đó góp một phần làm cho lượng
tiền tệ trong lưu thông tăng cao, thể hiện ở tốc độ tăng hệ số tạo tiền của nền kinh

tế nước ta tăng trên 10% hằng năm và tăng 79,2% năm 2007 so với năm 2001,
trong khi cũng chỉ tiêu này các nước chỉ tăng 1-3%/năm và tăng 10%-15% năm
2007 so với năm 2001.

SV: Ph¹m Minh D¬ng

1
9

Líp: TCDN48B


Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV:ths đoàn phơng thảo

CHƯƠNG 3:
GIảI PHáP CHO VấN Đề THÂM HụT NGÂN SáCH ë VIÖT NAM

Về cơ bản các biện pháp là "tăng thu và giảm chi" và các biện pháp khác:
Vay nợ trong nước (vay dân); Vay nợ nước ngoài; Sử dụng dự trữ ngoại tệ; Vay
ngân hàng (in tiền).
3.1. Biện pháp "tăng thu, giảm chi"
Đây là biện pháp mà Chính phủ bằng những quyền hạn và nhiệm vụ được
giao, tính tốn hợp lý để tăng các khoản thu như thu từ Thuế.... và cắt giảm chi
tiêu. Tuy vậy, vấn đề đặt ra là phải tính tốn số tăng thu và giảm chi thế nào để gây
ảnh hưởng ít nhất đến tăng trưởng kinh tế - hệ quả từ mơ hình số nhân:
m=1/(1-MPC) ; mt= -MPC/(1-MPC) ; m+mt = 1 (số nhân ngân sách cân bằng)
Ý nghĩa : Khi chính phủ tăng chi tiêu (G) và tăng thuế (T) một lượng như
nhau thì ngân sách khơng đổi và sản lượng cân bằng sẽ tăng một lượng tương ứng

ΔY = ΔG = ΔTY = ΔY = ΔG = ΔTG = ΔY = ΔG = ΔTT
Khi chính phủ tăng chi tiêu : ΔY = ΔG = ΔTY = 1/(1-MPC ) x ΔY = ΔG = ΔTG
Khi đồng thời tăng thuế : ΔY = ΔG = ΔTY = 1/(1-MPC) x ΔY = ΔG = ΔTG - MPC/(1-MPC) x ΔY = ΔG = ΔTT
Mà ΔY = ΔG = ΔTG =ΔY = ΔG = ΔTT nên ta có ΔY = ΔG = ΔTY = ΔY = ΔG = ΔTG= ΔY = ΔG = ΔTT
Từ lý thuyết trên, vì được đặt trong bối cảnh chống lạm phát nên chính sách
ngân sách (hay chính sách tài khóa) của Chính phủ trong thời gian qua chỉ hướng
đến mục đích giảm chi tiêu công (gồm đầu tư công và chi thường xun) và qua đó
giảm tổng cầu. Cụ thể là Chính phủ chỉ thị: (i) Cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách
và tín dụng nhà nước; (ii) Rà sốt và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của
doanh nghiệp nhà nước (DNNN); (iii) Cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà
nước các cấp.
Tổng đầu tư của Nhà nước (từ ngân sách, tín dụng nhà nước và thông qua
DNNN) luôn chiếm trên dưới 50% tổng đầu tư của tồn xã hội. Vì vậy, khơng nghi
ngờ gì, nếu Nhà nước có thể cắt giảm một số khoản đầu tư kém hiệu quả và có thứ
tự ưu tiên thấp thì sức ép gia tăng lạm phát chắc chắn sẽ nhẹ đi. Cũng tương tự như
vậy, lạm phát cũng sẽ được kiềm chế bớt nếu các cơ quan nhà nước có thể cắt
giảm chi thường xuyên (chiếm 56% tổng chi ngân sách năm 2007).
Mặc dù chính sách cắt giảm chi tiêu cơng là hồn tồn đúng đắn, song hiệu
lực của những biện pháp cụ thể đến đâu thì cịn chưa chắc chắn vì ít nhất có 4 lý do
Thứ nhất, việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề dễ dàng,
nhất là khi những dự án này đã được các cơ quan lập pháp các cấp quyt nh; ó

SV: Phạm Minh Dơng

2
0

Lớp: TCDN48B




×