Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam. Đảng ta vận dụng quan điểm này trong thời kì đổi mới hiện nay như thế nào?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.69 KB, 11 trang )

BÀI TẬP LỚN
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Câu hỏi : Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam.
Đảng ta vận dụng quan điểm này trong thời kì đổi mới hiện nay như thế nào?
Trả lời
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam.
1. Những khái niệm cơ bản về vấn đề dân tộc và giai cấp
Trong tác phẩm “ Sáng kiến vĩ đại”, Lê Nin định nghĩa: “ Người ta gọi là giai cấp,
những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống
sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ( thường thường thì
những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản
xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách
hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập
đồn ngừơi, mà tập đồn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các
tập đồn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”
Để chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước có lãnh thổ
quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có ý thức về sự thống nhất của mình,
gắn bó với nhau bởi những quyền lợi về: chính trị, kinh tế, truyền thống, văn hoá, truyền
thống đấu tranh chung trong suốt quá trình dựng nước và bảo vệ đất nước.
Giai cấp và dân tộc có mối quan hệ mật thiết với nhau. Song đó là phạm trù chỉ các
quan hệ xã hội khác nhau, giai cấp, dân tộc khơng thể thay thế được cho nhau. Trong
dân tộc thì có giai cấp và quan hệ giai cấp có vai trị quyết định tới sự hình thành xu
hướng phát triển, bản chất xã hội của dân tộc, tính chất quan hệ giữa các dân tộc với
nhau.
Phương thức sản xuất sinh ra giai cấp nên phương thức sản xuất gián tiếp quy định
bản chất của dân tộc. Giai cấp nào lãnh đạo dân tộc nào thì dân tộc đó mang bản chất
của giai cấp đó.


Trong việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp, cả Mác và Ăngghen đều
chú trọng đến vấn đề giai cấp hơn là vấn đề dân tộc, vì về cơ bản, vấn đề dân tộc ở Tây
Âu đã được giải quyết trong các cuộc cách mạng tư sản nổ ra trước đó; nhất là Mác và
Ăngghen lại chưa có điều kiện bàn nhiều về vấn đề dân tộc thuộc địa. Vì vậy, các ơng
chỉ tập trung vào vấn đề giai cấp. Đồng thời, khi đó, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa tư
bản đã được mở rộng, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập chưa có ảnh hưởng đến
1


sự tồn tại và suy vong của chủ nghĩa tư bản. Trung tâm của cách mạng thế giới vẫn ở
châu Âu, vận mệnh loài người vẫn được coi là phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng
vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Do đó, tương lai của cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa cũng được nhìn nhận trong sự phụ thuộc vào thắng lợi của
cách mạng vơ sản ở chính quốc.
Tóm lại, Mác, Ăng-ghen và Lê-nin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan
hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu
và mục tiêu của cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn
đề giai cấp. Điều đó hồn tồn đúng với địi hỏi của thực tiễn cách mạng vơ sản Tây Âu
đang đặt ra lúc bấy giờ.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về mục tiêu, nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của
Mác – Lênin về mối quan hệ giữa dân tộc – giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản. Trên cơ sở ấy, Người đã vừa phát triển nhận thức,
vừa xử lý mối quan hệ đó theo quan điểm mới phù hợp với những nhiệm vụ cụ thể của
cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn
đề dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí
Minh thể hiện : khẳng định vai trị lịch sử của giai cấp cơng nhân và quyền lãnh đạo duy

nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình Cách mạng Việt Nam ; chủ trương đại đoàn kết
dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh cơng nhân, nơng dân và tầng lớp trí thức, dưới
sự lãnh đạo của Đảng ; sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực
phản cách mạng của kẻ thù ; thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân ;
gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Bằng phương pháp lịch sử cụ thể, bám sát thực tiễn xã hội thuộc địa, Hồ Chí Minh
nhận thấy sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đơng không giống như ở
các nước tư bản phương Tây. Nếu như mâu thuẫn chủ yếu ở các nước tư bản chủ nghĩa
phương Tây là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản thì mâu thuẫn chủ yếu
ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc, quy định tính chất và nhiệm vụ hàng của Cách mạng
ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.
Dưới tác động của các chính sách khai thác kinh tế, bóc lột tơ thuế và cướp đoạt
ruộng đất, cùng với những chính sách cai trị của chủ nghĩa đế quốc, mỗi giai cấp ở
2


thuộc địa có địa vị kinh tế, thái độ chính trị khác nhau, thậm chí có lợi ích phát triển
ngược chiều nhau, hình thành nhiều mâu thuẫn đan xen nhau, nhưng nổi lên mâu thuẫn
cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với đề quốc xâm lược và tay sai
của chúng. Do vậy, "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây".
Do mâu thuẫn chủ yếu khác nhau, tính chất cuộc đấu tranh cách mạng ở các nước
tư bản chủ nghĩa và các nược thuộc địa cũng khác nhau. Nếu như ở các nước tư bản chủ
yếu phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp, thì ở các nước thuộc địa trước hết phải tiến
hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đối tượng của cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản xứ, càng
không phải là giai cấp địa chủ nói chung , mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản
động.
Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế độ xã hội
mới. cách mạng ở thộc địa trước hết phải "lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc",
chứ chưa phải là cuộc cách mạng xóa bỏ sự tư hữu, sự bóc lột nói chung.

Hồ Chí Minh ln phân biệt rõ bọn thực dân xâm lược với nhân dân các nước tư
bản chủ nghĩa. Người kêu gọi nhân dân các nước phản đối chiến tranh xâm lược thuộc
địa, ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Từ đó đi đến kết luận,yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa là độc
lập dân tộc, mục tiêu nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc, từ đó tạo tiền đề giải
phóng giai cấp.
 Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Khác với con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
phong kiến (cuối thế kỉ XIX), hoặc chủ nghĩa tư bản ( đầu thế kỉ XX), con đường cứu
nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân
tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1960, Người nói: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ”.

3


Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khác quan của sự nghiệp giải phóng
dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa
mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột ; thiết lập một nhà nước thực sự của
dân, do dân, vì dân mới đảm bảo cho con người lao động có quyền làm chủ, mới thực
hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và
hạnh phúc của con người.
Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem
lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái,

đồn kết, ấm no trên quả đất…”. Trong xã hội chủ nghĩa không còn mâu thuẫn giai cấp
nữa, vấn đề giai cấp được giải quyết triệt để. Chỉ có xố bỏ tận gốc tình trạng áp bức,
bóc lột, xố bỏ đến tận gốc rễ của quan hệ bóc lột giai cấp; thiết lập một nhà nước mới
thực sự của dân, do dân, vì dân, tất cả đều mang tính dân tộc trên cơ sở nền tảng tư
tưởng của giai cấp lãnh đạo, thì mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ,
mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc
với tự do và hạnh phúc của con người. Như vậy, giải quyết vấn đề dân tộc luôn phải gắn
với mục đích để sao cho vấn đề giai cấp cũng đồng thời được giải quyết. Người khẳng
định rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng cịn con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một
hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về
căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách
mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách
mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa
Mác – Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải
phóng dân tộc phải là phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người chỉ rõ: “Cách
mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội"
 Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
Người giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn
đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng
lợi ích của dân tộc.
Tháng 5-1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: "Trong lúc này
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử tồn vong của quốc gia, của
dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi
được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc còn
4


chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng khơng

địi lại được".
Đảng ta vận dụng quan điểm này trong thời kì đổi mới hiện nay như thế nào?
a) Tổng quan
Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí
Minh khơng chỉ có ý nghĩa trong thời kì cả nước thực hiện cuộc Cách mạng giải phóng
dân tộc mà cịn có ý nghĩa sâu sắc trong thời bình, khi cả nước bước vào giai đoạn quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ở các nước phương Tây, sau khi cách mạng tư sản lật đổ phong kiến diễn ra thành
công, các nhà nước tư sản được hình thành mang bản chất và bảo vệ lợi ích cho giai cấp
tư sản. Nền kinh tế thị trường được xây dựng và trở thành đặc trưng của chủ nghĩa tư
bản.
Song, ở nước ta, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chống lại chủ nghĩa thực dân
và đế quốc tay sai lại gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác đem lại độc lập tự do cho dân tộc. Đảng mang bản chất của giai cấp cơng nhân, là
chính Đảng duy nhất lãnh đạo bộ máy Nhà nước. Nhưng Đảng ta không đứng trên lập
trường bảo vệ lợi ích nhóm thiểu số, phục vụ giai cấp thống trị. Hiến pháp 1992 có viết :
"Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức". Bên cạnh đó :
"Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo
chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội". Vấn đề dân tộc ở đây một lần nữa lại được đặt lên trước tiên. Đảng không chỉ
thể hiện quyền lợi của giai cấp cơng nhân mà cịn của tồn thể nhân dân Việt Nam. Nhà
nước dưới sự lãnh đạo của Đảng là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Khối đại đoàn
kết toàn dân tộc trong thời đại mới mà nền tảng là liên minh công nông và đội ngũ trí
thức ngày càng được chú trọng tăng cường. Tóm lại, tư tưởng của Người về vấn đề dân
tộc và giai cấp được Đảng ta áp dụng sâu rộng trong thời kì mới.
b) Trong hoạt động của bộ máy Nhà nước

Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc
vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp thiết.
Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, ở thời kì bao cấp, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng
5


CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh
vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp khơng được tính đến
đầy đủ và kết hợp hài hồ, sức mạnh dân tộc khơng được phát huy như một trong những
động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả
cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, có ý kiến cho rằng, vai trò lãnh đạo của
Đảng được thực hiện là từ Đảng có chủ trương đúng, ý Đảng hợp lịng dân, có cán bộ
đảng viên đi trước nêu gương, khơng cần phải có Hiến pháp cho phép. Hiến pháp năm
1946, Hiến pháp năm 1959, khơng có điều khoản quy định về vai trò lãnh đạo của
Đảng, nhưng Đảng vẫn lãnh đạo được nhân dân đấu tranh giành thắng lợi trong cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Từ
đó, họ đề nghị, tới đây khi sửa đổi Hiến pháp nên xóa bỏ Điều 4.
Hiến pháp thừa nhận Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội chứ không
phải cho phép Đảng được lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Hiểu Điều 4 của Hiến pháp như
là “giấy phép” cho Đảng là khơng đúng. “Giấy phép” cho Đảng có vai trị lãnh đạo
chính là lịng tin u của nhân dân. Từ khi Đảng ra đời đến nay, do ý Đảng hợp lòng
dân nên Đảng đã lãnh đạo được nhân dân ta đấu tranh giành được hết thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Hiến pháp khơng phải là “giấy phép” cho Đảng có vai trị lãnh đạo nhưng vì trong
xã hội có lực lượng của nhiều tổ chức chính trị - xã hội khác nhau nên sự thừa nhận
chính thức vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội
trong Hiến pháp là rất cần thiết. Với sự thừa nhận đó, Đảng có trọng trách trong việc

lãnh đạo xây dựng bộ máy chính quyền, trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân,
trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại để giành thắng lợi cho
cách mạng.
Điều 4 của Hiến pháp năm 1992 không chỉ thừa nhận Đảng là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội, mà còn quy định điều kiện Đảng phải có để giữ được vai trị lãnh
đạo. Điều kiện đó là Đảng phải gắn bó chặt chẽ với giai cấp công nhân, phải là đại biểu
trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mọi
tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nếu Đảng
khơng tự xây dựng được mình theo những điều kiện đó thì Đảng khơng có tư cách là
Đảng lãnh đạo.
c) Trong phát triển kinh tế
6


Thời kì bao cấp từ 1975 đến 1986, nước ta xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung dù đã góp phần vực dậy đất nước sau chiến tranh nhưng cũng bộc lộ nhiều sai lầm
gây hậu quả nghiêm trọng. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã bài trừ, phủ nhận hoàn
toàn kinh tế tư nhân, quy kết kinh tế tư nhân là kinh tế tư bản, là mầm mống chống lại
định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Nền kinh tế đó thực hiện chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất và phân phối bình quân mọi của cải làm ra, tất cả hoạt động kinh tế đều
theo mệnh lệnh hành chính bề ngồi mang ý nghĩa thống nhất dân tộc,bình đẳng con
người, mang hình thức của xã hội cộng sản. Song do đường lối chủ quan, duy ý chí đã
khơng nắm được bản chất mà vận dụng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung dẫn đến kìm
hãm đất nước trong nghèo đói, người làm ít cũng hưởng như người làm nhiều, tham ô,
tham nhũng, lũng đoạn kinh tế… Hậu quả là sản xuất ngày càng giảm sút,đất nước rơi
vào tình trạng thiếu hụt kinh niên.Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn.Các căng
thẳng xã hội do vậy đã xuất hiện và ngày càng gia tăng. Chính vì thế mơ hình kinh tế Xã
hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta chỉ tồn tại được
khoảng 30 năm, đến năm 1986, để cứu đất nước khỏi rơi vào khủng hoảng triền miên và
ngày càng trầm trọng hơn, chúng ta buộc phải tiến hành Đổi mới.

Bước vào thời kì Đổi mới từ 1986, chúng ta cần vận dụng linh hoạt và sáng tạo vấn
đề dân tộc và giai cấp trong phát triển kinh tế. Trước hết là cần huy động, phát huy sức
mạnh to lớn của toàn dân tộc để tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng
và Nhà nước xác định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đây
là hướng đi mới để phù hợp với tình hình đất nước trong giai đoạn quá độ nhưng vì
chưa từng có trong lịch sử nên địi hỏi tồn dân phải chung sức đồng lòng, thực hiện
tăng gia sản xuất, đồng thời vừa làm vừa rút kinh nghiệm kịp thời để từng bước thực
hiện kế hoạch đặt ra là làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Nền kinh tế thị trường được chủ nghĩa tư bản sáng tạo và vận dụng trong suốt mấy
trăm năm qua. Mơ hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
vẫn phải học tập theo mơ hình của các nước tư bản phát triển. Song không phải là chúng
sao chép y nguyên mà phải đúc rút ra những ưu điểm cũng như nhược điểm để áp dụng
cho thực tiễn đất nước. Chúng ta lấy kinh tế tư nhân làm động lực phát triển, khuyến
khích liên doanh, liên kết với nước ngoài để huy động nguồn lực trong và ngồi nước.
Nhưng vai trị của Nhà nước thông qua hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước và các
chính sách, pháp luật vẫn là chủ đạo. Nhà nước khơng ơm đồm, quản lí mọi hoạt động
như thời kì bao cấp mà làm nhiệm vụ điều tiết, phân phối hợp lí nền kinh tế. Nền kinh tế
thị trường tư bản hình thành thơng qua sự bóc lột giá trị thặng dư và sức lao động của tư
bản đối với giai cấp cơng nhân, dần dần hình thành độc quyền và sợi dây lợi ích mật
7


thiết giữa tư bản lớn, độc quyền với Nhà nước. Xác định được điểm khác biệt về vấn đề
giai cấp này, Đảng và Nhà nước đứng trên lập trường bảo vệ lợi ích của giai cấp cơng
nhân, nhân dân lao động và tồn thể dân tộc đảm bảo sự cơng bằng trong xã hội. Đặc
biệt ngăn chặn lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân, ngăn chặn các tổ chức tư nhân độc quyền,
lũng đoạn kinh tế. Nhà nước trực tiếp nắm 1 số ngành kinh tế thiết yếu để đảm bảo an
sinh xã hội.
Không những đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, Đảng ta rất chú trọng

phát triển nông nghiệp, chăm lo cho giai cấp nông dân. Việt Nam là một nước nông
nghiệp đang phát triển với đại bộ phân dân số là nơng dân. Vì vậy, giai cấp nơng dân
đóng vai trị vơ cùng quan trọng, là lực lượng liên minh keo sơn, gắn bó, khơng thể tách
rời với giai cấp công nhân tạo nên liên minh cơng nơng nịng cốt của đất nước. Đội ngũ
trí thức cũng được chú trọng, là một bộ phận không thể tách rời và xung phong trong
cơng cuộc cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật. Đảng và
Nhà nước cũng luôn chăm lo cho các dân tộc thiểu số, người dân nơi biên giới, hải đảo,
vùng đặc biệt khó khăn, thể hiện chính sách nhất qn trong lợi ích tồn dân, xóa bỏ
nghèo đói, lạc hậu, đảm bảo an ninh, quốc phòng.
d) Trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc - mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng, của dân tộc
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết là sức mạnh, là
mạch nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đại đồn kết dân tộc phải được xác định là mục
tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ
đường lối, chủ trương, chính sách tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Bên cạnh đó, trong
q trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải đứng vững trên lập trường giai cấp
cơng nhân, giải quyết hài hịa mối quan hệ giai cấp - dân tộc để tập hợp lực lượng,
khơng được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lịng trung thành và
sẵn sàng phục vụ Tổ quốc.
Tiếp thu tư tưởng đoàn kết rộng rãi như vậy, Đảng ta tiếp tục xây dựng vững mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời đại mới, mà hình thức tổ chức hiện nay là Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam. "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể thành viên có vai
trị rất quan trọng trong sự nghiệp đaị đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc..."
Đó là củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về chính trị và
tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước để
thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.

8



KẾT LUẬN
Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về mục tiêu, nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam có ý nghĩa lí luận và thực tiễn
sâu sắc trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
đến nay.
Dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh đã
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lê-nin vào cuộc cách mạng của nhân dân ta. Người
nêu bật lên vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết,trước hết, là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của Cách mạng Việt Nam, nhưng Người cũng luôn đứng trên quan
điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất của giai cấp cơng nhân, nhưng
gắn bó mật thiết với lợi ích của tồn dân tộc dựa trên nền tảng của liên minh công nhânnông dân và đội ngũ trí thức để huy động lực lượng tồn dân tộc đứng lên giải phóng
dân tộc, tạo tiền đề để giải phóng giai cấp. Bên cạnh đó, Người cũng nêu bật con đường
giải phóng dân tộc là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Sau khi giành được độc lập tự do, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp để thực
hiện những nhiệm vụ của thời đại mới. Đảng luôn đặt vấn đề dân tộc lên trước vấn đề
giai cấp, lãnh đạo Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đảng và Nhà nước đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân song thực hiện mục tiêu vì lợi ích của tồn thể nhân dân.
Đảng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phát huy sức mạnh đoàn kết tổng hợp
để tiến hành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, nhiệm vụ của
Cách mạng Việt Nam đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn
trong những khó khăn của hồ bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng
Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh cả dân tộc phải đối
mặt với mn vàn khó khăn để vừa giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc trước các thế lực thù địch; vừa phát triển kinh tế - xã hội trong khó khăn
của kinh tế tồn cầu thời kì khủng hoảng hiện nay.
Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững

chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá
trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
9


10



×